Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN đặc TRƯNG và NHỆM vụ xây DỰNG và PHÁT TRIỂN nền văn hóa VIỆT NAM TIÊN TIẾN đậm đà bản sắc dân tộc HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.25 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
trang
Mở đầu

2

Nội dung

3

1. Khái niệm về văn hóa

3

2. Những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại

6

2.1 Nền văn hóa Việt Nam hiện đại là nền văn hóa mang tính chất

6

tiên tiến
2.2 Bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới

12

3. Nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

15


3.1 Những nhiệm vụ trọng tâm

15

3.2 Những nhiệm vụ cụ thể

17

Kết luận

27

Tài liệu tham khảo

28


2

MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình dựng nước và giữ nước, nền văn hoá Việt Nam đã
hình thành và phát triển. Nhân dân ta đã xây đắp nên một nền văn hoá kết tinh
sức sống trường tồn và in đậm dấu ấn bản sắc của dân tộc. Văn kiện Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá VIII)
đã chỉ rõ: “Nhờ nền tảng và sức mạnh văn hoá ấy mà dù có nhiều thời kỳ bị
đô hộ, dân tộc ta vẫn giữ vững và phát huy bản sắc của minh, chẳng những
không bị đồng hoá, mà còn quật cường đứng dậy giành lại độc lập cho dân
tộc, lấy sức ta mà giải phóng cho ta. Công cuộc đổi mới toàn diện, đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện
thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, đòi

hỏi chúng ta phải xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định nền văn hóa mà
chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn
hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Đồng thời Đảng
ta cũng chỉ rõ: “Bảo đảm sự gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm,
xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa
nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của các lĩnh vực
trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của đất nước”1.
Từ nhiệm vụ trung tâm đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về
văn hoá là một trong những yêu cầu cần thiết. Trong đó, nghiên cứu tính chất
và nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về tiếp tục
thực hiện ghị quyết Trung ương năm khóa VIII về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” trong những năm sắp tới, Thông tin văn hóa và phát triển, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, số 1, tháng 8 - 2004, tr. 4.


3

giúp chúng ta có những nhận thức đúng đắn, từ đó góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, nền văn hoá tiên tiến, hiện đại đi đôi
với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; góp phần thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi đến thắng lợi.
NỘI DUNG
1. Khái niệm về văn hóa

Văn hoá là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Ngay từ thời tiền sử, thuật ngữ văn hóa đã xuất hiện trong ngôn ngữ của loài
người, đặc biệt là các quốc gia được coi là cái nôi của văn minh nhân loại.
Ở phương Tây, từ văn hoá xuất hiện sớm trong đời sống ngôn ngữ.
Nhà ngôn ngữ học người Đức W. Wundt cho rằng: Văn hoá là một từ có từ
căn gốc Latinh: Colere, sau trở thành Cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng. Từ
nét nghĩa này về sau dẫn đến nghĩa rộng hơn là sự hoàn thiện, vun trồng tinh
thần, trí tuệ. Thế kỷ thứ nhất trước công nguyên, Cicéron, nhà hùng biện thời
La Mã từng có câu nói nổi tiếng: Triết học là văn hoá (sự vun trồng) tinh thần
(Filosofia cultura animi est).
Ở Trung Quốc, từ văn hoá đã xuất hiện trong đời sống ngôn ngữ ở thời
Tây Hán (206 trước công nguyên - 25 năm sau công nguyên). Lưu Hướng viết
trong sách Thuyết uyển bài Chỉ vũ: Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng
văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất
phục tùng, dùng văn hoá không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt. Như
vậy, trong cách nghĩ của Lưu Hướng, từ văn hoá được hiểu như một cách giáo
hoá đối lập với vũ lực, văn hoá gần nghĩa với giáo hoá.
Mặc dù có mặt sớm trong đời sống ngôn ngữ phương Tây cũng như
phương Đông như vậy, nhưng phải đến thế kỷ XVIII, từ văn hoá mới được
đưa vào khoa học, sử dụng như thuật ngữ khoa học. Năm 1774, từ này mới
được xuất hiện trong thư tịch và ghi vào từ điển năm 1783 ở Đức. Người đầu


4

tiên sử dụng từ văn hoá trong khoa học là Pufendorf, người Đức. Ông cho
rằng văn hoá là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là
văn hoá đối lập với trạng thái tự nhiên. Sau ông, nhà triết học Herder (1744 1803) cho rằng: văn hoá là sự hình thành lần thứ hai của con người. Theo ông,
lần thứ nhất, con người xuất hiện với tư cách là một thực thể sinh vật tự

nhiên; lần thứ hai con người hình thành như một thực thể xã hội, tức là một
nhân cách văn hoá, theo nghĩa toàn vẹn của từ này.
Sau đó, ông Adelung, người Đức, là người đầu tiên đề xuất quan niệm
lịch sử phát triển của văn hoá như là lịch sử phát triển xã hội, đối lập với lịch
sử của các triều đại. Trong khi đó, H. Kant, nhà triết học, lại cho rằng văn hoá
là sự phát triển, bộc lộ các khả năng, năng lực và sức mạnh của con người.
Cùng với các nhà triết học Đức, nhà triết học Vico người Ý cho rằng
văn hoá là một từ chỉ phức thể gồm: khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị.
Mãi đến năm 1855, khi Klemm công bố công trình Khoa học chung về
văn hoá thì người ta mới coi khoa học về văn hoá hình thành và thực sự phát
triển. Năm 1871, E.B.Tylor công bố công trình Văn hoá nguyên thuỷ ở Luân
Đôn. Lúc này, ngành khoa học về văn hoá mới chính thức được khẳng định bởi
E.B.Tylor đã xác lập được đối tượng nghiên cứu của ngành văn hoá học. Ông đã
dành chương Đối tượng của khoa học về văn hoá để thuyết minh cho vấn đề
này. Và ông chính là người đưa ra định nghĩa: Văn hoá là một phức thể bao gồm
kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và mọi khả năng,
thói quen mà con người với tư cách là thành viên xã hội, đạt được.
Từ đấy, khái niệm văn hoá được nhiều người đề cập. Năm 1952, trong
công trình Văn hoá: tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa (Culture: a
critical review of Concepts and defintions) hai nhà khoa học Mỹ là A.L.Kroeber
và A.C.Kluckhohn đã thống kê và phân tích tới 164 định nghĩa về văn hoá.


5

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, văn hóa là toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần mà con người đã và đang sáng tạo ra trong quá trình hoạt
động thực tiễn xã hội để phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Ở Việt Nam, trong công trình Việt Nam văn hóa sử cương xuất bản
năm 1938, học giả Đào Duy Anh cho rằng: “Văn hóa là cách sinh hoạt của

con người1. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”2.
Trong tuyên bố toàn cầu của UNESCO về đa dạng văn hóa do Đại hội
đồng UNESCO lần thứ 31 (tháng 11 - 2001) đã định nghĩa: Văn hóa nên được
xem là một tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm của xã hội hay một nhóm xã hội và ngoài văn học và nghệ thuật, nó còn
bao gồm cả lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá trị, các
truyền thống và các tín ngưỡng.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng
đã đưa ra nội hàm của khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng: "trong đó đề cập
tám lĩnh vực lớn, trong tám lĩnh vực này thì tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hoá được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần
đặc biệt quan tâm”3.
Theo đó, Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của cá
nhân và cộng đồng trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị
hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
1

Đào Duy Anh: Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - thông tin, H. 2000, tr. 10 - 11.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, t. 3, tr. 431.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 19,20.
2



6

Như vậy, văn hóa bao gồm các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo ra nhằm mục đích phục vụ sự tồn tại và phát triển của cộng
đồng loài người. Văn hóa là thiên nhiên thứ hai do con người tạo ra để phục
vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của chính con người. Văn hóa là sản phẩm của
con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao
động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung
quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên
khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường
xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những
đặc trưng riêng. Hơn nữa, văn hóa chính là nấc thang đưa con người vượt lên
trên những loài động vật khác; và văn hóa là sản phẩm do con người tạo ra
trong quá trình lao động nhằm mục đích sinh tồn.
2. Những đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam hiện đại
Công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”, đòi hỏi chúng ta phải
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Nền văn hóa Việt Nam là sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên tiến và bản
sắc dân tộc.
2.1 Nền văn hóa Việt Nam hiện đại là nền văn hóa mang tính chất
tiên tiến
Xây dựng một nền văn hóa mới tiên tiến và đậm đà bẳn sắc dân tộc là
một vấn đề mang tính chất chiến lược, góp phần to lớn thực hiện thắng lợi mục
tiêu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, tính chất tiên tiến của nền văn hóa mà
nhân dân ta đang xây dựng được thể hiện trên môt số nội dung căn bản sau:
Một là, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu
nước và tiến bộ



7

Đất nước ta đang ở thời kỳ quá độ với nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi huy động
tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của cả dân tộc, của tất cả các thành phần
kinh tế. Chủ nghĩa yêu nước là một động lực cực kỳ to lớn. Do đó, nền văn
hóa tiên tiến trước hết phải là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ.
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa hiện đại dựa trên các giá trị văn hóa
cao đẹp và tiến bộ của dân tộc và thời đại. Đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở chỉ đạo đời sống tinh thần
dân tộc và là thành tố quan trọng của văn hóa.
Dưới ánh sáng của hệ tư tưởng tiến bộ trên, tính tiên tiến của nền văn
hóa Việt Nam thể hiện ở mục tiêu mà nền văn hóa hướng tới là độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vẫn đang là mục tiêu của các quốc gia dân tộc của những người
tiến bộ và cách mạng trên thế giới hướng tới. Bảo vệ độc lập dân tộc, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay là một quá trình
thống nhất không thể tách rời. Chế độ xã hội tiên tiến quy định tính tiên tiến
của nền văn hóa, đồng thời nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã nhấn mạnh: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt
lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”1.
Yêu nước là yêu làng quê, yêu phố phường, yêu vùng đất, vùng biển,
vùng trời Tổ quốc; là yêu thương, gắn bó máu thịt với đồng bào, đồng chí; là
1


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 55 - 56.


8

quyết tâm bảo vệ toàn vẹn độc lập chủ quyền đất nước, quyền tự do, dân chủ;
là ý chí đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, mọi người dân đều
được ấm no, hạnh phúc. Gắn liền với yêu nước là tiến bộ. Nền văn hóa tiên
tiến phải nền văn hóa kết tinh tất cả những gì là tiến bộ, là chân, là thiện, là
mỹ của dân tộc, của thời đại, của loài người.
Yêu nước và tiến bộ là đặc trưng bao quát nhất của nền văn hóa tiên
tiến. Còn hạt nhân cốt lõi của nền văn hóa tiên tiến là ý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Nói văn hóa không thể không nói hệ tư tưởng, vì hệ tư tưởng chi phối
quan niệm về giá trị, chi phối đạo đức, lối sống và hành vi con người..
Hai là, nền văn hóa tiên tiến phải thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng
Văn hóa ra đời trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại với tư cách
một sản phẩm của hoạt động sống, hoạt động lao động sản xuất của con người.
Văn hóa không phải là cái mà con người tự nhiên có được, mà là cái con người
chỉ có thể tiếp nhận được khi phải trải qua một quá trình giáo dục (cả tự phát
lẫn tự giác) lâu dài. Ở một mức độ nhất định, khi nói đến văn hóa, người ta
thường coi văn hóa là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn con người, gắn liền với
giáo dục - đào tạo con người, một cộng đồng người hướng tới những giá trị,
những phẩm chất tốt đẹp cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình.
Với tính cách công cụ giáo dục, bồi dưỡng nhân tính cho con người, văn
hóa có nhiều tính chất mang đậm ảnh hưởng của đời sống vật chất cũng như
tinh thần của con người trong xã hội. Các tính chất của văn hóa, theo chúng
tôi, bao gồm tính nhân văn, tính sáng tạo, tính riêng biệt (hay tính bản sắc),

tính trường tồn, v.v.. Các tính chất này có mối liên hệ tác động qua lại, bổ
sung lẫn nhau, trong đó vai trò của tính nhân văn là nổi trội hơn cả.
Tính nhân văn của văn hóa được hiểu như là tổng hòa của tính khoan
dung, lòng nhân ái; của ý thức trách nhiệm về giống nòi, về cộng đồng, về
dân tộc, v.v. của cá nhân cũng như của các cộng đồng trong mối quan hệ tác


9

động qua lại lẫn nhau ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài
người nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục, bồi dưỡng
nhân tính cho các cá nhân để hướng tới xây dựng một xã hội hòa bình, ổn
định, mang đậm tính người.
Nói đến nhân văn là nói đến con người, giải phóng con người và phát
triển năng lực của con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng duy nhất
lấy việc giải phóng con người là mục tiêu cao cả của mình. Giải phóng con
người không phải chỉ làm cho con người thoát khỏi mọi hình thức áp bức, bóc
lột bất công về mặt thể xác mà còn giải phóng con người về mặt tinh thần, giải
phóng mọi tiềm năng sáng tạo mở ra điều kiện xã hội tốt đẹp cho con người
phát triển toàn diện về nhân cách. Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa nhân
văn trực tiếp nhằm vào hành động để giải phóng con người theo ý nghĩa cách
mạng cao quý đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tinh thần giải
phóng con người như là mục đích tối thượng của chủ nghĩa Mác - Lênin muốn
cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất
cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình 1. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: “Một nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đương nhiên bao gồm cả tính nhân văn 2.
Tinh thần nhân văn đó được cụ thể tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII, là: “Nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh
phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan

hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên”3.
Ba là, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ
Một trong những nét nổi bật của nền văn hóa mới là tính chất dân chủ.
Đây là nội dung mang tính tiến bộ sâu sắc. Xây dựng tính chất dân chủ của
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, t. 4, tr. 272.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Chính
trị quốc gia, H. 1993, tr. 38.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 56.
2


10

nển văn hóa mới góp phần làm thay đổi nhiều mặt của đời sống văn hóa dân
tộc. Dân chủ là nguồn sữa nuôi dưỡng nền văn hóa, là tiền đề quan trọng cho
sự phát triển văn hóa. Dân chủ là động lực quan trọng cho sự phát triển tài
năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân góp phần làm phong phú, đa
dạng nền văn hóa dân tộc để phục vụ cho con người. Dân chủ gắn liền với tự
do sáng tạo, tôn trọng cá tính sáng tạo, ý kiến cá nhân, giá trị cá nhân trong
văn hóa mọi hoạt động của đời sống xã hội.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
gắn liền với chế độ chính trị xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân”. Nền
văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát
huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân, dân tộc và thời đại. Tính chất dân chủ
của nền văn hóa thống nhất với việc để cao ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ
cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của công

dân trước pháp luật. Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn liền với việc nâng
cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân
dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước. Phát huy dân chủ phải đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chống tư ưởng tự do vo chính
phủ, tự do vô kỷ luật.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII
nhấn mạnh: “Phải đảm bảo dân chủ, tự do cho mọi sáng tạo và mọi hoạt động
văn hóa. Mặt khác cần nhấn mạnh rằng sự sáng tạo chân chính gắn liền với
trách nhiệm trước công chúng, trước dân tộc và thời đại”.
Bốn là, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa bao gồm tính hiện đại
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện
đại, cập nhật với thành tựu với văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc
tế. Ngoài yếu tố tư tưởng tiên tiến là Chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư ưởng Hồ
Chí Minh thì các yếu tố khác của nó cũng đòi hỏi ở một trình độ hiện đại:
trình độ dân trí, khoa học - công nghệ..v.v.. Phải dần dần tiến kịp và hòa nhập


11

với trình độ hiện đại của thế giới, phải hướng tới cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đòi hỏi sự vận dụng
sáng tạo và làm chủ các tri thức khoa học và công nghệ để xây dựng đất nước.
Nâng cao trình độ tư duy khoa học, duy lý trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường, giải quyết các vấn đề dân tộc đặt ra trên
tầm thời đại. Nền văn hóa mới phải tạo ra những phẩm chất, đạo đức, tâm
hồn, lối sống của người Việt Nam hiện đại ngang tầm với sự nghiệp đổi mới
đất nước. Từ đó góp phần hình thành bản lĩnh con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vững bước
trước những biến động to lớn của thời đại, những thách thức trước vận mệnh
dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam hiện đại phải vươn lên giải quyết các vấn đề

đặt ra của nhân loại: Vấn đề khủng hoảng toàn cầu, vấn đề chiến tranh và hòa
bình, vấn đề ô nhiễm môi trường, nạn đói nghèo và tệ nạn xã hội..v.v..
Cần phải phát triển giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ, nâng cao
trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Nền văn hoá mới phải tập trung xây dựng những phẩm chất mới, xây
dựng đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với công
cuộc đổi mới. Mặt khác, nền văn hóa Việt Nam phải tham gia cùng cộng đồng
quốc tế giải quyết những vấn đề đặt ra trước xu thế toàn cầu hóa, khẳng định bẳn
lĩnh và bản sắc dân tộc trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Năm là, nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở hình thức biểu hiện, phương
tiện truyền tải nội dung.
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa mới còn được thể hiện ngay trong
hình thức biều hiện và phương tiện truyền tải nội dung. Sử dụng các hình thức
sáng tạo mới bằng các công nghệ hiện đại làm sâu sắc, phong phú và đa dạng
các sản phẩm văn hóa dân tộc. Có cách thức và phương pháp tiên tiến để
truyền tải nội dung và làm mới giá trị văn hóa cổ truyền cho phù hợp với thời


12

đại. Đồng thời phải xây dựng kết cấu hạ tầng của xã hội và văn hóa từng bước
hiện đại hóa. Đầu tư để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho
hoạt động văn hóa tiến kịp trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Có như vậy,
mới giúp cho sự sáng tạo tốt hơn, sự truyền bá nhanh hơn, rộng rãi hơn đáp
ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng và càng cao của nhân dân. Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII chỉ rõ: “Tiên
tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong
các phương tiện truyền tải nội dung”1.
2.2 Bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới

Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh diện
mạo, cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi quốc gia dân tộc; chứa
đựng những tinh hoa của quá khứ kết hợp với những cái tốt đẹp của hiện tại; là
dấu hiệu cơ bản để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Bản sắc văn hoá dân
tộc thể hiện tập trung trong truyền thống văn hoá dân tộc. Truyền thống văn
hoá là các giá trị do lịch sử truyền lại, được thế hệ sau kế thừa, gìn giữ và phát
huy trong thời đại của mình, tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hoá.
Nền văn hóa đó phải phát triển trên cái nền những sắc thái riêng đã trở thành
bản sắc của chính nó. Nếu không, xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng áp đặt văn
hóa được truyền bá bởi sức mạnh vật chất và phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ
biến văn hóa của các quốc gia dân tộc thành cái bóng của nền văn hóa khác.
Dân tộc là một cộng đồng người ổn định có những đặc điểm chung:
lãnh thổ, kinh tế, quốc gia, tâm lý, ngôn ngữ và nền văn hóa chung. Văn hóa
là yếu tố cấu thành dân tộc thể hiện trình độ trí tuệ, đặc điểm, tâm hồn, nhân
cách, lối sống của cộng đồng ấy. Ở phương Đông trong quá trình hành thành
quốc gia dân tộc, yếu tố kinh tế, nhu cầu thống nhất thị trường không hoàn
toàn giữ vai trò quyết định. Nhiều dân tộc ở phương Đông ra đời sớm, trước
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 56.


13

khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện. Do đặc điểm địa lý, lịch sử, văn hóa mang tính
đặc thù của phương Đông quy định, văn hóa Việt Nam có vai trò to lớn góp
phần hình thành dân tộc và bảo đảm tính bền vững của quốc gia dân tộc.
Nguyễn Trãi, nhà văn lớn của Việt Nam là một trong những người đầu tiên
nhận thức rõ vai trò to lớn của văn hóa trong sự hình thành dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn sưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Với ý nghĩa đó, văn hóa là linh hồn, sức sống của dân tộc. Cho nên, văn hóa
còn thì dân tộc còn, văn hóa suy thì dân tộc suy, văn hóa mất thì dân tộc diệt vong.
Bản sắc dân tộc của văn hóa, là những yếu tố độc đáo, yếu tố đặc sắc
của nền văn hóa, biểu hiện đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc (Hồ Chí Minh).
Chúng tạo nên sức mạnh cố kết, duy trì và phát triển đời sống của một cộng
đồng với tư cách là một dân tộc, là bộ gen bảo tồn dân tộc. Bản sắc dân tộc
thể hiện ở hệ giá trị dân tộc, ở truyền thống, ở bản lĩnh, tâm hồn, lối sống, tình
cảm, cách nghĩ, cách suy tư và cả khát vọng, biểu tượng của một dân tộc.
Bản sắc văn hóa Việt Nam theo nghị quyết lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được hun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống.
Bản sắc đó chi phối toàn bộ đời sống của cộng đồng dân tộc Việt Nam
trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nó được biểu hiện rõ rệt nhất trước những


14

thách thức của lịch sử đối với vận mệnh dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam
đã góp phần bảo tồn dân tộc Việt Nam và giúp cho cộng đồng dân tộc tránh
được âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược trong lịch sử. Ngày nay, văn
hóa Việt Nam đang trở thành nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực để

nhân dân Việt Nam phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.
Để xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần: kế
thừa và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đổi mới bản sắc của
dân tộc phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đem lại
hạnh phúc cho nhân dân. Nghiên cứu phương thức chuyển đổi giá trị, bù đắp
những thiếu hụt của nền văn hóa cổ truyền trước yêu cầu mới của thời đại,
của con người Việt Nam hôm nay. Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với giao
lưu văn hóa với nước ngoài, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm
giàu đẹp thêm văn hóa Việt Nam. Ngăn trặn và đấu tranh với sự xâm nhập
của những sản phẩm văn hóa, phản giá trị, chống lại âm mưu diễn biến hòa
bình trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng của bọn phản động quốc tế hiện nay. Bản
sắc văn hóa dân tộc và tính tiên tiến của nền văn hóa cần phải được thấm đậm
không chỉ trong công tác văn hóa, văn nghệ mà còn trong hoạt động xây
dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo sao cho mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy độc lập, có cách làm
vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam.
Tuy nhiên, cần nhận thức bản sắc văn hoá dân tộc là một khái niệm
“động” và “mở” mang tính lịch sử cụ thể và vận động đổi mới không ngừng
trên cơ sở loại bỏ những yếu tố bảo thủ và tiêu cực, tiếp thu và phát huy
những yếu tố tích cực và tiến bộ, đồng thời tạo lập các giá trị mới để đáp ứng
với yêu cầu phát triển của thời đại. Không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với
“cái cũ”, với quá khứ, với cái “nguyên gốc” do dân tộc mình tạo ra. Bản sắc
văn hoá dân tộc bao hàm các giá trị do dân tộc mình sáng tạo ra trong quá khứ


15

và hiện tại, vừa bao hàm các giá trị tinh hoa của văn hoá nhân loại được dân
tộc tiếp nhận một cách sáng tạo, biến nó thành nguồn lực bên trong để xây

dựng và bảo vệ đất nước. Cũng không nên đồng nhất bản sắc dân tộc với một
số yếu tố hình thức bên ngoài của nền văn hoá, mà đây là sự thống nhất giữa
nội dung và hình thức, thống nhất giữa trình độ tư duy, tinh thần độc lập tự
cường, ý chí và bản lĩnh dân tộc với các hình thức biểu hiện bên ngoài của nó.
Bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trước hết cần bảo vệ và phát huy
truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, khẳng định ý chí và bản lĩnh
của con người Việt Nam hiện đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng
thời bảo vệ và phát huy các tài sản văn hoá vật thể và phi vật thể, các giá trị
tinh hoa của văn hoá dân tộc, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh để làm
động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước trongthời kỳ đổi mới.
3. Nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc
Hội nghị lần thứ năm ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã
xác định các quan điểm chỉ đạo cơ bản và những nhiệm vụ cụ thể để xây dựng
và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Các quan điểm
này tiếp tục được bổ sung, phát triển, thể hiện trong các văn kiện của Đảng từ
Đại hội IX đến Đại hội XI. Trong đó, những nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá
mới được Đảng ta xác định như sau:
3.1. Những nhiệm vụ trọng tâm
Xây dựng văn hoá là sự nghiệp lâu dài. Bởi vì chưa từng có một cuộc
cách mạng xã hội nào toàn diện và triệt để như cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Những tàn dư của các hình thái kinh tế- xã hội , các phương thức sản
xuất cổ truyền vẫn tồn tại, chồng chất lên nhau như những “trầm tích của lịch
sử”, cùng với những thói quen, truyền thống lạc hậu tạo thành những khó
khăn hết sức to lớn và phức tạp. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, cần tiếp tục
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng đạo đức, lối sống và đời sống


16


văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là các tổ chức Đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và trong từng cá nhân, gia đình, thôn
xóm, đơn vị, tổ chức cơ sở cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng thường
xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài.
Bên cạnh đó, gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hóa với nhiệm vụ xây
dựng, chỉnh đốn Đảng thông qua cuộc vận động lớn về xây dựng đạo đức, lối
sống theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể hóa các chuẩn mực đạo đức, lối sống
cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Nâng cao chất lượng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và cải cách hành chính, kiên quyết đưa những phần tử
thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước.
Hơn nữa, cần nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng con người Việt
Nam theo năm đức tính được xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
cụ thể hóa theo các đối tượng, gắn chặt mục tiêu xây dựng con người với hoạt
động thực tiễn và các phong trào thi đua yêu nước sâu sắc của quần chúng. Quy
tụ mọi hoạt động văn hóa, phát huy thế mạnh của từng loại hình văn hóa - thông
tin phục vụ nhiệm vụ bồi dưỡng lòng yêu nước, phẩm chất tốt đẹp của con người
Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện tốt, cần chú trọng xây dựng văn hóa cơ sở, nhất là cộng đồng
dân cư, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thường
xuyên nâng cao trình độ phổ cập văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa ngày càng cao
và đa dạng của tầng lớp nhân dân đi đôi với nhiệm vụ bồi dưỡng các tài năng văn
hóa, khuyến khích văn nghệ sỹ sáng tạo được nhiều công trình văn hóa - nghệ
thuật tiêu biểu có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, tương xứng với sự nghiệp
cách mạng của dân tộc và công cuộc đổi mới. Xây dựng nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc chúng ta phải tiến hành cải tạo văn hoá xã hội một cách
toàn diện, phải “rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”, thực hiện những chỉ dẫn
của Lênin là không được “khinh suất”, không “hấp tấp, vội vàng” mà phải “có ý
chí cách mạng”, đồng thời phải “kiên trì và thận trọng”.



17

3.2. Những nhiệm vụ cụ thể
Để xây dựng thành công nền văn hoá tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc,
Đảng ta đã chỉ ra mười nhiệm vụ cụ thể:
Một là, xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
Xây dựng con người Việt Nam hiện đại đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới là nhiệm vụ trọng tâm của quá trình xây dựng và phát triển
nền văn hoá hiện nay. Xuất phát từ mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội là vì
con người, vì sự phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách của con người, thấy
rõ vai trò của nhân tố con người - chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của
cải vật chất và văn hóa, Đảng ta đặt ra nhiệm vụ hàng đầu của văn hóa là xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Yêu cầu nhân cách của con
người Việt Nam hôm nay là: Phát triển cao về mặt trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp
xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII nêu rõ: Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
với những đức tính sau:
Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
ập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Đề cao tinh thần tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung.
Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo
vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.



18

Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn năng
lực thẩm mỹ và thể lực.
Xây dựng con người phát triển toàn diện với những phẩm chất trên là
công việc khó khăn, phức tạp cần phải có sự kiên trì, bền bỉ và có một chiến lược
lâu dài. Phải huy động mọi lực lượng, vận dụng sức mạnh tổng hợp của văn hóa
để hình thành con người mới từ lúc lọt lòng và trong suốt cả cuộc đời bằng nhiều
hình thức và biện pháp sinh động, hiệu quả và thích hợp với từng giai đoạn.
Nghị quyết Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn
mạnh: “Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng
đồng và xã hội. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện
nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần
yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Hai là, xây dựng môi trường văn hóa
Môi trường văn hóa là môi trường sống của con người chứa đựng
những giá trị văn hóa của quá khứ và hiện tại, trong đó bao gồm các hoạt
động văn hóa của con người: sáng tạo, phân phối, bảo quản, tiêu dùng các sản
phẩm văn hóa. Môi trường văn hóa được tạo nên bởi nhiều yếu tố mà yếu tố
trung tâm chính là con người văn hóa và các quan hệ xã hội của nó.
Xây dựng môi trường văn hóa là tạo những điều kiện để các hoạt động
văn hóa diễn ra thường xuyên, liên tục và đáp ứng nhu cầu tinh thần lành
mạnh và ngày càng tăng lên của nhân dân. Xây dựng môi trường văn hóa góp
phần tạo ra môi trường chính trị - xã hội ổn định, an toàn và bền vững trên cơ
sở đời sống kinh tế được bảo đảm. Môi trường văn hóa còn bao gồm môi

1


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001,
tr.114.


19

trường sống - môi trường sinh thái của con người được bảo vệ và chăm sóc
tốt, đem lại cuộc sống con người sự an sinh và có chất lượng.
Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm của xây
dựng môi trường văn hóa lãnh mạnh, do vậy Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII chỉ rõ: “Tạo ra ở các đơn vị cơ sở, các
vùng dân cư đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa
dạng và không ngừng tăng lên của tầng lớp nhân dân. Phát triển và không
ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa cơ sở; đầu tư
xây dựng một số công trình trọng điểm tầm quốc gia. Tăng cường hoạt động
của các tổ chức văn hóa, nghệ thuật chuyên nghiệp, phát triển phong trào
quần chúng hoạt động văn hóa, nghệ thuật”1.
Cần chú ý xây dựng văn hóa gia đình trong phong trào xây dựng văn
hóa cơ sở và gia đình văn hóa là một nội dung quan trọng. Gia đình là hạt
nhân của xã hội, muốn cho xã hội tốt thì gia đình càng phải tốt. Do vậy, môi
trường văn hóa gia đình có vị trí hết sức quan trọng trong việc tạo nên môi
trường văn hóa cộng đồng. Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII khẳng định: Giữ gìn và phát huy những giá trị đạo lý
tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nâng cao vai trò gương mẫu của các bậc cha
mẹ. Cọi trọng xây dựng gia đình văn hóa. Xây dựng mối quan hệ khăng khít
giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
Xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; xây dựng trường học,
cơ quan, đơn vị văn hoá; xây dựng làng bản, khối phố văn hoá là những nội
dung quan trọng để xây dựng môi trường văn hoá ở cơ sở.

Ba là, phát triển sự nghiệp văn học và nghệ thuật.
Văn học, nghệ thuật là bộ phận tinh tế và nhạy cảm của văn hoá, thể hiện
khátvọng vươn tới các giá trị Chân- Thiện- Mỹ của nhân dân. Đảng ta đã từng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, H. 1998, tr. 59 - 60.


20

xác định: Văn học, nghệ thuật là bộ phận trọng yếu của văn hóa dân tộc; không
có một hình thái ý thức nào có thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong xây
dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống
của con người. Với vai trò của văn học, nghệ thuật thì việc phát triển nền văn
học, nghệ thuật được coi là một nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng
và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiệm vụ chủ yếu,
quan trọng hàng đầu của văn học, nghệ thuật là sáng tác ra những tác phẩm có
giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có
sức hấp dẫn mạnh mẽ và có tác dụng sâu sắc xây dựng con người. Thấm nhuần
và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn học nghệ thuật cũng là
một mặt trận. Anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy”1.
Khuyến khích tìm tòi thể hiện mọi phương pháp, mọi phương cách
sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công
chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính. Nâng cao
thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng, đặc biệt
là tầng lớp thanh thiếu niên, nhi đồng. Tạo điều kiện để nhân dân tham gia
sáng tác, hưởng thụ, phê bình các tác phẩm có giá trị dân tộc và nhân loại.
Bảo đảm tự do, dân chủ cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, văn
nghệ, vun đắp các tài năng đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sỹ

trước công chúng, dân tộc và thời đại.
Vai trò quan trọng của phê bình văn học, nghệ thuật là đánh giá chính
xác, tinh tường giá trị các tác phẩm, để động viên khuyến khích sự sáng tạo
và hướng công chúng thưởng thức đúng các giá trị của nghệ thuật. Cần nâng
cao chất lượng và phát huy tác dụng của phê bình văn học, nghệ thuật vì một
nền văn học, nghệ thuật tiến bộ và nhân văn. Trong hoạt động sác tác, nghiên
cứu, lý luận, phê bình tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với
đường lối văn hóa nghệ thuật của Đảng.
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, t. 6, tr. 368.


21

Lực lượng văn nghệ sỹ chuyên nghiệp là lực lượng nòng cốt trong sáng
tác văn học, nghệ thuật cần được chú ý tạo điều kiện về mặt vật chất và tinh
thần. Chú trọng bồi dường, đào tạo lớp văn nghệ sỹ trẻ để bổ sung vào lực
lượng sáng tác văn học, nghệ thuật của đất nước.
Bốn là, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa
Di sản văn hoá là tài sản, của cải quý báu kết tinh sự sáng tạo lâu dài của
dân tộc do lịch sử để lại, bao gồm di sản vật thể và phi vật thể. Di sản văn hóa có
tác dụng: gắn kết cộng đồng dân tộc; tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc; cơ sở để
sáng tạo các giá trị mới; cơ sở để giao lưu văn hóa với cộng đồng khác. Ngoài ra
di sản văn hóa còn góp phần thỏa mãn nhu cầu văn hóa của nhân dân, nâng cao ý
thức tự hào dân tộc và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa đòi hỏi phải nghiên cứu,
phân tích, lựa chọn các yếu tố tích cực trong di sản để kế thừa, nâng cao trong
sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới của văn hóa dân tộc.
Giáo dục các thế hệ sau thấu hiểu, tự hào, tôn trong di sản của quá khứ,

biết khám phá các giá trị của văn hóa trong di sản để kế thừa và phát huy. Cần
phải chuyển đổi những giá trị cũ thành những giá trị mới đáp ứng yêu cầu của
thời đại và bù đắp những thiếu hụt trong di sản bằng những giá trị mới. Đầu tư
cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa một cách có quy hoạch, có
sự chỉ đạo thống nhất. Nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân và các cơ quan
nhà nước, các đoàn thể xã hội trong việc bảo vệ các di sản văn hóa. Coi di sản
văn hóa là tài sản văn hóa vô giá của cộng đồng, xác định các chủ thể của các tài
sản để có trách nhiệm giữ gìn, bảo tồn và tôn tạo. Đồng thời với việc sáng tạo ra
các giá trị văn hóa mới, tạo ra di sản cho tương lai là việc giới thiệu di sản văn
hóa dân tộc với thế giới, giúp cho nhân dân thế giới hiểu biết, trân trọng và tham
gia các hoạt động đóng góp bảo tồn các di sản văn hóa của chúng ta. Thông qua
đó mà phát triển tình hữu nghị, tinh thần hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để phát
triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa của đất nước.


22

Năm là, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học- công nghệ
Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ này, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết về Chiến lược phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII chỉ rõ phải hết sức quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ
công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống
văn hóa ý chí vươn lên vì tương lại của mỗi người và tiến bộ dân tộc.
Trên tinh thần ấy, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát
triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”1.

Chú ý xây dựng lực lượng giáo viên có phẩm chất chính trị, đạo đức,
tài năng trong việc trồng người thông qua hoạt động dạy chữ, dạy nghề và dạy
người của hệ thống giáo dục - đào tạo quốc dân. Chú ý xây dựng giáo trình,
giáo khoa về khoa học xã hội và nhân văn trong đó chú ý đến chất lượng môn
giáo dục công dân và lý luận đạo đức ở trường phổ thông.
Hoạt động khoa học xã hội, khoa học tự nhiên cũng góp phần tích cực
cho việc giải quyết các vấn đề văn hóa, vấn đề con người đang được đặt ra
hiện nay. Khoa học và công nghệ còn tạo điều kiện cho sự phát triển các hoạt
động văn hóa, thông tin về phương diện kỹ thuật sáng tạo, lưu giữ và truyền
bá ngày càng nhanh chóng và phổ cập hơn. Các địa phương, các ngành cần
chú trọng xây dựng các luận cứ khoa học cho các dự án, các chương trình
phát triển kinh tế- xã hội, có cơ chế để phát huy vai trò dân chủ của nhân dân
tham gia đóng góp vào các chương trình, dự án này. Cần đẩy mạnh công tác
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001,
tr.112


23

tuyên truyền, hướng dẫn người lao động sử dụng đúng những thành tựu khoa
học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất, tránh tình trạng lạm dụng hoặc thiếu
hiểu biết khi sử dụng những thành tựu này.
Sáu là, phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng chúng gồm sách báo, tạp chí, các
đài phát thanh truyền hình địa phương…Vai trò của các phương tiện thông tin
đại chúng ngày càng tăng trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hóa dân tộc. Cần củng cố, phát triển đi đôi với quản lý
tốt các phương tiện thông tin đại chúng về mọi mặt.

Trước hết xây dựng đội ngũ những người làm báo chí có trình độ chính
trị, nghiệp vụ vững vàng, có đạo đức nghề nghiệ trong sáng, có trách nhiệm xã
hội cao. Từng bước hiện đại hóa hệ thống thông tin đại chúng về cơ sở vật chất
kỹ thuật, về phương thức hoạt động theo kịp với trình độ chung của thế giới. Xây
dựng chiến lược truyền thông quốc gia đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế phát triển của cuộc cách mạng tin học hiện
nay của thế giới. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức hệ thống thông tin đại chúng. Thực hiện tốt phương châm báo chí là tiếng
nói của Đảng và Nhà nước và là diễn đàn tin cậy của nhân dân.
Bên cạnh phát triển chiến lược truyền thông quốc gia, các địa phương,
các ngành , các cấp ở cơ sở cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, tạo
điều kiện để phát triển mạnh mạng lưới thông tin văn hoá ở cơ sở.
Bảy là, bảo tồn và phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Nước ta gồm 54 dân tộc anh em từng đoàn kết, gắn bó với nhau trong
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ
phận cấu thành nền văn hóa Việt Nam phong phú và đa dạng. Văn hóa các
dân tộc thiểu số không chỉ làm cho văn hóa Việt Nam đa dạng mà nó còn tiếp
biến lẫn nhau làm cho văn hóa Việt Nam phát triển rực rỡ. Do vậy, xây dựng


24

và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc không thể
không bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số.
Cần coi trọng và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng và
phát triển các giá trị văn hóa mới. Nâng cao trình độ dân trí, trình độ khoa học,
kỹ thuật công nghệ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tiến hành nghiên cứu,
điều tra, sưu tầm, phổ biến các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân
tộc đi đôi với đào tạo đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số. Khuyến khích họ
công tác tại địa bàn của dân tộc mình. Ưu tiên tài trợ cho hoạt động sáng tạo của

các tác giả văn hóa nghệ thuật là người dân tộc thiểu số và những người sáng tác
về đề tài dân tộc và miền núi. Tăng cường công tác điều tra sưu tầm, tôn tạo, bảo
vệ và phát huy các công trình văn hoá mới, xây dựng lối sống, tác phong, phong
tục và tập quán mới phcụ vụ yêu cầu phát triển hiện nay, mở rộng hợp tác giao
lưu, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc để cùng tiến bộ.
Tám là, chính sách văn hóa đối với tôn giáo
Tôn giáo tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và
đang tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp
luật. Đạo đức tôn giáo nhiều mặt phù hợp với xã hội mới. Tôn trọng tự do tín
ngướng, bảo đảm cho các tôn giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng
pháp luật góp phần làm phong phú tinh thần của nhân dân có đạo. Thực hiện
nhất quán đoàn kết dân tộc của Đảng, khuyến khích những ý tưởng công
bằng, bác ái, hướng thiện của tôn giáo vào sự nghiệp xây dựng đất nước và
cuộc sống tốt đẹp cho nhân dân lao động.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng đi đôi với không ngừng tạo điều kiện cho
quần chúng có đạo tiến bộ về mọi mặt. Phải chăm lo phát triển kinh tế - xã
hội. Giúp đỡ đồng bào theo đạo xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, xây
dựng đời sống văn hóa thực hiện đầy đủ trách nhiệm công dân đối với Tổ


25

quốc. Chống lại sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm phá hoại
khối đoàn kết dân tộc và sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của đồng bào theo các tôn giáo khác
nhau với nhân dân, với Tổ quốc, với sự nghiệp đổi mới hiện nay. Kiên quyết
đấu tranh việc lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự nghiệp đổi mới.
Chín là, mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa

Giao lưu hợp tác quốc tế là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa của các quốc gia dân tộc. Nhiệm vụ mở rộng quốc tế về
văn hóa có nội dung chính sau:
Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với thế
giới, để nhân dân thế giới và các dân tộc khác hiểu biết về dân tộc Việt Nam.,
chia sẻ, đồng cảm và ủng hộ nhiều hơn nữa sự nghiệp đổi mói của Việt Nam.
Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước
ngoài; học tập những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các
nước trên thế giới.
Mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài phải đi đôi với việc giữ gìn
và bồi đắp bản sắc văn háo dân tộc. Phải phát triển văn hóa Việt Nam lên một
tầm cao mới để góp phần vào sự phát triển văn hóa nhân loại.
Thực hiện chính sách mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về văn hóa,
cần nâng cao cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn lợi dụng giao lưu văn hóa để
thực hiện diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, chống lại các sản phẩm phi
văn hóa, đồi trụy, phản động thâm nhập vào đời sống tinh thần của nhân dân ta.
Chú trọng giúp đỡ cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn và bảo vệ
văn hoá dân tộc, hiểu biết hơn về đất nước và sự nghiệp đổi mới, tạo điều kiện
để họ tham gia và xây dựng, phát triển văn hoá dân tộc.
Mười là, củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa
Thể chế văn hoá là hệ thống các quy định về quản lý, xây dựng và phát
triển văn hoá, bao gồm: Hệ thống tổ chức, bộ máy cán bộ trên lĩnh vực văn hoá;


×