Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI GIỮA LUẬT CÔNG và LUẬT tư ở đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.29 KB, 10 trang )

PHÂN ĐỊNH RANH GIỚI GIỮA LUẬT TƯ VÀ LUẬT CÔNG Ở ĐỨC
Nước Đức như chúng ta đã biết chỉ có sự thống nhất trong thời gian ngắn
ngủi (1867-1945) và từ 1990 đến nay, trước năm 1867 Đức có nhiều loại Luật
bằng nhiều thứ tiếng khác nhau; Hệ thống pháp luât Đức là hệ thống pháp luật
liên bang, mỗi bang có một nghị viện riêng, có thẩm quyền lập pháp. Bộ luật
dân sự Đức là bộ luật điển hình hay còn gọi là bộ luật của các giáo sư, vì nó
được các giáo sư trong các trường đại học ở Đức soạn thảo, khác với Pháp là
do các luật gia có kinh nghiệm soạn thảo, tuy nó có cấu trúc hợp lý, rõ ràng
nhưng lời văn không dễ hiểu, sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành, Bộ luật
dân sự Đức có 2400 đoạn, 5 quyển (phần chung, nghĩa vụ, các quyền tài sản và
quyền sở hữu, luật gia đình, luật thừa kế), nội dung có tham vọng điều chỉnh
nhiều vấn đề, riêng bộ luật dân sự Pháp thì lại cố gắng điều chỉnh tất cả mối
quan hệ trong xã hội kể cả lĩnh vực thương mại, đối với Đức thì có Bộ luật
thương mại riêng.
Hệ thống Toà án của Đức hơi phức tạp, có toà Hiến pháp, toà án bang
(16 bang) và toà án liên bang (6 toà án) và toà khu vực, những vụ việc dân sự
thì được xét xử ở cấp khu vực, phúc thẩm ở cấp bang và chung thẩm ở cấp liên
bang; đối với những vụ việc nghiêm trọng thì xét xử cấp bang và phúc thẩm,
chung thẩm cấp liên bang. Toà án Hiến pháp giải quyết các vấn đề liên quan
đến hiến pháp, tranh chấp giữa liên bang và bang hoặc các bang với nhau. Đối
với toà liên bang bao gồm các toà như: toà thuế, các vấn đề xã hội, các vấn đề
lao động, các vấn đề hành chính và các vấn đề chung. Toà án bang được tổ
chức như các toà án của liên bang; Toà khu vực xét xử các lĩnh vực xã hội, lao
động, hành chính dân sự, hình sự, thương mại được tách ra từ toà xét xử các
vấn đề chung của toà bang.
Việc phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư đã trở thành
một truyền thống pháp luật ở Đức cũng như những nước thuộc hệ thống pháp
luật Châu Âu lục địa. Vấn đề tưởng như đã rõ ràng, đã trở thành kinh điển,
nhưng vẫn còn đó nhiều vấn đề bỏ ngỏ cần lời giải đáp như: Tư tưởng, học
thuyết về phân chia hệ thống pháp luật thành luật công và luật tư có từ bao giờ,



được kế thừa, phát triển ra sao ở Đức? Những lĩnh vực pháp luật cụ thể nào
thuộc luật công, luật tư? và quan niệm của các nhà luật học Đức hiện nay về
vấn đề này như thế nào, những vấn đề lý luận nào cần tiếp tục được giải đáp?
Thông tin khoa học dưới đây sẽ góp phần làm sáng tỏ những câu hỏi trên từ
góc nhìn lịch sử pháp luật và thực tiễn lý luận ở CHLB Đức.
1.Lịch sử phân chia luật công và luật tư
*Học thuyết lợi ích
Tư tưởng, học thuyết phân chia luật công và luật tư đã có rất sớm từ thời
La Mã cổ đại. Nhà triết học Cicero ngay từ thế kỷ I TCN đã đưa ra quan điểm
rằng pháp luật gồm có hai bộ phận cấu thành gồm: những qui định pháp luật
điều chỉnh các quan hệ cá nhân và những qui định pháp luật điều chỉnh các
quan hệ công.1
Đến thế kỷ II SCN, nhà luật học La Mã Ulpian (170–228 SCN) đã đưa ra
học thuyết phân chia giữa luật tư và luật công (Ius publicum) dựa trên cơ sở lợi
ích (hay còn gọi là học thuyết lợi ích). Học thuyết này phân biệt: Luật công liên
quan đến lợi ích của nhà nước và lợi ích công cộng, luật tư liên quan đến lợi ích
của cá nhân.2
*Học thuyết quan hệ giữa các chủ thể
Đến thế kỷ XIX, những tư tưởng về sự phân chia giữa luật công và luật
tư của Luật La Mã được kế thừa và phát triển thông qua học thuyết dựa trên
quan hệ giữa các chủ thể (hay còn gọi là học thuyết quan hệ giữa các chủ thể).
Học thuyết này phân chia: Nếu là quan hệ có tính thứ bậc giữa nhà nước và
công dân thì đó là quan hệ pháp luật do luật công điều chỉnh, còn quan hệ mà
các bên tham gia là quan hệ bình đẳng thì đó là quan hệ pháp luật của luật tư
điều chỉnh.3
*Học thuyết hành vi của chủ thể
Học thuyết đương đại hiện nay ở Đức về phân chia luật công và luật tư là
học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể. Theo học thuyết này,
việc phân định luật công hay luật tư cần phải dựa trên tiêu chí hành vi của chủ

thể khi tham gia các quan hệ pháp luật, theo đó luật công là tổng thể những qui
phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể được nhà nước trao quyền


nhằm thực thi chức năng, nhiệm vụ công. Luật tư là tổng thể những qui phạm
pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể dựa trên các qui phạm của luật dân
sự4. Ví dụ: Một trường Đại học công là pháp nhân của luật công. Khi nhà
trường ban hành qui chế và áp dụng đối với sinh viên đó là quan hệ luật công.
Khi nhà trường mua văn phòng phẩm, bàn ghế với một cá nhân hoặc doanh
nghiệp cụ thể, đó là quan hệ luật tư. Tương tự như vậy, giáo sư ở Đức là một
công chức. Khi giáo sư giảng bài, chấm bài cho sinh viên đó là quan hệ pháp
luật của luật công. Trong giờ nghỉ, giáo sư đi ra ngoài mua bánh Pizza thì đó lại
là quan hệ thuộc sự điều chỉnh của luật tư.
2. Phê phán điểm hạn chế của các học thuyết
*Học thuyết dựa trên lợi ích
Nếu chỉ dựa vào yếu tố lợi ích để phân chia luật công và luật tư thì có
nhiều vấn đề pháp lý chưa rõ ràng. Vấn đề nằm ở chỗ thế nào là lợi ích công và
thế nào là lợi ích tư? Thực tế nhiều vấn đề pháp lý thuộc luật công lại liên quan
đến cả lợi ích tư và ngược lại.Ví dụ chế định quyền cơ bản của công dân là một
chế định của luật công, thuộc lĩnh vực Luật nhà nước. Tuy nhiên thực tế những
quyền cơ bản được qui định trong Luật cơ bản của Đức có mục đích chính là
bảo vệ lợi ích tư, lợi ích của công dân. Hoặc một bể bơi, một trường tư trong
thành phố được thành lập mặc dù dưới tên gọi là công ty hoạt động theo luật tư
nhưng mục đích chính của công ty lại là vì lợi ích công cộng.5
*Học thuyết dựa trên quan hệ giữa các chủ thể
Học thuyết này cũng không làm rõ thế nào là "quan hệ bình đẳng". Quan
hệ giữa các bên bình đẳng “trước” hay cần cả “trong” và “sau” mỗi qui phạm
pháp luật? Hơn nữa, nếu thuật ngữ "quan hệ bình đẳng" được thừa nhận đi nữa
thì thực tế không phải lúc nào trong quan hệ giữa các chủ thể của luật công
cũng là bất bình đẳng. Ví dụ: Các bên trong hợp đồng công vụ giữa các chủ thể

của luật công là các cơ quan nhà nước.Trong luật tư cũng vậy, không phải mọi
quan hệ của luật tư cũng đều là bình đẳng. Thực tế trong luật tư cũng có những
quan hệ ít nhiều mang tính thứ bậc do địa vị về kinh tế hoặc địa vị xã hội qui


định như: quan hệ giữa cha mẹ và con cái dưới 18 tuổi trong Luật gia đình hoặc
giữa người tuyển dụng lao động và người lao động trong Luật lao động.6
* Học thuyết dựa trên cơ sở phân loại hành vi của chủ thể
Học thuyết này cũng chưa làm rõ được nhiều vấn đề phát sinh hiện nay
là thuộc chế định của luật tư hay luật công. Ví dụ: các vấn đề liên quan đến
công chứng tư, doanh nghiệp nhà nước đã được tư nhân hóa một phần, trách
nhiệm bồi thường nhà nước do người thi hành công vụ gây ra v.v…Chẳng hạn
hiện nay ở Đức việc xác định vấn đề trách nhiệm bồi thường nhà nước là thuộc
lĩnh vực luật công hay luật tư vẫn là đề tài có nhiều ý kiến tranh luận. Có người
cho rằng đó là một chế định của luật công vì cho rằng bản chất đây là quan hệ
giữa một bên là nhà nước và một bên là người bị thiệt hại do hành vi của người
thi hành công vụ gây ra (Điều 34 Câu 1 Luật cơ bản). 7 Có người cho rằng đây
là một chế định của luật tư vì lý thuyết bồi thường nhà nước ra đời là do đòi hỏi
nhà nước pháp quyền, bản chất quan hệ giữa nhà nước và người bị thiệt hại ở
đây là quan hệ bình đẳng, bên nào gây ra thiệt hại thì bên đó phải bồi thường và
Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo luật là Tòa dân sự, không phải là Tòa
hành chính (Điều 839 Bộ luật dân sự, Điều 34 Câu 3 Luật cơ bản).8
Cụ thể hơn trong lĩnh vực này, nếu chỉ căn cứ vào yếu tố hành vi bên
ngoài cũng rất khó để xác định ranh giới luật công và luật tư, chẳng hạn như
trường hợp một cảnh sát gây thiệt hại cho một công dân trong quá trình thi
hành công vụ, về hình thức đây là trường hợp thuộc trách nhiệm bồi thường
nhà nước, nhưng nếu ẩn sau hành vi gây thiệt hại đó là một động cơ cá nhân thì
nhà nước có bồi thường không và thuộc lĩnh vực luật công hay luật tư? Làm thế
nào để xác định điều này? Hoặc trong trường hợp hành vi thực hiện chức năng
hành chính của nhà nước, nhưng dưới hình thức tổ chức của luật tư trong lĩnh

vực luật tư hành chính9 mà gây thiệt hại cho bên thứ ba, ví dụ cảnh sát thuê một
công ty tư nhân vận chuyển một chiếc xe đỗ trái phép. Hành vi của công ty tư
nhân có phải là hành vi nhân danh công quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của nhà nước hay không? Khi thực hiện việc vận chuyển chiếc xe đỗ trái phép


đó mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường sẽ thuộc về ai? Vấn đề này hiện
còn bỏ ngỏ và gây rất nhiều tranh cãi ở Đức.10
Như vậy, ngay cả với học thuyết phân loại hành vi, nếu chỉ dựa vào duy
nhất một tiêu chí là căn cứ vào hành vi của chủ thể thì trong nhiều trường hợp
cũng không làm rõ được vấn đề pháp lý thuộc lĩnh vực nào, luật công hay luật
tư. Thực tế hiện nay ở Đức khi cần phải nhận diện một qui phạm pháp luật nào
đó thuộc luật công hay luật tư, các nhà khoa học vận dụng đồng thời cách thức
phân chia của cả ba học thuyết nói trên, dựa trên cả ba tiêu chí lợi ích, quan hệ
giữa các chủ thể và hành vi của các chủ thể để xác định.11
Chính sự hạn chế của các học thuyết phân chia luật công và luật tư ở
Đức nên việc xác định lĩnh vực pháp luật cụ thể nào thuộc luật công và những
lĩnh vực pháp luật nào thuộc luật tư cũng còn có những ý kiến khác nhau.12
Theo từ điển pháp luật và các giáo trình luật ở Đức thì các lĩnh vực pháp
luật được phân chia như sau: Những lĩnh vực pháp luật thuộc luật tư gồm:
- Luật dân sự;
- Luật kinh doanh (bao gồm Luật thương mại, Luật doanh nghiệp và Luật
cạnh tranh;
- Luật về séc và các giấy tờ có giá trị;
- Luật lao động;
- Luật bảo hiểm tư nhân13.
Những lĩnh vực pháp luật thuộc luật công được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa
hẹp, luật công chỉ bao gồm luật nhà nước và luật hành chính. Nghĩa rộng, luật công
còn bao gồm cả Luật hình sự, Luật tố tụng (bao gồm luật tố tụng hình sự và tố tụng
dân sự, Luật thuế, Luật quốc tế và Luật liên minh Châu Âu.14

3.Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tế
Phân định ranh giới giữa luật công và luật tư là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa nhiều mặt cả về mặt lý luận và thực tế ở Đức.Về lý luận, việc phân chia
này sẽ giúp xây dựng và đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ của cả hệ thống pháp
luật. Về thực tế, việc xác định ranh giới giữa luật công và luật tư đem lại hiệu
quả thiết thực đối với cả ba hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và
hoạt động xét xử.
Đối với hoạt động xây dựng pháp luật, việc phân chia ranh giới giữa luật
công và luật tư sẽ giúp các nhà làm luật xác định được vấn đề nào cần phải điều


chỉnh, điều chỉnh bằng phương pháp gì, mức độ điều chỉnh ra sao thì phù hợp.
Chẳng hạn, khi xác định vấn đề pháp luật cạnh tranh là lĩnh vực thuộc luật tư
thì nhà làm luật sẽ không dùng những phương pháp hoặc công cụ có tính mệnh
lệnh, hành chính để điều chỉnh hay áp đặt cho những quan hệ pháp luật của lĩnh
vực này.
Đối với hoạt động áp dụng pháp luật, khi đã xác định được vấn đề nào
thuộc luật công, vấn đề nào thuộc luật tư, việc vận dụng qui phạm pháp luật để
giải quyết cho phù hợp cho từng trường hợp cũng như việc xác định hậu quả
pháp lý sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn. Chủ thể áp dụng pháp luật có thể xác
định được nguyên tắc, biện pháp hay công cụ nào được sử dụng. Tuy nhiên trên
thực tế, một tình huống pháp luật thường liên quan đến cả các qui phạm của
luật công và luật tư, do vậy việc áp dụng pháp luật của cơ quan hành chính cần
phải có am hiểu một cách đầy đủ các qui định pháp luật của cả luật công và luật
tư. Chẳng hạn như một vụ tai nạn giao thông ở Đức, để giải quyết hậu quả pháp
lý, có thể cần đến việc xem xét nhiều qui phạm pháp luật liên quan đồng thời
đến cả luật công và luật tư, tùy tính chất, mức độ. Cụ thể:
- Liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại: Điều 7 Luật giao thông
đường bộ, Điều 823 Bộ luật dân sự và Điều 1 Luật bảo hiểm trách nhiệm.
- Liên quan đến việc tước bằng lái xe: Nếu người điều khiển phương tiện

mà nồng độ cồn trong máu hoặc trong khí thở vượt quá mức cho phép có thể bị
tước bằng lái xe (Điều 3 Luật giao thông đường bộ).
- Liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự: Nếu điều khiển phương
tiện gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe hoặc tính mạng người khác thì căn
cứ vào kết luận của cảnh sát hoặc cơ quan công tố, người điều khiển phương
tiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 315c hoặc 316 Bộ luật
hình sự.
- Liên quan đến trách nhiệm bồi thường nhà nước: Nếu người điều khiển
phương tiện là cảnh sát đang trong quá trình thi hành công vụ mà gây tai nạn
cho công dân một cách có lỗi thì trường hợp này lại liên quan đến trách nhiệm


bồi thường của nhà nước do người thi hành công vụ gây ra (theo Điều 34 Luật
cơ bản, Điều 839 Bộ luật dân sự).
Trong hoạt động xét xử, việc xác định vấn đề pháp lý nào thuộc lĩnh vực
luật công hay luật tư cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Trước hết việc xác định
tranh chấp thuộc lĩnh vực nào sẽ xác định được rõ vấn đề Tòa án nào có thẩm
quyền giải quyết, qui phạm pháp luật nào sẽ được thẩm phán vận dụng để xử lý
tình huống pháp lý.
Kết luận:
Ngày nay đứng trước xu hướng tư nhân hóa, xã hội hóa các nhiệm vụ
của nhà nước, ngày càng nhiều những chủ thể thực hiện chức năng hành chính
nhưng lại hoạt động dưới hình thức pháp lý của luật tư (thuộc lĩnh vực luật tư
hành chính) ví dụ như hoạt động “công chứng tư”. Vấn đề pháp lý đặt ra là khi
thực hiện những công việc thuộc chức năng hành chính như vậy mà gây thiệt
hại cho một bên thứ ba thì đó là quan hệ pháp luật hành chính (thuộc luật công)
hay quan hệ dân sự (thuộc luật tư), Tòa án nào sẽ có thẩm quyền thụ lý giải
quyết vụ việc: Tòa hành chính hay Tòa dân sự? Ở Đức, đây là vấn đề cũng còn
gây nhiều tranh cãi15, mặc dù, dưới góc độ luật thực định, trong những trường
hợp như vậy, pháp luật vẫn qui định Tòa dân sự có thẩm quyền giải quyết,

nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị xâm hại (Điều 34 Khoản
3 Luật cơ bản 1949, Điều 14 Khoản 3 Câu 4 Luật cơ bản 1949, Điều 839 Bộ
luật dân sự Đức 1900).
Tóm lại, qua việc nghiên cứu dưới góc độ lý luận - lịch sử các học thuyết
phân chia giữa luật công và luật tư, lấy ví dụ từ thực tiễn pháp luật của CHLB
Đức như trên, có thể rút ra những nhận định khoa học như sau:
Thứ nhất, tư tưởng, học thuyết về phân chia hệ thống pháp luật thành
luật công và luật tư đã xuất hiện rất sớm từ thế kỷ thứ I TCN, ở La Mã cổ đại.
Trong số những tư tưởng học thuyết về vấn đề này, đến nay về mặt lý thuyết ở
Đức tồn tại ba học thuyết: Học thuyết dựa trên cơ sở lợi ích, học thuyết dựa
trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể và học thuyết dựa trên cơ sở phân loại
hành vi của chủ thể. Quá trình hình thành và phát triển của những học thuyết


này cho thấy sự đa dạng của các học thuyết, các cách thức phân chia và dòng
chảy liên tục của lịch sử trong việc tìm lời giải xác định ranh giới giữa luật
công và luật tư.
Thứ hai, các học thuyết nói trên đều có những ưu điểm, đều dựa trên
những tiêu chí xác định cụ thể. Tuy vậy cả ba học thuyết cũng đều chứa đựng
những hạn chế nhất định và chưa có học thuyết nào giải đáp các trường hợp
trên thực tế phát sinh ngày càng đa dạng một cách rạch ròi, đầy đủ, toàn diện
đâu là luật công, đâu là luật tư. Chính vì lý do đó, các nhà khoa học pháp lý ở
Đức hiện nay vận dụng đồng thời những giá trị tích cực, cách thức phân chia
của cả ba học thuyết này, trên cả ba tiêu chí lợi ích, quan hệ giữa các chủ thể và
hành vi của các chủ thể.
Thứ ba, các nhà lý luận luôn muốn phân chia rõ ràng giữa luật công và
luật tư, nhưng trên thực tế bản chất các tình huống pháp lý phát sinh lại không
rạch ròi như vậy. Chính sự đa dạng và phát triển liên tục của các quan hệ pháp
lý dẫn đến việc phân chia các lĩnh vực thuộc luật công và luật tư ở Đức về lý
luận cũng chỉ có giá trị tương đối.

Thứ tư, quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật luôn đa dạng, đa chiều và
phức tạp. Rắc rối chính nằm ở chỗ một tình huống pháp luật phát sinh, với tính
chất, mức độ khác nhau, đều có thể đồng thời trực tiếp hay gián tiếp liên quan
đến các qui phạm pháp luật của cả luật công và luật tư. Đây mới thực sự là vấn
đề gây đau đầu các nhà lý luận và là điều lý thú muôn đời trong quan hệ giữa lý
luận pháp luật và thực tế cuộc sống.
Thứ năm, ngày nay xu hướng tư nhân hóa, xã hội hóa những nhiệm vụ
của nhà nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia. Điều này
cũng khiến cho vị trí, vai trò của nhà nước liên tục có sự thay đổi. Khi nhà
nước không còn “đứng trên” hay “đứng ngoài”, mà “đứng trong” pháp luật, nhà
nước là “một bên” trong các quan hệ pháp luật, bình đẳng như mọi công dân, tổ
chức khác, thì vấn đề phân chia ranh giới giữa luật công và luật tư có lẽ cũng
nên đặt ra nhu cầu mới phải nhận thức lại hoặc thay đổi.
--1
Meder, Rechtsgeschichte, 2. Aufl. 2005, S. 84 f.


2

Nguyên bản Tiếng la tinh "Publicum ius est quod ad statum rei Romanae

spectat, privatum quod ad singulorum utilitatem". Dịch sang Tiếng Đức:
"Öffentliches Recht ist das, was sich auf die Ordnung des römischen Staates
bezieht, Privatrecht das, was sich auf die Interessen der Einzelnen bezieht".
(Nguồn: Schmoeckel/ Stolte, Examinatorium Rechtsgeschichte, 2008, S. 139).
Dịch sang Tiếng Việt: Luật công là luật liên quan đến trật tự của nhà nước La
Mã, luật tư là luật liên quan đến lợi ích của cá nhân (Tác giả).
3
Người đầu tiên xây dựng học thuyết quan hệ giữa các chủ thể này là nhà luật
học người Đức Robert von Mohl (1799 – 1875). Mohl là nhà luật học nổi tiếng,

là cha đẻ của học thuyết nhà nước pháp quyền. Ông là người đầu tiên đưa ra
khái niệm nhà nước pháp quyền ở Đức (Rechtsstaat) và chỉ ra rằng nhà nước
pháp quyền là nhà nước đối lập với nhà nước cảnh sát (Polizeistaat).
4
Schoch/Schmidt-Aßmann/Pietzner,Verwaltungsgerichts-ordnung, Kommentar,
Stand: Juli 2009 (18. Ergänzungslieferung), 40, Rn. 235 ff.; Wolff/ Bachof/
Stober, Verwaltungsrecht, Bd. 1, 12. Aufl., 2007, 22, Rn. 28 ff.
5
Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 16ff.
6
Xem: Ipsen, Allgemeines Verwaltungsrecht, 2000, Rn 21 ff.; Hufen,
Verwaltungsprozessrecht, 4. Aufl., 2000, S. 3 ff.
7
Baldus/Grzeszick/Wienhues, Staatshaftungsrecht, Das Recht der öffentlichen
Ersatzleistungen, 3 Aufl., 2009, Rn. 6–10.
8
Detterbeck/ Windthorst/Sproll, Staatshaftungsrecht, 2000, S. 3.
9
Luật tư hành chính (Verwaltungsprivatrecht) ở Đức là lĩnh vực mà các cơ
quan hành chính nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ hành chính thông qua
hình thức của Luật tư (Privatrechtliches Handeln der öffentlichen Verwaltung).
Những hành vi này được thực hiện chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ vì lợi ích
công cộng (Daseinsvorsorge), phục vụ những nhu cầu thiết yếu như điện, nước,
giáo dục, y tế v.v... Để phân biệt giữa luật tư hành chính và luật công hành
chính, nhà luật học người Đức Hans Peter Ipsen đã xây dựng và phát triển học
thuyết hai cấp độ - Zweistufentheorie. (Xem: Sodan/Ziekow, Grundkurs
Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450).
10
Peine, Allgemeines Verwaltungsrecht, 7. Aufl., 2004, Rn. 63 ff.
11

Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450 ff.


12

So sánh quan điểm của các tác giả khác nhau về vấn đề này: Gröpl,

Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn.107f.; Giống: Sodan/Ziekow, Grundkurs
Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S.450ff. Khác: Creifelds, Rechtswörterbuch,
19. Aufl., 2007, S. 931.
13
Creifelds, Rechtswörterbuch, 19. Aufl., 2007, S. 931.
14
Gröpl, Staatsrecht I, 3. Aufl., 2011, Rn.107f.; Sodan/Ziekow, Grundkurs
Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S.450ff.
15
Sodan/Ziekow, Grundkurs Öffentliches Recht, 4. Aufl., 2010, S. 450ff.



×