Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO VAI TRÒ LÃNH đạo CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM đối với CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH, ý NGHĨA đối với xây DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.49 KB, 16 trang )

1

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI
CÁCH MẠNG VIỆT NAM TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
Từ quan điểm muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì phải làm cách
mạng, Hồ Chí Minh đặt câu hỏi: “Cách mạng trước hết phải có cái gì?”. Sự
thắng lợi của cách mạng phụ thuộc nhiều yếu tố: khách quan và chủ quan, bên
trong và bên ngoài, truyền thống và hiện đại...Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh”. Người dùng từ “phải”
cũng có nghĩa đây là yếu tố bắt buộc, tuyệt đối khơng có sự lựa chọn nào
khác. Cách đây hơn 85 năm yêu cầu đó đã trở thành hiện thực: ngày 3/2/1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng đúng và kịp thời
những đòi hỏi của lịch sử. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là
lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân Việt Nam đã đồn kết, vượt qua mn
vàn khó khăn thử thách, làm nên những kỳ tích to lớn, đánh đổ chế độ thực
dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc; chiến thắng đế quốc Mĩ và bè lũ tay
sai bán nước, tiến tới thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội; tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phấn đấu thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận điểm cách mạng “ trước hết phải có Đảng cách mệnh” của Hồ Chí
Minh và việc khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh
đạo cách mạng Việt Nam dựa trên những cơ sở khoa học chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, một chủ
nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất và khoa học nhất làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Luận điểm trên đây
được Hồ Chí Minh khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX và sau
đó được Người nhắc lại, nhấn mạnh, bổ sung thêm nhiều lần. Tính cách mạng



2

và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp
công nhân, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, giành độc lập
dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa Mác Lênin đã soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam kháng
chiến cứu nước thành công, giữ gìn thành quả cách mạng của mình”.
Tính cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi, một
mặt Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam phải tuyệt đối trung thành
với chủ nghĩa ấy; mặt khác, trong quá trình cách mạng phải biết vận dụng sáng
tạo, phát triển làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin khơng phải là một thứ lý thuyết
giáo điều mà nó được vận dụng, phát triển trở thành hiện thực sinh động trên đất
nước mình. Hồ Chí Minh từng viết: “chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho
hành động chứ không phải là kinh thánh”1. Từ quan điểm như vậy, trong quá
trình tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nhiều luận
điểm quan trọng, đặc biệt là những vấn đề về cách mạng ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, chậm phát triển như nước ta và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quá trình cách mạng Việt Nam hơn 87 năm, đặc biệt
30 năm đổi mới vừa qua càng chứng tỏ vị trí nền tảng, kim chỉ nam của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị, tinh thần của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. “Khơng có một đường lối chính sách nào của
Nhà nước cách mạng chúng ta lại không bắt nguồn từ sự phát sáng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”2. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố hàng đầu bảo đảm tính tiên phong, cách mạng và
khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam.

1
2


Hồ Chí Minh, tồn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 247.
Lê Khả Phiêu, Báo nhân dân, ngày 19/8/1998, tr. 7.


3

Thứ hai, Đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam là những người ưu tú,
tiên tiến nhất trong dân tộc Việt Nam.
Ngay từ Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh
soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất ngày 3/2/1930 đã viết: Chỉ những người
tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình Đảng, hăng hái đấu tranh, dám hy
sinh, phấn đấu phục tùng mệnh lệnh Đảng thì mới được vào Đảng. Quan điểm
đó ln ln được Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam qn triệt, bổ
sung và phát triển.
Hồ Chí Minh có cách thể hiện khá độc đáo về tính tiên phong và gương
mẫu của người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nói chuyện tại lễ kỷ
niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Người chỉ rõ: “Đảng ta là con nòi, xuất
thân từ giai cấp lao động”. Luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh đã được lớp
lớp các thế hệ đảng viên của Đảng thể hiện sinh động trong quá trình Đảng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vấn đề này, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả
Phiêu một lần nữa đã khẳng định: “Trong cuộc chiến đấu mất còn với kẻ thù,
trong gian khổ, hy sinh, trong thắng lợi cũng như khi vấp váp, sai lầm, khuyết
điểm, Đảng ta vẫn đứng vững trên nền móng của một đứa con nịi” 1. Cần nói
thêm rằng, ngay trong những hồn cảnh đặc biệt khó khăn, tình thế “ngàn cân
treo sợi tóc”, thậm chí Đảng phải tuyên bố tự giải tán (thực chất là rút vào
hoạt động bí mật) thì phẩm chất ấy của những người Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam cũng không hề thay đổi. Đầu năm 1946 trả lời các nhà báo
nước ngồi, Hồ Chí Minh đã nói: “Vì hồn cảnh và trách nhiệm tơi phải đứng
ra ngồi đảng phái...Nếu cần có đảng phái thì sẽ là đảng dân tộc Việt Nam.
Đảng đó sẽ chỉ có mục đích làm cho dân tộc ta hồn tồn độc lập. Đảng viên

của Đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và tham

Lê Khả Phiêu, Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 2), Ban Chấp hành TƯ khoá
VIII, Nxb CTQG, H. 1999, tr. 51.
1


4

ơ ra ngồi”2. Chính vì Đảng bao gồm những người tiên tiến, những người có
phẩm chất và năng lực, có đức, có tài trong dân tộc, nên Hồ Chí Minh đã khái
quát: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Vai trò “trước hết”, chỉ nối, đưa
đường của Đảng còn được Hồ Chí Minh diễn đạt bằng những hình ảnh gần
gũi, dễ hiểu đối với người Việt Nam: Đảng ví như bánh lái trên một con
thuyền, bảo đảm cho thuyền chạy đúng hướng; Đảng ví như cái máy phát
điện; sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc ví như những ngọn đèn, máy mạnh
thì đèn mới sáng. Phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh, cơng cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành
được những thành tựu rất quan trọng. Và hơn lúc nào hết, cơng cuộc đổi
mới càng địi hỏi sự khẳng định quan điểm cách mạng “trước hết phải có
Đảng cách mệnh” của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, do lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động; do tính tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng
viên và toàn Đảng nên Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân Việt Nam tin
cậy, thừa nhận là lực lượng lãnh đạo duy nhất của dân tộc.
Ở Hồ Chí Minh, cách mạng, Đảng cách mạng và sự nghiệp cách mạng
gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu cách mạng là sự nghiệp của quần chúng thì
việc Đảng ra đời trước hết để lãnh đạo sự nghiệp đó. Đảng Cộng sản Việt
Nam khơng chỉ là Đảng của giai cấp cơng nhân, mưu lợi ích riêng cho giai
cấp công nhân và những người cộng sản, mà là Đảng của nhân dân và của cả

dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp của Đảng cũng đồng thời là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân; nếu Đảng xa rời nhân dân, đứng trên nhân dân hoặc
không lắng nghe ý kiến của nhân dân cũng có nghĩa là Đảng tự thủ tiêu mảnh
đất tồn tại hiện thực của chính mình. Gần 80 năm qua, nhân dân ta luôn luôn
coi Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình, Đảng lãnh đạo mình, “Đảng
2

Hồ Chí Minh Tồn tập, tập 4,Nxb CTQG, H. 2000, tr. 161, 162.


5

ta” hay “Đảng thân yêu của chúng ta” như những lời Hồ Chí Minh thường
nói. Sự gắn bó chặt chẽ đó làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng
tiên phong, mạnh mẽ và chắc chắn. Hồ Chí Minh kết luận: “ta có một Đảng to
lớn, mạnh mẽ. To lớn, mạnh mẽ là vì có chủ nghĩa Mác - Lênin, vì có sự cố
gắng khơng ngừng của tồn thể đồn viên, vì được tồn qn và tồn dân
thương u, tin cậy, ủng hộ”1.
Thứ tư, Đảng Cộng sản Việt Nam - ngọn cờ tập hợp trí tuệ, sức mạnh và
tinh hoa của dân tộc.
Sự ra đời của Đảng với mục đích, tơn chỉ, nguyện vọng tha thiết muốn
giành độc lập, tự do cho dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, đã làm nức lịng
hàng triệu con tim khối óc của dân tộc Việt Nam. Nhân dân Việt Nam đã tin
theo Đảng, hết lòng ủng hộ sự nghiệp của Đảng. Những người con ưu tú nhất
của dân tộc đã tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng, sẵn sàng xả thân vì
sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã bắt
nhịp hài hoà với chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam một Đảng mác xít “Một lịng một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngồi
lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”2.
Vì vậy, trải qua gần 80 năm, Đảng luôn là ngọn cờ tập hợp những lực
lượng ưu tú nhất của dân tộc vì sự nghiệp chung. Đảng quy tụ hầu hết những

con người ưu tú của đất nước. Đó là những nhà qn sự tài ba, những nhà
chính trị lỗi lạc, những nhà khoa học uyên thâm, những chiến sĩ dũng cảm
nhất trong cuộc đấu tranh vì sự phồn vinh của đất nước. Họ đến với Đảng bắt
đầu từ con đường của chủ nghĩa yêu nước và trở thành những người Mác xít Lêninnít kiên định. Chính vì vậy, mỗi khi đất nước lâm nguy, mỗi khi cần đến
sự hy sinh quên mình, thì những đảng viên của Đảng lại thể hiện rõ nhất bản
chất cách mạng của mình.
1
2

Sđd, tập 6, tr. 176.
Sđd, tập 7, tr. 335.


6

Chính vì biết tập hợp và phát huy trí tuệ, sức mạnh của dân tộc mà Đảng
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh thắng phát xít Nhật, thực dân Pháp và
đặc biệt là đế quốc Mỹ. “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân
ta trong sự nghiệp kháng chiến, cứu nước mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta
như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn
thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại nhất của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm
quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”1.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta vẫn cịn những mặt yếu
kém, hạn chế, thiếu sót, nhưng hàng vạn quần chúng tiến bộ, đặc biệt là thanh
niên vẫn tự nguyện đứng vào hàng ngũ của Đảng, nhằm đem hết sức mình
cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước. Bởi vì, họ tin rằng, chỉ có đứng
trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam mới có nhiều cơ hội cống hiến
cho đất nước. Quần chúng nhân dân vẫn tin vào Đảng, tin vào con đường mà
Đảng và Hồ Chí Minh đã vạch ra cho dân tộc.

Đảng vì dân, dân tin Đảng - đó là truyền thống quý báu của Đảng ta từ
khi ra đời đến nay. Lợi ích của đảng viên ở trong lợi ích của giai cấp, trong lợi
ích của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bộc bạch: Tơi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành. Tâm nguyện đó cũng chính là tơn chỉ, mục đích của Đảng ta. Ngày nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống của
mình là trung tâm tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh của dân tộc.
Những thành tựu qua 30 năm đổi mới toàn diện đất nước là cơ sở thực tiễn để
khẳng định bản chất tốt đẹp của Đảng và tạo lòng tin của quảng đại quần
chúng nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự
1

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, H. 1976, tr. 5,6


7

nghiệp trung của dân tộc ngày càng được khẳng định và đang tiến triển trên
những bước đi hết sức tốt đẹp.
Khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, quan điểm
cách mạng “ Trước hết phải có Đảng cách mệnh” được Hồ Chí Minh tiếp tục
khẳng định và nhấn mạnh hơn. Người cho rằng thắng đế quốc, phong kiến đã
khó, song thắng bần cùng và lạc hậu lại càng khó khăn hơn; và xây dựng chủ
nghĩa xã hội khó khăn hơn thắng kẻ thù giai cấp. Chính vì cách mạng xã hội
chủ nghĩa là cuộc biến đổi khó khăn và sâu sắc nhất, vì chủ nghĩa xã hội là
một cơng trình tập thể của quần chúng lao động do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo, nên Người đòi hỏi: “Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng cần phải mạnh hơn bao giờ hết” 1.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam đã chứng minh sinh động quan điểm cách mệnh trước hết phải có Đảng
cách mệnh của Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã
anh dũng đấu tranh làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với
sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp năm 1954, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước năm 1975 và thắng lợi của công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay là
những mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Sự thật lịch sử gần hơn 87 năm qua đã chứng minh: “Ở nước ta khơng có
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì khơng có độc lập dân tộc, khơng có quyền
làm chủ thực sự của nhân dân, khơng có Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
khơng thể thực hiện được cơng bằng xã hội, khơng thể có chủ nghĩa xã hội”2.
Để giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng phải thường xuyên
1
2

Sđd, tập8, tr. 494.
ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII , Nxb CTQG, H. 1996, tr. 47


8

chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức:
Nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc hoạch định
đường lối cách mạng.
Hoạch định đường lối và chủ trương đúng đắn, đáp ứng đòi hỏi của đất
nước và thời đại là vấn đề quyết định nhất để làm cho Đảng vững mạnh về
chính trị. Do vậy, Đại hội X của Đảng khẳng định: “Nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền, hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách. Tổ chức thực

hiện sáng tạo, có hiệu quả đường lối”1
Để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải phấn đấu khơng ngừng nâng cao
trình độ hiểu biết về học thuyết Mác -Lênin và trình độ vận dụng sáng tạo học
thuyết ấy vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy: học tập để
hiểu biết được thực chất cách mạng và khoa học của học thuyết đã là khó, nhưng
vận dụng học thuyết phù hợp thực tế xã hội Việt Nam cịn khó hơn nhiều. Muốn
hoạch định đường lối đúng phải xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam, vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để nắm bắt và giải quyết đúng đắn
những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Thắng lợi của cách mạng nước ta trong công
cuộc cứu nước, giữ nước và xây dựng đất nước chính là Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khơng dừng lại ở những nguyên lý chung mà luôn luôn bám sát thực
tiễn đất nước, kịp thời phát hiện những vấn đề mới, tìm tịi, nghiên cứu, phát hiện,
dự đốn, phân tích và tìm cách giải quyết những vấn đề cụ thể của mỗi thời kỳ,
mỗi địa phương. Đây chính là bài học về tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng. Tính độc lập tự chủ về chính trị địi
hỏi trước tiên phải nắm vững quy luật phổ biến của học thuyết Mác - Lênin. Xa
rời hoặc phủ định những quy luật đó là đưa cách mạng đi chệch hướng. Nhưng
như Lênin đã chỉ rõ: Linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 279.


9

tình hình cụ thể, vì vậy thực hiện quy luật phổ biến lại phải phù hợp với đặc điểm
nước mình. Đây chính là tư tưởng Hồ Chí Minh - một kho tàng lý luận về vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể cách
mạng nước ta. Hai mặt đó là thống nhất không thể tách rời. Thắng lợi của cách
mạng là sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai mặt, thất bại và sai lầm là do tách rời hai

mặt đó.
V.I.Lênin đã để lại những lời dạy hết sức quý báu về sự kết hợp hai mặt
này. Theo Lênin, để kết hợp nhần nhuyễn hai mặt đó, cần đấu tranh trên hai
mặt trận: Chống lại chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa cộng sản “tả” khuynh.
Trường hợp thứ nhất là nói về chủ nghĩa xét lại, trường hợp thứ hai là nói về
bệnh ấu trĩ “tả” khuynh. Sự cần thiết của cuộc đấu tranh này xuất phát từ chỗ
nhận thức rõ mục đích chung của phong trào cộng sản quốc tế là chiến thắng
giai cấp tư sản, “song mỗi nước lại hoàn thành quá trình phát triển ấy theo
cách thức riêng của mình”1 sao cho thích hợp với “những đặc điểm dân tộc và
đặc điểm của Nhà nước - dân tộc”2.
Kinh nghiệm của Đảng ta trong việc kết hợp lý luận với thực tiễn, chống
hai khuynh hướng hữu và “tả” để thực hiện mục tiêu cách mạng cho thích hợp
là tổng kết thực tiễn, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, sâu sắc, từ thực tiễn
rút ra kinh nghiệm, từ kinh nghiệm nâng lên lý luận. Lời dậy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh
đạo thực hành” có ý nghĩa quan trọng.
Ý nghĩa của tổng kết thực tiễn không chỉ ở chỗ nâng cao năng lực hoạch
định đường lối, mà cịn là biện pháp rất cơ bản để tính nâng tính độc lập tự
chủ, sáng tạo, tự lập, tự cường của Đảng, quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thiết
thực nhất. Qua tổng kết thực tiễn mà khẳng định ưu điểm, phát hiện sai lầm,
1, 2

V.I. Lênin Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 95, 96


10

bổ sung, hoàn chỉnh đường lối. Đảng ta trưởng thành và đáp ứng đòi hỏi của
cách mạng bằng con đường đó.

Khơng ngừng nâng cao trình độ và năng lực tổ chức thực hiện lên ngang
tầm đòi hỏi của đường lối, có đường lối đúng là vấn đề có ý nghĩa quyết định
hàng đầu. Nhưng Đảng phải xây dựng, rèn luyện khơng ngừng nâng cao trình
độ và năng lực tổ chức thực hiện lên ngang tầm đòi hỏi của đường lối thì mới
có thể biến đường lối thành hiện thực. Tổ chức thực hiện bao gồm công tác
xây dựng Đảng về tư tưởng và xây dựng Đảng về tổ chức. Tổ chức thực hiện
để quán triệt đường lối và qua kiểm nghiệm đường lối trong thực tiễn để cụ
thể hoá, bổ sung và khơng ngừng hồn thiện đường lối.
Cơng tác tư tưởng biến đường lối thành hiện thực.
Nội dung cơ bản của công tác tư tưởng là không ngừng nâng cao trình độ
hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng, trau dồi phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, nâng cao
niềm tin và ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là trong
giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, đấu tranh không khoan nhượng với
những luận điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính
sách của Đảng, tăng cường đồn kết nhất trí trong Đảng và trong xã hội.
Trong mọi điều kiện hoạt động - đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm
quyền - Đảng không lúc nào được buông lỏng việc giáo dục, nâng cao đạo
đức, phẩm chất cách mạng trong Đảng. Quá trình bồi dưỡng phẩm chất cho
cán bộ, đảng viên là quá trình vừa “xây” vừa “chống”, lấy “xây” làm chính.
Có “xây” được tốt thì “chống” mới có kết quả, nhưng “xây” mà khơng
“chống” thì khơng củng cố được thành quả của “xây”. Kinh tế thị trường ngày
càng phát triển, quan hệ hợp tác với nước ngoài ngày càng mở rộng, khi các
thế lực thù địch cùng với bọn cơ hội, phản bội, phối hợp chống phá cách
mạng, thực hiện âm mưu “Diễn biến hồ bình” thì việc giáo dục, rèn luyện về


11

đạo đức, phẩm chất cách mạng và quản lý đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên,

có ý nghĩa sống còn đối với chế độ mới.
Gắn liền với giáo dục thường xuyên để nâng cao truyền thống đạo đức
tốt đẹp của Đảng, Đảng phải kiên quyết chống sự sa sút, thối hố về phẩm
chất chính trị của một số cán bộ, đảng viên - trước hết trong bộ phận có chức,
có quyền - chạy theo đồng tiền, tham nhũng, bn lậu, làm ăn bất chính, danh
vị, chia rẽ bè phái, hách dịch cửa quyền, vi phạm quyền dân chủ của nhân
dân. Việc giáo dục quản lý trong Đảng phải phối hợp chặt chẽ với việc tăng
cường pháp luật Nhà nước và sự quản lý của Nhà nước.
Trong tình hình hiện nay, cơng tác tư tưởng ngày càng có vai trị quan
trọng trong việc giữ vững trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cung cấp luận cứ
khoa học, tiếp tục làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lý luận, về mơ hình, bước đi và
giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, những vướng mắc trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhận thức về định hướng xã hội chủ nghĩa,
về kinh tế thị trường, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về Nhà nước
pháp quyền, về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, về xây dựng Đảng trong điều
kiện mới.
Công tác tư tưởng - lý luận địi hỏi khơng ngừng đổi mới cả về nội dung
và hình thức, phát huy được tính chủ động, chất lượng và thuyết phục cao.
Các cấp uỷ Đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc phối hợp các binh chủng
trên mặt trận tư tưởng, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trên mặt trận tư tưởng.
Chất lượng của hệ thống tổ chức và đội ngũ đảng viên - nhân tố quan
trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng.
Sức mạnh của Đảng cuối cùng phải được bảo đảm bằng hệ thống tổ chức và
đội ngũ đảng viên vững mạnh. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, tổ chức Đảng
mạnh thì đảng viên mới phát huy được phẩm chất, tài năng của mình. Tổ chức
Đảng mạnh là do có nhiều đảng viên tốt. Chỉnh đốn đội ngũ đảng viên phải đi đôi


12


với kiện toàn tổ chức và trong điều kiện Đảng cầm quyền, kiện tồn tổ chức Đảng
phải đi đơi với kiện toàn tổ chức Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
Đảng viên là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân. Tiêu
chuẩn đảng viên được xây dựng căn cứ vào bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, gắn với những yêu cầu nhiệm vụ chính trị cụ thể từng giai đoạn, từng thời
kỳ, xứng đáng là “người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Trên cơ sở tiêu chuẩn đảng viên phải tiến hành ba mặt cơng tác quan hệ khăng
khít với nhau: kết nạp đảng viên mới, nâng cao chất lượng đảng viên và đưa
những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Trong thời kỳ cầm quyền, Đảng
phải có đủ số lượng đảng viên cần thiết, những đặc biệt lấy chất lượng làm chính,
củng cố đi đơi với phát triển. Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng. Đẩy mạnh và bảo đảm chất lượng cơng tác phát triển Đảng. Chú trọng
trẻ hố và nâng cao trình độ đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi
dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo,
người tiên phong trong lĩnh vực cơng tác được giao”1
Đồn kết nhất trí và gắn bó với nhân dân - Đó là nguồn gốc sức mạnh
vô địch của Đảng
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết
của Đảng và truyền thống đồn kết dân tộc. Có đoàn kết được toàn Đảng mới
đoàn kết được toàn dân. Trong Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn
dặn: các đồng chí ta từ Trung ương đến các chi bộ, cần phải giữ gìn sự đồn
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Đồn kết thống nhất trong Đảng trước hết dựa trên cơ sở chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đúng của Đảng. Thực tiễn
cách mạng luôn luôn đặt ra những vấn đề mới, cho nên trong Đảng dễ nảy
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 133.



13

sinh những ý kiến khác nhau. Đó là hiện tượng bình thường, khơng nên coi
đó là mất đồn kết.
Trong mọi quá trình cách mạng, Đảng giải quyết những sự khác nhau bằng
con đường nâng cao nhận thức, dân chủ thảo luận trong tổ chức trên tinh thần xây
dựng và chế độ tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Tư tưởng Hồ Chí Minh coi tự
phê bình làm gốc, trước hết là từ cơ quan lãnh đạo và người đứng đầu. Tự phê
bình và phê bình trong Đảng phải có lý, phân biệt rõ đúng, sai, phải, trái, đồng
thời phải có tình đồng chí thương u nhau.
Đồn kết trong Đảng phải dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung
trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung. Chế độ tập trung dân
chủ đòi hỏi lãnh đạo tập thể phải đi đôi với trách nhiệm cá nhân, chống chun
quyền độc đốn, dân chủ hình thức. Đồng thời chống ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể
thiếu trách nhiệm cá nhân.
Vai trị hạt nhân đồn kết của cơ quan lãnh đạo, của người đứng đầu luôn luôn
là yếu tố quan trọng của sự đồn kết nhất trí trong Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, chủ nghĩa cá nhân là một nguyên nhân quan trọng gây ra mất đồn kết. Vì vậy
thường xun coi trọng việc nâng cao đạo đức cách mạng, phê phán và khắc phục
chủ nghĩa cá nhân có tác dụng tích cực bảo đảm đồn kết thống nhất trong Đảng.
Thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng và nhất là khi đã trở thành Đảng cầm
quyền là thường xuyên làm cho Đảng, làm cho hệ thống chính trị thấu suốt quan
điểm cách mạng ln ln là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền - khi dân đã thực sự trở thành người
làm chủ xã hội - Những thành tựu to lớn của cách mạng nước ta chính là kết
quả của ý thức làm chủ và năng lực làm chủ của toàn thể nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Muốn huy động toàn dân xây dựng đất nước, Đảng phải
có chiến lược và các chính sách đáp ứng lợi ích vật chất và tinh thần của các
tầng lớp nhân dân một cách thiết thực. Đó là chiến lược truyền thống; thống



14

nhất lợi ích dân tộc và lợi ích các giai cấp trên cơ sở mục tiêu chung. Mục tiêu
chung ấy đã được xác định bằng khẩu hiệu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh” đó là “điểm đồng” của tồn thể dân tộc. Cơng
tác dân vận là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị. Đảng cần tiếp tục
đổi mới sự lãnh đạo đối với cơng tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ
thống tổ chức của Đảng phải là hạt nhân, đi đầu trong phong trào dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng cần tiếp tục đa dạng
hố các hình thức tổ chức tập hợp nhân dân, đáp ứng được nhu cầu, lợi ích
của các tầng lớp của nhân dân trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.
Đảng phải tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để
động viên, tổ chức lực lượng của cả dân tộc trên nền tảng liên minh cơng nơng - trí.
Để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo, Đảng không ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm
quyền.
Là Đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong tình hình mới cần có phương thức lãnh đạo để
nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai
trò và hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ
thống chính trị hoạt động năng động có hiệu lực và hiệu quả.
Hai khuynh hướng cần khắc phục là bao biện, làm thay công việc của
Nhà nước, các đồn thể và khuynh hướng bng lỏng, coi nhẹ bỏ mất vai trị
lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục đổi mới cơng tác cán bộ.


15


Đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo trước hết là nhờ đội ngũ cán bộ,
“cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hay thất bại đều
do cán bộ tốt hoặc kém”1.
Lịch sử của Đảng ta từ khi thành lập đến nay chỉ rõ: Sự đúng đắn, sáng
tạo về đường lối cũng như chất lượng, hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối,
cuối cùng tuỳ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ - trước hết là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt. Lựa chọn bố trí đúng người đứng đầu có đủ bản lĩnh, phẩm
chất, tài năng, đã qua thử thách là khâu quyết định trong cơng tác cán bộ.
Hồn cảnh lịch sử mới địi hỏi công tác cán bộ của Đảng phải gắn chặt với
việc xây dựng, củng cố tổ chức của hệ thống chính trị, mà trọng tâm là xây
dựng cho được Nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Đảng
thực hiện nguyên tắc từ tổ chức, từ công việc mà bố trí, sắp xếp cán bộ, chứ
khơng phải vì cán bộ mà đặt ra tổ chức. Đội ngũ cán bộ trưởng thành là do
Đảng ta thường xuyên thông qua các phong trào quần chúng để phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách đội ngũ cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở cho mọi khâu đánh giá, lựa chọn, đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng. Tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn cách
mạng hiện nay được Đại hội X của Đảng xác định là: Có phẩm chất chính trị
tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích
của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động
trước những khó khăn, thách thức; có năng lực hồn thành nhiệm vụ được
giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật
cao, tơn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Nhận xét, đánh giá cán bộ phải ln ln lấy kết quả hồn thành nhiệm vụ
làm căn cứ chủ yếu. Chính sách cán bộ đúng sẽ tác động tích cực đến việc hồn
thành và phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ cán bộ. Để đẩy mạnh sự phát triển
1

Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 273.



16

đất nước trong thời đại ngày nay, Đảng và Nhà nước ta càng phải coi trọng việc
tập hợp, trọng dụng nhân tài. Chất lượng công tác cán bộ tuỳ thuộc rất nhiều vào
chất lượng quản lý cán bộ. Vì vậy, Đảng phải khơng ngừng đổi mới, hồn thiện
cơng tác quản lý cán bộ và kết hợp chặt chẽ công tác quản lý của Đảng với công
tác quản lý của Nhà nước và cả hệ thống chính trị về cơng tác cán bộ.



×