Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Cho vay sản xuất kinh doanh tại BIDV chi nhánh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.68 KB, 68 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Trong các hoạt động của ngân hàng thì huy động vốn và tín dụng là hai
lĩnh vực chiếm tỷ trọng cơ bản trong tổng nguồn vốn và tổng tài sản của ngân
hàng. Trong đó, tín dụng là một hoạt động kinh doanh quan trọng, chiếm tỷ
trọng lớn trong tài sản có sinh lời của ngân hàng. Trong các sản phẩm tín dụng
cung cấp trên thị trường thì cho vay SXKD là một sản phẩm tín dụng được ngân
hàng quan tâm. Thực tế cho thấy rằng các khoản cho vay SXKD chiếm một tỷ
trọng rất lớn trong tổng doanh số cho vay. Trong công cuộc công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước, cần huy động mọi nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế
nhu cầu về vốn để đầu tư, phát triển nền kinh tế.
Trong đó nguồn vốn từ các NHTM đóng một vai trò rất quan trọng, góp
phần mở rộng SXKD phát triển kinh tế. Khách hàng của các NHTM là các tổ
chức kinh tế, các cá nhân. Việc ngân hàng mở rộng cho vay SXKD đối với các
đơn vị kinh tế không chỉ đem lại cho Ngân hàng lợi nhuận mà còn giúp cho các
đơn vị kinh tế này phát triển sản xuất - kinh doanh góp phần vào sự tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
Phù Ninh là một huyện miền núi nằm ở phía đông bắc tỉnh Phú Thọ có vị
trí thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa vùng trung du
miền núi với vùng đồng bằng, giữa nông thôn với thành thị trong phạm vi tỉnh
Phú Thọ và trong cả nước. Trong những năm qua, kinh tế- xã hội huyện Phù
Ninh có những chuyển biến đáng kể, cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp – công
nghiệp – dịch vụ sang công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Đặc biệt những lợi
thế về tài nguyên đất đai, rừng, nguồn nước, lao động và khoáng sản đã tạo cho
huyện Phù Ninh bước đi vững chắc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. Để
khai thác tối đa những tiềm năng và lợi thế của huyện hòa nhập vào quá trình
phát triển chung của tỉnh, phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu trở thành vùng
kinh tế quan trọng của tỉnh, huyện Phù Ninh đã định hướng khuyến khích các cá
nhân, doanh nghiệp trên địa bàn huyện mở rộng SXKD.


Nắm bắt được nhu cầu đó, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt
2


Nam chi nhánh Phú Thọ - PGD Phong Châu (sau đây gọi tắt là BIDV Phú Thọ PGD Phong Châu) đã ngày càng quan tâm đến sản phẩm cho vay SXKD cùng
với sự điều chỉnh chính sách, sản phẩm phù hợp với thay đổi của thị trường, cho
ra đời các sản phẩm mới đa dạng, hấp dẫn giúp cho hoạt động cho vay SXKD có
hiệu quả. Đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng thông qua đánh giá quy trình
nghiệp vụ, hệ thống chỉ tiêu đánh giá,… sẽ giúp ta biết được những mặt mạnh,
mặt hạn chế trong hoạt động cho vay SXKD của phòng giao dịch. Với những lý
do trên nên em đã chọn đề tài “Cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Phú Thọ Phòng giao dịch Phong Châu” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho vay SXKD là một sản phẩm tín dụng quan trọng của các ngân hàng
luôn được các ngân quan tâm phát triển vì vậy nó cũng là mảng đề tài được
nhiều người quan tâm nghiên cứu.
Công trình nghiên cứu của PGS - TS Trần Hoàng Ngân: “ Phát triển tín
dụng hộ sản xuất tại ngân hàng Phương Đông (OCB)”
- Ưu điểm của đề tài: tác giả đã có những kiến nghị lên Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam
hiện nay.
- Nhược điểm của đề tài: đưa ra các giải pháp nhưng chưa có tính thực tế
cao vì để thực hiện được các giải pháp mà tác giả đưa ra thì các NHTM ở Việt
Nam phải trả mức phí khá cao.
Đề tài “Mở rộng cho vay SXKD tại chi nhánh NHNN&PTNT Láng Hạ”
tác giả Lê Phương Lan – Học viện Tài chính.
- Ưu điểm của đề tài: đã phân tích và chỉ rõ được vị thế giữa ngân hàng
NHNN&PTNT Láng Hạ trên thị trường tín dụng đối với các NHTM khác.
- Nhược điểm của đề tài: chưa làm rõ được ngân hàng còn những hạn chế
gì trong công tác quản lý, cách thức để nâng cao trình độ cán bộ nhân viên ngân

hàng NHNN&PTNT Láng Hạ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân
hàng.
3


Đề tài “Thực trạng hoạt động cho vay SXKD của NHTM Cổ Phần Việt Á
tại Phòng Giao Dịch Cộng Hòa” tác giả Nguyễn Quỳnh Mai – học viện Tài
chính.
- Ưu điểm của đề tài: đã nêu được định hướng mới cho ngân hàng rất phù
hợp tình hình thực tế của ngân hàng ở hiện tại và chỉ tiêu của ngân hàng TMCP
Việt Á- PGD Cộng Hòa trong thời gian tới.
- Nhược điểm của đề tài: chưa chỉ rõ được các nhân tố khiến chất lượng
cho vay SXKD của ngân hàng TMCP Việt Á- PGD Cộng Hòa chưa đạt được kết
quả cao như mong muốn.
Đề tài “Cho vay hộ sản xuất tại chi nhánh NHNN&PTNT huyện Cẩm
Khê, chi nhánh NHNN&PTNT tỉnh Phú Thọ” tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền –
Đại học Hùng Vương.
- Ưu điểm của đề tài: phân tích cụ thể thực trạng cho vay SXKD tại chi
nhánh NHNN&PTNT huyện Cẩm Khê, chi nhánh NHNN&PTNT tỉnh Phú Thọ,
từ đó đưa ra được các giải pháp phù hợp với ngân hàng.
- Nhược điểm của đề tài: những kiến nghị lên ngân hàng NHNN&PTNT
tỉnh Phú Thọ chưa phù hợp với nguồn lực bên trong và bên ngoài của ngân
hàng, không phù hợp với định hướng phát triển dịch vụ của Nhà nước, nhu cầu
thị trường và xu thế hội nhập hiện nay.
Những công trình nghiên cứu này đã đề cập tới cho vay SXKD của đối
tượng hộ sản xuất là chủ yếu mà chưa đề cập tới mảng cho vay SXKD dành cho
đối tượng là khách hàng doanh nghiệp. Bên cạnh đó tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Phú Thọ - PGD Phong Châu chưa có đề tài
nào nghiên cứu về cho vay SXKD. Chính vì vậy, từ việc học hỏi, tham khảo
những gì đã đạt được của các đề tài nghiên cứu trên, đồng thời rút kinh nghiệm

từ những gì mà các tác giả còn hạn chế, em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Cho vay
sản xuất kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chi nhánh Phú Thọ - Phòng giao dịch Phong Châu” để góp
phần hệ thống hóa một cách chi tiết hơn nữa về cơ sở lý luận và thực tiễn cho
vay SXKD. Đồng thời, phân tích, đánh giá thực trạng cho vay SXKD tại PGD
4


và đề xuất một số giải pháp thiết thực để PGD phát triển hơn nữa sản phẩm cho
vay SXKD.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1 Mục tiêu chung
Phân tích và đánh giá thực trạng cho vay SXKD tại BIDV Phú Thọ - PGD
Phong Châu. Từ đó đề xuất giải pháp phát triển sản phẩm cho vay SXKD.
3.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cho vay
SXKD.
- Tìm hiểu thực trạng cho vay SXKD tại BIDV Phú Thọ- PGD Phong
Châu.
- Đánh giá kết quả đạt được, đưa ra hạn chế, nguyên nhân và giải pháp
trong hoạt động cho vay SXKD của ngân hàng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động cho vay SXKD tại BIDV Phú Thọ- PGD Phong Châu.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Hoạt động cho vay SXKD.
- Về không gian: BIDV Phú Thọ- PGD Phong Châu.
- Về thời gian: Số liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2014 đến
năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp thu thập tài liệu
Phương pháp thu thập tài liệu chủ yếu được sử dụng trong đề tài là
phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp. Nguồn tài liệu được sử dụng là:
- Sách báo chuyên ngành như: Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương
mại (Phan Thị Thu Hà – NXB Đại học Kinh tế Quốc dân), Tín dụng và thẩm
định tín dụng (Nguyễn Minh Kiều - NXB Tài chính),... cung cấp kiến thức cơ sở
lý luận về NHTM và hoạt động cho vay nói chung và cho vay SXKD nói riêng.
- Các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố liên quan đến vấn đề
5


nghiên cứu: học hỏi những điểm hay, khắc phục những điểm còn tồn tại của các
nghiên cứu trước đó.
- Các báo cáo tại đơn vị thực tập: Báo cáo tài chính, Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh BIDV Phú Thọ- PGD Phong Châu (năm 2014, năm 2015, năm
2016) cung cấp kiến thức, số liệu cho phần viết thực thế, đánh giá hoạt động cho
vay SXKD.
- Hệ thống văn bản pháp lý: Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12
được Quốc hội thông qua ngày 16/06/2010; Số 39/2016/TT- NHNN ngày
30/12/2016 của NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;... cung cấp quy định, hướng
dẫn về quy trình thực hiện các nghiệp vụ.
Sau khi có được tài liệu tiến hành đọc, ghi chép và phân lọai tài liệu theo
các tiêu chí xác định trước, cuối cùng tổng hợp tài liệu cần thiết theo các mức độ
quan trọng theo mục đích nghiên cứu.
5.2 Phương pháp xử lý số liệu
Lựa chọn, loại bỏ số liệu kém giá trị, phương pháp cơ bản là so sánh các
nguồn số liệu với nhau. Tính toán số liệu trên cơ sở tôn trọng số liệu gốc. Sử
dụng phương pháp thống kê trong phân tích và so sánh.
Để phân tích đánh giá quy mô của hoạt động cho vay SXKD cần sử dụng

hệ thống chỉ số: số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân.
- Số tuyệt đối: biểu hiện quy mô khối lượng của hiện tượng trong điều
kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Đây là cơ sở đầu tiên để tiến hành phân tích, là
căn cứ không thể thiếu được trong việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế
và chỉ đạo thực hiện các kế hoạch đó. Đối với bài viết số tuyệt đối được sử dụng
để phản ánh quy mô, mức độ hoạt động cho vay SXKD thông qua các chỉ tiêu
như: doanh số cho vay, doanh số thu nợ, dư nợ tín dụng,... các năm 2014, năm
2015, năm 2016.
- Số tương đối: biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng
nghiên cứu. Đó là kết quả của việc so sánh giữa hai chỉ tiêu thống kê cùng loại
nhưng khác nhau về điều kiện về thời gian hoặc không gian. Khi nghiên cứu số
6


tương đối cho phép phân tích các đặc điểm của hiện tượng, nghiên cứu các hiện
tượng đó trong mối quan hệ so sánh với nhau. Trong bài viết số tương đối được
sử dụng để biểu hiện mức tăng (giảm) của dư nợ, doanh số cho vay, doanh số
thu nợ của năm 2015 so với năm 2014 và năm 2016 so với năm 2015. Lưu ý: số
tương đối phải được tính ra trên cơ sở đồng nhất các so sánh; sử dụng số tương
đối phải kết hợp chặt chẽ với số tuyệt đối.
Mức độ kỳ báo cáo
Mức tăng
=
X 100
- 1
(%)
(giảm)
Mức độ kỳ gốc
- Số bình quân: phản ánh mức độ điển hình và sự tương quan số lượng
giữa các giá trị. Số bình quân được dùng để nghiên cứu các quá trình biến động

qua thời gian, sự biến động của số bình quân qua thời gian có thể cho thấy xu
thế phát triển cơ bản của hiện tượng. Số bình quân được sử dụng trong bài để
tính tốc độ phát triển bình quân các chỉ tiêu của cả giai đoạn.
Tốc độ
PTBQ
Trong đó

=

X

100

-

1

(%)

x1 là: mức độ năm 2015/2014
x2: là mức độ năm 2016/2015

Đề tài sử dụng bảng tính Excel để xử lý toàn bộ số liệu đã thu thập được.
5.3 Phương pháp phân tích tài liệu
5.3.1 Phương pháp thống kê mô tả
Thống kê mô tả được sử dụng để mô tả những đặc tính cơ bản của dữ liệu
thu thập được từ nghiên cứu thực nghiệm qua các cách thức khác nhau. Thống
kê mô tả và thống kê suy luận cùng cung cấp những tóm tắt đơn giản về mẫu và
các thước đo. Cùng với phân tích đồ họa đơn giản, chúng tạo ra nền tảng của
mọi phân tích định lượng về số liệu. Để hiểu được các hiện tượng và ra quyết

định đúng đắn, cần nắm được các phương pháp cơ bản của mô tả dữ liệu. Có rất
nhiều kỹ thuật hay được sử dụng, có thể phân loại các kỹ thuật này như sau:
- Biểu diễn dữ liệu bằng đồ họa trong đó các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc
giúp so sánh dữ liệu;
- Biểu diễn dữ liệu thành các bảng số liệu tóm tắt về dữ liệu;
7


- Thống kê tóm tắt (dưới dạng các giá trị thống kê đơn nhất) mô tả dữ liệu.
Khi tạo các trị thống kê mô tả, nhằm 2 mục tiêu:
- Chọn một trị thống kê để chỉ ra những đơn vị có vẻ giống nhau thực ra
có thể khác nhau thế nào. Các giáo trình thống kê gọi một giải pháp đáp ứng
mục tiêu này là thước đo khuynh hướng trung tâm.
- Chọn một trị thống kê khác cho thấy các đơn vị khác nhau thế nào. Loại
trị thống kê này thường được gọi là một thước đo phân tán thống kê.
Phương pháp này được vận dụng để mô tả tổng quát về thực trạng cho vay
SXKD tại BIDV Phú Thọ- PGD Phong Châu. Bằng phương pháp này, tôi mô tả
được những điểm mạnh và những cản trở việc cho vay SXKD, đồng thời thấy
được những nguyên nhân gây nên tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu.
5.3.2 Phương pháp phân tích so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích
kinh tế nói chung và phân tích tài chính nói riêng. Mục đích của so sánh là làm
rõ sự khác nhau hay những đặc trưng riêng có của đối tượng nguyên cứu, từ đó
giúp đối tượng quan tâm có căn cứ để đưa ra quyết định lựa chọn.
Điều kiện so sánh: chỉ tiêu nghiên cứu muốn so sánh được phải đảm bảo
thống nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống nhất
về thời gian và đơn vị đo lường.
Gốc so sánh: gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc về không gian hay
thời gian, tùy thuộc vào mục đích phân tích. Về không gian, có thể so sánh đơn
vị này với đơn vị khác, bộ phận này với bộ phận khác,… việc so sánh về không

gian thường được sử dụng khi cần xác định vị trí hiện tại của doanh nghiệp so
với đối thủ cạnh tranh, so với số bình quân ngành, bình quân khu vực… Cần lưu
ý, khi so sánh về mặt không gian, điểm gốc và điểm phân tích có thể đổi chỗ cho
nhau mà không ảnh hưởng đến kết luận phân tích. Về thời gian, gốc so sánh
được lựa chọn là các kỳ đã qua (kỳ trước, năm trước) hay kỳ kế hoạch. Cụ thể:
- Khi xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích, gốc so
sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ
trước (năm trước). Lúc này sẽ so sánh trị số chỉ tiêu giữa kỳ phân tích với trị số
8


chỉ tiêu ở kỳ gốc khác nhau.
- Khi đáng giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, gốc so sánh
được xác định là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh
giữa trị số thực tế với trị số kế hoạch của chỉ tiêu nghiên cứu.
So sánh các chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay SXKD để thấy được thực
trạng, so sánh kết quả qua các năm để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của hoạt
động cho vay sản xuất kinh trong cả giai đoạn.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, khóa luận gồm 03
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cho vay sản xuất kinh doanh của ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay sản xuất kinh doanh tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh Phú Thọ - Phòng
giao dịch Phong Châu.
Chương 3: Giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả cho vay sản xuất
kinh doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam
chi nhánh Phú Thọ - Phòng giao dịch Phong Châu.


9


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHO VAY SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1 Tổng quan về NHTM và hoạt động cho vay của NHTM
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự
phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất
lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại
kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị
trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế
tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì NHTM tạo lợi
ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch
lại suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
16/06/2010:
“ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác theo quy định của Luật này.
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.”
“ NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật nhằm
mục tiêu lợi nhuận.”
Như vậy, NHTM là một loại hình ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo hình thức sở
hữu NHTM tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau: Quốc doanh, tư nhân, liên
doanh, cổ phần và chi nhánh nước ngoài. Bất cứ hình thức hoạt động nào của
các NHTM thì mỗi ngân hàng hoạt động với ba chức năng cơ bản: chức năng tín

dụng, chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền. Để đảm bảo thực
hiện các chức năng trên hoạt động của mỗi ngân hàng bao gồm ba nghiệp vụ cơ
bản: Nghiệp vụ Nợ (huy động vốn), nghiệp vụ Có (sử dụng vốn - cấp tín dụng)
10


và nghiệp vụ trung gian (thanh toán, tư vấn, bảo lãnh,…). Ba nghiệp vụ này có
mối liên hệ mật thiết với nhau, tác động, hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của ngân
hàng và nền kinh tế.
1.1.2 Khái niện cho vay
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12: “Cho vay là một hình
thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền
để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
1.1.3 Phân loại hoạt động cho vay
Tùy theo mục đích nghiên cứu và quản lý khác nhau có thể phân loại hoạt
động cho vay theo các tiêu thức khác nhau.
a, Phân loại theo đối tượng khách hàng
-

Cho vay khách hàng cá nhân
Cho vay khách hàng tổ chức

b, Phân loại theo thời gian
- Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng, được sử
dụng để bù đắp sự thiết hụt vốn lưu động của các hoạt động SXKD, phục vụ nhu
cầu tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình.
- Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60
tháng, sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới
trang thiết bị, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình vừa và nhỏ có thời hạn

thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng, đáp ứng
nhu cầu đầu tư dài hạn như: xây dựng cơ bản, xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng
sản xuất có quy mô lớn.
c, Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
- Cho vay tiêu dùng: là các khoản vay cho mục đích mua sắm phương tiện
đi lại, xây dựng và sửa chữa nhà ở, chi tiêu sinh hoạt,… Mục đích của loại cho
vay này là người đi vay phải sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài
sản cố định nhằm phục vụ lợi ích cá nhân. Khi thực hiện hình thức cho vay này,
11


cán bộ tín dụng đã phải tính đến nguồn tiền được dùng để trả nợ chính là thu
nhập cá nhân của người vay vốn. Hình thức phổ biến nhất của loại hình này là
cho vay trả góp, một loại hình được áp dụng rất thành công ở các nước phát triển
- Cho vay SXKD: các khoản vay phục vụ cho mục đích SXKD. Mục đích
của loại cho vay này là ngân hàng cho các doanh nghiệp, xưởng sản xuất vay để
phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng
một nhu cầu nào đó về nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Dự vào đặc điểm của
từng ngành nghề mà ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện cho vay, phương thức
cho vay, cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu của doanh nghiệp. Có thể phân
chia loại hình thức này theo tiêu thức cho vay doanh nghiệp sản xuất và cho vay
thương mại, hay có thể theo ngành nghề
d, Phân loại theo tiêu chí đảm bảo khả năng hoàn trả
- Cho vay có bảo đảm: là các khoản vay dựa trên cơ sở các bảo đảm tiền
vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Đây là những khoản
cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay ngân hàng còn nắm giữ tài sản
của khách hàng, với mục đích xử lý tài sản để thu hồi vốn khi người vay vi
phạm hợp đồng tin dụng. Quá trình cung ứng vốn của ngân hàng, không kể dưới
hình thức nào đều làm tăng lượng tiền vào nền kinh tế, làm tăng khối lượng

hàng hóa trên thị trường. Ngoài ra, khi thực hiện cho vay, việc quản lý nguồn
vốn của ngân hàng có thể có rất nhiều rủi ro xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ
vốn rất cao vì thế ngân hàng khi cho vay thường yêu cầu khách hàng phải có tài
sản đảm bảo cho khoản vay của họ.
Trong cho vay kinh doanh nguồn trả nợ chính là doanh thu đối với vốn
lưu động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận có được phát sinh từ vốn vay. Tuy nhiên
nguồn trả nợ này thì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhất là yếu tố khách quan
của nền kinh tế. Đây là những yếu tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân
hàng, chính vì vậy tài sản đảm bảo là yếu tố quan trọng đảm bảo khả năng thu
hồi cho khoản vay đó.
- Cho vay không có bảo đảm: là các khoản vay được thực hiện dựa vào
mức độ uy tín của khách hàng để ngân hàng ra quyết định cho vay.
12


e, Phân loại theo phương thức cấp vốn
- Cho vay từng lần:
Theo thông tư 39/NHNN cho vay theo món hay từng lần là: “Mỗi lần cho
vay, tổ chức tín dụng và khách hàng thực hiện thủ tục cho vay và ký kết thỏa
thuận cho vay”. Phương thức cho vay từng lần được áp dụng khi cho vay để bổ
sung nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt trong sản xuất, đối với những khách hàng
sản xuất kinh doanh không ổn định, nhu cầu vay trả không thường xuyên, có
nhu cầu đề nghị vay vốn từng lần hoặc những khách hàng không có tín nhiệm
cao đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng mà ngân hàng nhận thấy cần phải
áp dụng cho vay từng lần để giám sát, kiểm tra, quản lý việc sử dụng vốn vay
chặt chẽ, an toàn.
Đặc trưng của hình thức cho vay này là mỗi lần vay khách hàng phải ký
kết một hợp đồng tín dụng riêng trong đó có các nội dung như số tiền vay, lãi
suất, thời hạn... Đặc điểm của phương thức cho vay này là việc cho vay và thu
nợ được phân định ranh giới một cách rõ ràng, dễ nhận biết được lúc nào cho

vay, lúc nào thu nợ. Ưu điểm của phương thức cho vay này là giúp cho ngân
hàng mở rộng kinh doanh, tìm kiếm thu nhập, phục vụ mọi đối tượng khách
hàng, đồng thời đảm bảo an toàn vốn vay và tạo thế chủ động cho cả ngân hàng
và khách hàng. Tuy nhiên, phương thức cho vay này còn có nhiều nhược điểm
đối với cả ngân hàng và khách hàng.Với khách hàng, đây là một hình thức vay
phức tạp bởi thủ tục vay rườm rà, mỗi lần muốn vay khách hàng phải lập hồ sơ
vay vốn, tốn kém thời gian, công sức gây khó khăn trong việc vay vốn làm ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng, thậm chí mất cơ hội trong kinh
doanh nếu không có vốn kịp thời. Còn đối với ngân hàng thì phải tiến hành theo
dõi từng món vay tại các thời điểm khác nhau để thu nợ gốc và lãi nên chi phí
trong kinh doanh cao mà lợi nhuận tìm kiếm trên một lần vốn đầu tư thấp. Qua
bảng số liệu ta thấy doanh số các khoản vay sản xuất kinh doanh được cấp theo
món tăng đều qua ba năm, tuy nhiêm chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ dưới 10% trong
tổng doanh số cho vay sản xuất kinh doanh được giải ngân.
13


- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Cho vay theo hạn mức là hình thức cho vay: Tổ chức tín dụng xác định và
thỏa thuận với khách hàng một mức dư nợ cho vay tối đa được duy trì trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong hạn mức cho vay, tổ chức tín dụng thực hiện
cho vay từng lần. Một năm ít nhất một lần, tổ chức tín dụng xem xét xác định lại
mức dư nợ cho vay tối đa và thời gian duy trì mức dư nợ này. Phương thức cho
vay theo hạn mức tín dụng thường áp dụng cho các doanh nghiệp mà trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh họ thường xuyên có nhu cầu vay trả, tốc độ
luân chuyển vốn tín dụng nhanh, có tín nhiệm với ngân hàng trong quan hệ tín
dụng, tức là vay vốn và trả nợ sòng phẳng. Với phương thức cho vay này, khách
hàng và ngân hàng thoả thuận với nhau căn cứ vào phương án, kế hoạch sản
xuất kinh doanh, nhu cầu vốn giá trị tài sản thế chấp, nguồn vốn ngân hàng có
thể đáp ứng...để xác định một hạn mức tín dụng trong một thời kỳ nhất định,

đồng thời xác định các tài khoản vay, trả và mức lãi suất từng lần nhận tiền vay.
Việc thoả thuận nay phải được ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Khi có nhu cầu, khách hàng chỉ cần lập uỷ nhiệm chi, séc rút tiền mặt để
rút tiền nhưng không được rút vượt quá hạn mức tín dụng. Căn cứ vào các
chứng từ của khách hàng, trong phạm vi hạn mức tín dụng cho phép,nếu thấy đủ
điều kiện để thực hiện phát tiền vay thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay. Ngân
hàng không ấn dịnh thời hạn trả nợ cho từng khoản vay mà việc trả nợ được
thực hiện trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, khách hàng có thể trả
nợ nhiều lần trên cơ sở kỳ luân chuyển vốn của mình. Đây là phương thức cho
vay năng động, linh hoạt đáp ứng được kịp thời nhu cầu của người vay bởi thủ
tục vay vốn đơn giản, thuận tiện. Khách hàng chỉ cần làm thủ tục vay vốn lần
đầu còn các lần sau họ chỉ cần gửi đến ngân hàng những chứng từ hoá đơn thích
hợp, phù hợp với mục đích sử dụng tiền vay trong hợp đồng tín dụng đã ký kết
để nhận tiền vay. Do đó khách hàng hoàn toàn chủ động trong việc vay và trả nợ
vay. Về phía ngân hàng, có thể tận thu triệt để những khoản thu mà khách hàng
có, kiểm soát được thu nhập của khách hàng, từ đó nắm bắt được tình hình sản
14


xuất kinh doanh, đặc biệt là khả năng tài chính của họ, qua đó có thể tăng cường
quá trình sử dụng vốn của khách hàng và có được những quyết định đúng đắn,
kịp thời trong quan hệ tín dụng với khách hàng. Nhược điểm của phương thức
cho vay này là ngân hàng và khách hàng ký kết một hợp đồng tín dụng trong đó
ngân hàng xác định một hạn mức tín dụng cho khách hàng và được duy trì trong
một thời hạn nhất định , tức là ngân hàng phải luôn duy trì một lượng vốn nhất
định để sẵn sàng đáp ứng cho nhu cầu vay vốn của khách hàng, điều này dễ làm
cho ngân hàng mất thế chủ động về nguồn vốn kinh doanh.Về phía khách hàng
thì không phải lúc nao họ cũng thích sự giám sát rất chặt chẽ của ngân hàng đối
với các khoản thu nhập của họ, nhất là trong những trường hợp họ cần dùng nó
vào những mục đích tạm thời nào đó.

- Các phương thức cho vay khác: Cho vay thấu chi, cho vay trả góp, cho
vay hợp vốn, cho vay theo dự án đầu tư,…
1.2 Khái niệm cho vay SXKD
Khái niệm SXKD: Hoạt động SXKD được hiểu là quá trình tiến hành các
công đoạn từ việc khai thác sử dụng các nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế để
sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ nhằm cung cấp cho nhu cầu thị
trường và thu được lợi nhuận.
Khái niệm cho vay SXKD: Cho vay SXKD là sản phẩm tín dụng nhằm
đáp ứng nhu cầu vay vốn để tài trợ cho một số công đoạn của hoạt động SXKD
hoặc thực hiện các dự án đầu tư, phương án SXKD, dịch vụ trong nước.
1.3 Đặc điểm cho vay SXKD của NHTM
Một là, chủ thể vay vốn là các cá nhân và doanh nghiệp có nhu cầu vay
vốn cho mục đích SXKD. Khách hàng cá nhân vay vốn SXKD là những khách
hàng đang kinh doanh theo các hình thức và lĩnh vực dịch vụ, đại lý bán hàng,
kinh doanh thương mại, đầu mối thu mua,… Đối với khách hàng doanh nghiệp
đây là sản phẩm cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh
doanh, vốn tài trợ tài sản cố định của doanh nghiệp. Đối tượng cho vay là các
chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh như: chi phí mua nguyên
vật liệu, hàng hóa, dịch vụ, tiền lương, tiền điện/nước,…
15


Hai là, thời hạn cho vay tùy thuộc vào từng mục đích vay vốn và hình
thức cho vay mà các khoản vay SXKD có thời hạn khác nhau: ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Ngân hàng thường cho vay ngắn hạn khi khách hàng phát sinh nhu
cầu vốn để mua vật tư, nguyên liệu, trang trải các chi phí trong quá trình SXKD.
Ngân hàng cũng cho vay để tài trợ cho tài sản cố định. Do tính chất luân chuyển
vốn của tài sản cố định là thời gian luân chuyển vốn dài qua nhiều chu kỳ SXKD
nên ngân hàng thực hiện cho vay trung và dài hạn.
Ba là, quy mô của từng khoản vay SXKD thường lớn hơn quy mô của

từng khoản vay tiêu dùng. Vì vậy lãi suất cho vay SXKD thường có ưu đãi hơn
cho vay tiêu dùng, do chi phí tổ chức cho vay trên một đồng vốn vay thấp hơn.
Bốn là, nguồn để trả nợ gốc và lãi vay được sử dụng trực tiếp từ kết quả
của hoạt động SXKD như lợi nhuận, khấu hao.
Năm là, về rủi ro tín dụng, hoạt động SXKD của khách hàng được thực
hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực có độ phức tạp và độ rủi ro
khác nhau đòi hỏi cách thức quản lý phù hợp. Trong SXKD các cá nhân thường
vay vốn với quy mô nhỏ hơn doanh nghiệp, dễ dàng trong khâu quản lý và ít
biến động vì vậy các khoản vay SXKD của doanh nghiệp thường tiềm ẩn nhiều
rủi ro hơn.
1.4 Ý nghĩa và vai trò cho vay SXKD
1.4.1 Đối với hoạt động của các NHTM
Cho vay SXKD nói riêng hay cho vay nói chung là hoạt động truyền
thống của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản có và mang lại
nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Mặc dù hiện tỷ trọng của hoạt động cho
vay đang có xu hướng giảm nhưng hoạt động này vẫn luôn là nghiệp vụ sử dụng
vốn quan trọng nhất đối với ngân hàng.
Thông qua hoạt động cho vay mà ngân hàng đa dạng hóa được danh mục
tài sản có, giảm thiểu rủi ro. Thông qua hoạt động cho vay giúp ngân hàng mở
rộng được các loại hình dịch vụ gia tăng khác như thanh toán, thu hộ, kinh
doanh ngoại tệ, tư vấn tài chính, bảo lãnh,…
1.4.2 Đối với khách hàng và nền kinh tế
16


Tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị SXKD hoạt động trong nền kinh tế
thị trường dù là hình thức sở hữu nào thì đều có các mục tiêu hoạt động sản xuất
khác nhau. Ngay trong mỗi giai đoạn, các doanh nghiệp cũng theo đuổi các mục
tiêu khác nhau, nhưng nhìn chung mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đều
nhằm mục tiêu lâu dài, mục tiêu bao trùm đó là làm sao tối đa hoá lợi nhuận. Để

đạt được các mục tiêu đó thì các doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình
một chiến lược kinh doanh đúng đắn, xây dựng các kế hoạch thực hiện và đặt ra
các mục tiêu chi tiết nhưng phải phù hợp với thực tế, đồng thời phù hợp với tiềm
năng của doanh nghiệp và lấy đó làm cơ sở để huy động và sử dụng các nguồn
lực sau đó tiến hành các hoạt động SXKD nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Nguồn vốn SXKD của các doanh nghiệp có vai trò quyết định trong việc
thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định.
Nó là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển
của các doanh nghiệp. Trong cơ chế kinh doanh mới, điều kiện mở rộng quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản suất kinh doanh, vốn kinh doanh bao giờ
cũng là cơ sở, là tiền đề để doanh nghiệp tính toán hoạch định các chiến lược và
kế hoạch kinh doanh. Nó cũng là chất keo để chắp nối, kết dính các quá trình và
quan hệ kinh tế và nó cũng là dầu nhờn bôi trơn cho cỗ máy kinh tế vận động có
hiệu quả.
Cho vay vốn SXKD bảo đảm cho quá trình SXKD diễn ra một cách liên
tục. Trong quá trình SXKD có những thời điểm chưa bán được hàng nhưng đến
thời hạn phải trả lương cho công nhân, đến hạn phải nộp thuế cho nhà nước,
phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác, cần dùng đến tiền để tiến hành đầu tư
mua sắm thiết bị, nguyên vật liệu cho chu kì SXKD mới... nên rất cần vốn. Nếu
không trả được lương cho công nhân công nhân có thể đình công gây khó khăn
cho việc sản xuất của doanh nghiệp, không trả được nợ cho các chủ nợ doanh
nghiệp có thể lâm vào vòng kiện tụng, tài sản bị niêm phong, ở mức thiệt hại
nhẹ nhất là doanh nghiệp ít nhất phải chờ đến khi thu hồi được vốn mới tiếp tục
SXKD được. Những vấn đề này được giải quyết bởi sự xuất hiện của ngân hàng.
Doanh nghiệp thiếu vốn có thể đến ngân hàng vay vốn cho hoạt động của mình.
17


Như vậy các doanh nghiệp tiến hành SXKD liên tục qua các chu kì kinh doanh
khác nhau. Tổng hợp các doanh nghiệp (đại diện cho các thành phần kinh tế) tạo

ra nền kinh tế, doanh nghiệp hoạt động thuận lợi nghĩa là nền kinh tế ổn định.
1.5 Chỉ tiêu đánh giá hoạt động cho vay SXKD
a. Các chỉ tiêu đánh giá quy mô cho vay SXKD
- Doanh số cho vay SXKD:
Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền
kinh tế, phản ánh chính xác về hoạt động cho vay của ngân hàng trong một thời
gian cụ thể. Mức tăng doanh số cho vay SXKD cao chứng tỏ uy tín và khả năng
thu hút khách hàng ngày càng được mở rộng, thể hiện chất lượng khoản vay
SXKD ngày càng được nâng cao và ngược lại. Doanh số cho vay SXKD là tổng
số tiền mà ngân hàng đã cho vay SXKD trong kỳ. Mức tăng doanh số cho vay
SXKD thể hiện xu hướng hoạt động cho vay SXKD mở rộng hay thu hẹp. Tuy
nhiên, việc doanh số cho vay tăng không phải lúc nào cũng là tốt và ngược lại
doanh số cho vay thu hẹp không phải lúc nào cũng là xấu, vấn đề này còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: Tiềm lực của ngân hàng; điều kiện của nền kinh tế
trong một thời kì nhất định. Chỉ tiêu về mức tăng tuyệt đối và tương đối của
doanh số cho vay SXKD phản ánh mức tăng trưởng trong hoạt động cho vay của
ngân hàng, thể hiện hiệu quả hoạt động cho vay xét về quy mô. Đây là một trong
những chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng. Tỷ
trọng doanh số cho vay SXKD trong tổng doanh số cho vay của một tổ chức tín
dụng trong các thời kỳ khác nhau. Qua chỉ tiêu này có thể so sánh quy mô doanh
số cho vay SXKD so với cho vay tiêu dùng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ tổ chức
tín dụng đáp ứng nhu cầu cho vay SXKD của nền kinh tế cao hơn.
- Doanh số thu nợ
Là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay của
ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó. Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của công tác thu hồi nợ, đánh giá khả năng thu hồi nợ của các khoản tín
dụng đã cho vay, đồng thời đánh giá hiệu quả thực hiện kế hoạch tín dụng của
ngân hàng, kế hoạch cho vay, biện pháp đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng. Chỉ
18



số này cho biết hiệu quả về mặt thu hồi vốn của ngân hàng, nó cho thấy trong
100% doanh số cho vay ngắn hạn thì ngân hàng sẽ thu được bao nhiêu %. Chỉ số
này càng lớn chứng tỏ công tác thu nợ của ngân hàng đạt hiệu quả cao, chất
lượng tín dụng càng tốt và ngược lại.
-Dư nợ
Dư nợ là kết quả của công tác cho vay và thu hồi nợ, là tất cả các khoản
nợ của khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Dư nợ càng
cao chứng tỏ quy mô cho vay lớn tiềm lực của ngân hàng mạnh và ngược lại.
Dư nợ cuối kỳ = Dư nợ đầu kỳ +
(Doanh số cho vay trong kỳ – doanh số thu nợ trong kỳ)
b. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay SXKD
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một
khoản cho vay:
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và
không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ
quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải
là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay.
Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới
mức thấp nhất có thể được.
Tỷ lệ nợ quá hạn

Nợ quá hạn cho vay SXKD
x 100%
Tổng dư nợ cho vay SXKD
cho vay SXKD
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn cho vay SXKD chiếm bao nhiêu
=

phần trăm trong tổng dư nợ cho vay SXKD. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ

càng tốt.
-Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu cho vay SXKD
Nợ xấu là nợ thuộc nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5. Bản chất của nợ xấu là
khoản nợ quá hạn khó thu hoặc không thể thu hồi được. Đối với các ngân hàng,
nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay mà không thu hồi lại được do
khách hàng đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản,... Để xác định tỷ lệ nợ xấu cho vay
sản xuất kinh doanh sử dụng công thức sau:
19


Nợ xấu cho vay SXKD
Tỷ lệ nợ xấu cho vay SXKD

=

Dư nợ cho vay SXKD

x

100%

Chỉ tiêu trên phản ánh tỷ lệ phần trăm nợ xấu trong hoạt động cho vay
SXKD. Cùng với chỉ tiêu nợ quá hạn, chỉ tiêu này thể hiện chất lượng tín dụng
tốt hay xấu. Tỷ lệ này cao biểu hiện cho dấu hiệu của một khoản tín dụng xấu và
ngược lại.
-Chỉ tiêu Hệ số thu nợ
Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả tín dụng trong việc thu nợ của ngân hàng.
Nó phản ánh trong 1 thời kỳ nào đó, với 1 đồng doanh số cho vay thì ngân hàng
sẽ thu về được bao nhiêu đồng vốn. Tỷ lệ này càng cao càng tốt.
Doanh số thu nợ cho vay SXKD

Doanh số cho vay SXKD
1.6 Các nhân tố ảnh hưởng
Hệ số thu nợ

=

1.6.1 Nhân tố khách quan
a. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động
tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì
chất lượng của các khoản cho vay SXKD sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay
đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản cho vay SXKD
xấu đi ngoài ý muốn. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt, giá
cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh gây khó khăn cho SXKD, tác
động xấu đến khả năng thu hồi công nợ của ngân hàng. Hay khi có sự biến động
lớn trong tỷ giá do sự thay đổi chính sách tiền tệ của Nhà nước, đồng nội tệ bị
giảm giá, các doanh nghiệp vốn bằng ngoại tệ mà không có nguồn thu bằng
ngoại tệ sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Sự biến động về tỷ giá
như vậy cũng khiến các doanh nghiệp phải nhập thiết bị nước ngoài lẽ ra đã vay
ngân hàng đủ tiền sẽ trở thành không đủ tiền để nhập gây ảnh hưởng trực tiếp tới
chất lượng khoản vay. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế
trong nước này thay đổi sẽ tác động tới chất lượng cho vay SXKD mà sự thay
đổi của môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là
20


đối với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực
tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả
nợ ngân hàng của doanh nghiệp.

b. Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với
những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế
không thể trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho
mọi hoạt động SXKD tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để
giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động
tín dụng của ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các doanh nghiệp trong
nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát
sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật văn bản dưới luật
chứa đựng đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh
lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro
trong SXKD của các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân
hàng. Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân
hàng nói chung và chất lượng cho vay SXKD nói riêng.
1.6.2 Nhân tố chủ quan
1.6.2.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Công tác thẩm định
Cho vay SXKD được tiến hành chủ yếu dựa trên các phương án SXKD.
Muốn xem xét có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không, ngân hàng
cần tiến hành thẩm định phương án SXKD.
Thẩm định phương án SXKD là việc tổ chức, xem xét một cách khách
quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến phương án
SXKD để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Mục đích của việc thẩm định
phương án SXKD là nhằm giúp ngân hàng rút ra kết luận chính xác về tính khả
21


thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của phương
án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.

Thông qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm
những giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để
xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Thẩm định tín dụng một cách kỹ càng, đúng quy trình thẩm định sẽ góp
phần giảm được rủi ro, giúp ngân hàng thu được lợi nhuận và đảm bảo tính ổn
định của các khoản vay.
- Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của
nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi
của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân ngân hàng.
Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm bảo an
toàn cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với
khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy đủ, đúng đắn
sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính
sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc
cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng tạo kẽ hở
cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín
dụng nói riêng cũng như trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển
chọn sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với
nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc
biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có
liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay,
đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi
thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của ngân hàng… sẽ giúp
22



cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực
hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Tuy nhên đối với những cán bộ
không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang
tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để
phân tích, so sánh, đánh giá vai trò vị trí của doanh nghiệp trong ngành, khả
năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng đời sản phẩm … dẫn đến việc
xác định sai hiệu quả của dự án cho vay làm rủi ro tín dụng của ngân hàng.
- Công tác tổ chức của ngân hàng
Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác
động tới mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ
làm ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng kịp
thời các yêu cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc.
Sự phân công công việc nếu không hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến sự không
rõ ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối
với công việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao việc
đúng người, đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc phù hợp để
có thể phát huy hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối hợp nhịp
nhàng, chặt chẽ để công việc tiến hành nhanh chóng, chính xác. Nếu được tổ
chức tốt, các công việc đối với một món vay sẽ được thực hiện tuần tự, chặt chẽ,
vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa không có sự sơ hở nên sẽ làm cho chất lượng
của món vay được nâng cao.
- Thông tin tín dụng
Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng
trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tiền
vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác tín
dụng của ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở
mức thấp nhất có thể, chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Tuy nhiên nến
thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời, chưa
có danh sách phân loại doanh nghiệp, chưa có sự phân tích đánh giá doanh

nghiệp một cách khách quan, đúng đắn sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cao làm giảm
23


chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.6.2.2 Các nhân tố thuộc về khách hàng
- Năng lực của khách hàng
Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại
hiệu quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý
muốn của mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến
động lên xuống của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong
việc giới thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt động của doanh nghiệp không thể
phát triển hoặc do thiếu kinh nghiệm trên thương trường mà doanh nghiệp dễ
dàng bị gục ngã trong cạnh tranh… Tất cả những điều đó khiến cho chất lượng
tín dụng bị ảnh hưởng ngoài ý muốn của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
- Sự trung thực của khách hàng
Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất
xảy ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân
hàng thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng việc
sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ vào việc
đổ bể của các tổ chức tín dụng.
- Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán
triển khai phương án SXKD sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khoa
học, không thực hiện kỹ càng… Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù
phương án SXKD của người đi vay đã được tính toán một cách chi tiết, khoa
học, chính xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn chứa đựng khả năng
xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn và bất khả kháng của các
điều kiện SXKD, gây tác động xấu đến công việc làm ăn, mang lại rủi ro cho
doanh nghiệp.


24


Chương 2
THỰC TRẠNG CHO VAY SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN
VIỆT NAM CHI NHÁNH PHÚ THỌ - PHÒNG GIAO DỊCH
PHONG CHÂU
2.1 Tổng quan về ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chi
nhánh Phú Thọ - PGD Phong Châu
2.1.1 Tên và địa chỉ ngân hàng
Tên tiếng Việt: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt
Nam, chi nhánh Phú Thọ - Phòng giao dịch Phong Châu.
Tên tiếng anh: Joint stock bank for Investment and Development of Viet
Nam, Phu Tho Branch – Phong Chau Transation office.
Tên viết tắt: BIDV Phú Thọ - PGD Phong Châu
Địa chỉ: Khu Núi Miếu, thị trấn Phong Châu, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú
Thọ.
2.1.2 Đặc điểm địa bàn hoạt động.
BIDV Phú Thọ- PGD Phong Châu thuộc huyện Phù Ninh tỉnh Phú Thọ.
Đây là một huyện miền núi nằm ở phía đông bắc tỉnh Phú Thọ có vị trí thuận lợi
cho giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giữa vùng trung du miền núi
với vùng đồng bằng, giữa nông thôn với thành thị trong phạm vi tỉnh Phú Thọ
và trong cả nước. Những năm gần đây, huyện Phù Ninh luôn duy trì tốc độ tăng
trưởng bình quân là 7%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 32,56 triệu
đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ
trọng dịch vụ. Năm 2015, trên địa bàn huyện có 30 công ty TNHH, 19 công ty
cổ phần, 2 doanh nghiệp tư nhân, 3 HTX sản xuất công nghiệp và 1.735 hộ sản
xuất cá thể. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp trên địa bàn năm 2015

ước đạt 4.475 tỷ đồng, tăng 61,78% so với năm 2010. Quan hệ sản xuất được
củng cố, các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển sản xuất – kinh doanh. Các
ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh duy trì và phát triển toàn diện. Sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tăng trưởng bình quân 9,36%/năm.
25


×