Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Tìm hiểu giới tính và SKSS (Phần 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 48 trang )

Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình

TÌM HIỂU GIỚI TÍNH
VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN
Phần 1: NAM
Tài liệu này có đi sâu tìm hiểu về giới tính, có ảnh minh họa.
Giúp GV và người lớn tham khảo
Chưa phù hợp với các em dưới 16 tuổi
Không nên đọc tài liệu nơi đông người
23082008
1
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
BỘ PHẬN SINH DỤC NAM

Hình 1
1. Bàng quang 2. Xương chậu 3. Dương vật
4. Thân dương vật 5. Đầu dương vật 6. Da bao qui đầu
7. Miệng niệu đạo 8. (Ruột già) 9. (Ruột thẳng)
10. Túi tinh 11. Ống xuất tinh 12. Tuyến Tiền liệt
13. Tuyến Hành-Niệu đạo 14. (Hậu môn) 15. Ống dẫn tinh
16. Mào tinh hoàn 17. Tinh hoàn 18. Bìu dái
1. TUYẾN TIẾN LIỆT
Tuyến tiền liệt (Hình 1- 12)
Tuyến tiền liệt (Prostate) là một khối hình nón mà đáy ở trên, đỉnh ở dưới. Tuyến rộng
4cm, cao 3 cm và dày 2,5 cm, nặng trung bình 15-20 g (ở người lớn độ tuổi 30-40); ở sau tuổi
45, tuyến thường to ra. Tuyến tiền liệt nằm ở dưới bàng quang và bao quanh niệu đạo tiền liệt.
23082008
2
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Dịch tiết của tuyến tiền liệt đóng góp khoảng 25% thể tích tinh dịch và góp phần vào sự
vận động và sức sống của tinh trùng. Dịch tiết của tuyến tiền liệt được đổ vào niệu đạo tiền


liệt.
Tuyến tiền liệt(Prostate) của người bình thường
Tuyến tiền liệt bị phì đại ở người lớn tuổi
Một số bệnh thường gặp ở tuyến tiền liệt
- Tuyến tiền liệt nở lớn (phì đại)
Tuyến tiền liệt là một cơ quan có hình trái mận, bình thường đường kính độ 5cm định vị
ở đáy bàng quang. Tuyến tiền liệt thay đổi kích cỡ, và ở đàn ông lớn tuổi, một tuyến nở lớn
rất nhiều, có khi bằng trái bóng chày, nhưng ngược lại ở thanh thiếu niên, tuyến này chỉ còn
23082008
3
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
nhỏ, đường kính chừng hơn 2,5cm. Niệu đạo đi qua trung tâm tuyến tiền liệt và túi tinh
được định vị vừa đúng trên nó. Trong phạm vi tuyến tiền liệt, tinh trùng từ tinh hoàn phối
hợp với chất dịch của tuyến tiền liệt đi vào niệu đạo, tạo ra tinh dịch, tinh trùng chứa trong
chất dịch để được phóng ra. Tuyến tiền liệt nở lớn (cũng được biết như chứng phì đại tuyến
tiền liệt lành tính) là một khối u tự nhiên của các mô tuyến tiền liệt xảy ra ở hầu hết đàn ông
lớn tuổi. Nguyên nhân có thể do sự thay đổi tự nhiên của việc cân bằng nội tiết tố trong cơ
thể bắt đầu ở khoảng tuổi 30, làm cho tuyến tiền liệt bắt đầu lớn ra dần, và khi quá lớn cần
phải phẫu thuật.
Tuyến tiền liệt nở lớn không phải là một vấn đề nghiêm trọng, nhưng trong một số
trường hợp có thể phát sinh bệnh. Tuyến tiền liệt nở lớn có thể ép lên niệu đạo và làm cho
khó đi tiểu. Việc tích nước tiểu có thể làm bàng quang nới rộng vĩnh viễn, cơ mất khả năng
co thắt, và dễ phát sinh các viêm nhiễm đường tiểu, đôi khi còn gây tình trạng bí tiểu. Bàng
quang đầy gây cảm giác bị sức ép và khó chịu nhưng họ thường không hiểu vì sao. Sức ép
của nước tiểu chuyển động ngược lại làm đầy tràn bàng quang, qua thời gian, làm hại niệu
quản (ống đem nước tiểu từ thận xuống bàng quang) và làm hại cả thận. Mặc dù các biến
chứng nghiêm trọng của sự phì đại tuyến tiền liệt, như làm hại thận hoặc suy thận thì hiếm
thấy, các biến chứng có thể phát triển âm thầm không có các triệu chứng đáng kể khác hơn
là việc khó tiểu. Mọi tình trạng khó tiểu đều cần bác sĩ kiểm tra.
Các triệu chứng chính của phì đại tuyến tiền liệt là, thường xuyên buồn tiểu nhưng lại

khó tiểu, nhất là vào ban đêm. Bí tiểu cấp tính là triệu chứng ít phổ biến hơn nhưng nếu bị là
phải điều trị cấp kỳ bằng cách thông bàng quang. Ðàn ông có tiền sử bệnh tiểu khó có thể
phát sinh bí tiểu cấp tính mà không có nguyên nhân rõ ràng, hoặc có thể do một vài thức ăn
hoặc thuốc kích thích nào đó gây ra viêm nhiễm các mô ở vùng tuyến tiền liệt. Rượu, thức
ăn nhiều gia vị, dị ứng và một loại thuốc nào đó có thể làm các mô tuyến tiền liệt sưng lên
làm cho không thể tiểu tiện được và bí tiểu phát sinh. Bác sĩ có thể nhận ra tình trạng tuyến
tiền liệt nở lớn lúc khám trực tràng. Tuy nhiên, tuyến tiến liệt nở lớn nhưng không gây ra
các triệu chứng có khi không cần điều trị, nhưng tuyến tiền liệt nhỏ nhưng nếu gây ra triệu
chứng và bệnh lý thì vẫn phải được điều trị.
Các triệu chứng tương tự như phì đại tuyến tiền liệt cũng có thể do dây thần kinh bị tổn
thương gây nên (ví dụ, tổn thương vì bệnh tiểu đường hoặc tổn thương cột sống) ảnh hưởng
đến việc thực hiện chức năng của bàng quang và niệu đạo. Bí tiểu tạm thời thường phát sinh
sau phẫu thuật vùng khung chậu. Hệ tiết niệu phức tạp và liên quan nhiều hệ khác trong cơ
thể, nên nếu đàn ông khó đi tiểu cần được bác sĩ kiểm tra để loại trừ các nguyên do có thể có
của vấn đề khác trước khi xác định tuyến tiền liệt là nguyên nhân độc nhất.
Một khi tuyến tiền liệt nở lớn gây thành vấn đề, việc điều trị. là cần phẫu thuật cắt bỏ
một phần để làm giảm sức ép trên niệu đạo vì hiện chưa có phương cách hữu hiệu nào ngoài
việc phẫu thuật. Có loại thuốc kích thích giúp làm dịu cơ và có thể đi tiểu được nhưng
chúng cũng chỉ có tính cách tạm thời. Việc phẫu thuật tình trạng tuyến tiền liệt nở lớn nếu
khi bị viêm nhiễm nhiều bộ phận đường tiết niệu, bài niệu nghịch khiến bàng quang và thận
bị ép, bí tiểu tái phát.
Việc phẫu thuật là cách phổ biến nhất để giảm chứng phì đại tuyến tiền liệt, được gọi là
sự cắt đoạn tuyến tiền liệt qua niệu đạo, cần gây mê tổng quát hoặc gây mê cột sống. Trong
thủ thuật cắt qua niệu đạo chỉ loại bỏ mô bên trong tuyến tiền liệt (tương tự như loại bỏ
phần mềm bên trong trái cam). Ðây là thủ thuật mang lại kết quả khả quan, giải quyết việc
khó tiểu tiện.
Các bước thực hiện bao gồm việc soi để khám bàng quang, tuyến tiền liệt và niệu đạo
nong niệu đạo bằng que nong, phẫu thuật bằng ống soi cất đoạn, lấy sạch tất cả các mô cắt
bỏ và làm đông máu.
23082008

4
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Sau phẫu thuật cần nằm lại bệnh viện một thời gian ngắn. Họ có thể xuất viện sau khi lấy
ống thông niệu đạo ra. Sau hai tới bốn tuần là có thể bình phục nhưng cần kiêng giao hợp,
làm việc nặng trong vòng một tháng. Bác sĩ cho dùng kháng sinh chừng mươi ngày sau phẫu
thuật để phòng ngừa nhiễm trùng. Một vài tuần đầu nên uống nhiều nước để rửa sạch bàng
quang và đường tiểu. Tránh dùng rượu trong thời gian ba tuần.
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt mở (qua bụng hay vùng háng) được áp dụng khi tuyến
tiền liệt lớn khác thường hoặc khi có các vấn đề bệnh lý khác. Phương pháp này cần thời
gian bình phục lâu hơn nhưng kết quả thường tốt hơn thủ thuật cắt qua niệu đạo.
Ðàn ông bị các vấn đề về tuyến tiền liệt cần cân nhắc những lợi ích của việc phẫu thuật
để tránh những nguy cơ về sức khỏe và việc thực hiện chức năng tình dục trong tương lai.
Vì chỉ có phương cách ấy giúp tránh phải điều trị quá nhiều.
Mức nguy cơ tử vong trung bình bằng phẫu thuật cắt qua niệu đạo là 4/1000, nhưng do
việc phẫu thuật thường được thực hiện ở người già, có thể có những vấn đề sức khỏe khác.
Ngoài ra, cũng như những phẫu thuật khác, nó còn có những rủi ro khác như sự viêm nhiễm
và chảy máu cũng như những ảnh hưởng do gây mê như hẹp niệu đạo do lỗ niệu đạo bị teo
(6%); không kiềm chế được chứng tiết nước tiểu (l%); bất lực vĩnh viễn (không có khả năng
cương) khoảng 5%, trong đó khoảng 2% bị phẫu thuật gây ra và 3% do yếu tố tâm lý; 40
đến 50% bị chứng xuất tinh nghịch hành (phóng tinh vào bàng quang thay vì ra lối dương
vật), do tổn hại cơ trong tuyến tiền liệt cơ mà chính ra tự động đóng lại khi người đàn ông
bắt đầu phóng tinh. Từ hậu quả đó cũng khiến người đàn ông mất khả năng sinh sản vì
không đưa tinh trùng vào âm đạo được.
Nhiều người sợ rằng sau khi phẫu thuật tuyến tiền liệt sẽ làm cho họ bất lực. Thực ra ảnh
hưởng này chỉ khoảng 2%, một tỉ lệ thấp so với các vấn đề khác như ung thư. Việc xuất tinh
nghịch thường không ảnh hưởng gì khi quan hệ tình dục, mặc dù cảm xúc có thay đổi đôi
chút.
- Viêm tuyến tiền liệt
Có nhiều nguyên nhân gây viêm tuyến tiền liệt. Nhưng không như chứng phì đại tuyến
tiền liệt thường ảnh hưởng đến người lớn tuổi, viêm tuyến tiền liệt thường thấy ở nam giới

trong độ tuổi từ 18 đến 45.
Ðây là tình trạng nhất thời, có thể do việc sinh hoạt tình dục quá mức hoặc đột ngột
ngưng không còn giao hợp gây ra, làm cho tuyến tiền liệt sưng và nhức ở một số người nhạy
cảm, viêm tuyến tiền liệt cũng có thể bị khi uống rượu hoặc ăn thực phẩm có nhiều gia vị.
Viêm tuyến tiền liệt cấp tính là tình trạng viêm xảy ra cùng với các chứng bệnh như sốt và
thường do vi khuẩn hoặc các sinh vật khác gây ra. Viêm tuyến tiền liệt mãn tính là tình trạng
viêm ở mức độ thấp, tiếp diễn qua thời gian dài. Nó có thể khó hoặc không chữa trị được.
Thường chưa xác định được nguyên nhân.
Viêm tuyến tiền liệt là một tình trạng thông thường mà phần lớn nam giới có thể bị, tuy
không phải là một vấn đề nghiêm trọng nhưng có thể gây nên nhiều bất tiện và khó chịu
hoặc có thể ngăn trở khả năng sinh hoạt tình dục. Viêm tuyến tiền liệt mãn tính có thể làm
tiêu hao sức khỏe tổng quát, năng lực. Viêm tuyến tiền liệt cấp tính có thể nguy hiểm nếu
không chữa trị và để gây thành áp xe ở tuyến tiền liệt, khi áp xe bể sẽ gây nhiễm nặng vùng
khung chậu.
Viêm tuyến tiền liệt còn có thể là một dấu hiệu của nhiều vấn đề khác, từ việc viêm
nhiễm bình thường cho đến các bệnh lây qua đường tình dục.
Triệu chứng chủ yếu là đau nhức và sưng. Vì tuyến tiền liệt được định vị sâu trong khung
chậu, đàn ông không cảm nhận trực tiếp được viêm nhiễm nhưng có thể cảm thấy bị ép ở niệu
đạo, làm cho thường mót đi tiểu nhưng khi tiểu lại bị đau. Nói chung nó có thể làm đau và
23082008
5
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
nhức ở vùng khung chậu hoặc vùng háng, lan tới dương vật, đau khi phóng tinh và mất hứng
thú khi giao hợp. Lúc này, niệu đạo cũng có thể tiết dịch. Ðau lưng cũng là triệu chứng của
tình trạng viêm này. Khi khám trực tràng, bác sĩ thấy tuyến này bị nóng, sưng, kết cấu tuyến
mềm, có khi còn thấy lổn nhổn, người bệnh cảm thấy đau khi bác sĩ sờ vào cổ khi người bệnh
còn bị sốt, nóng lạnh. Nếu còn bị viêm niệu đạo bàng quang hoặc thận, nước tiểu bị đục màu
khác thường và có mùi hôi. Các triệu chứng của tình trạng viêm tuyến tiền liệt mãn tính có
thể nhẹ hơn, nhưng niệu đạo vẫn có thể tiết dịch.
Muốn chẩn đoán phải căn cứ vào các xét nghiệm cấy nước tiểu, chất dịch tuyến tiền liệt và

máu để tìm ra sinh vật gây viêm nhiễm. Nếu không thấy các sinh vật hay vi khuẩn, lúc ấy sự
viêm nhiễm có thể do vi rút.
Việc điều trị tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Việc khám và điều trị viêm tuyến tiền
liệt là điều hệ trọng, vì nếu bỏ qua không điều trị, nó có thể trở nên mãn tính, gây nhiều rắc
rối trong tương lai.
Nếu viêm nhiễm vì sinh hoạt tình dục quá mức, nó sẽ hết sau một thời gian nghỉ ngơi
không giao hợp. Viêm nhiễm do thiếu hoặc không thường sinh hoạt tình dục có thể làm cho
tuyến tích dịch do cơ thể sản sinh lượng tinh dịch tự nhiên. Tình trạng tích dịch thường gây ra
tình trạng xuất tinh vào ban đêm, được gọi là mộng tinh.
Nếu viêm là do dùng rượu hoặc do chế độ ăn uống, lúc ấy cần tránh sử dụng những chất này
là có thể khỏi.
Còn nếu do sinh vật, điều trị bằng các loại kháng sinh sẽ có kết quả. Viêm tuyến tiền liệt
mãn tính thường khó điều trị vì nguyên nhân viêm không biết. Có thể thử khuyên người bệnh
năng sinh hoạt tình dục hoặc tìm cách xuất tinh (thủ dâm) để làm sạch tuyến. Và nếu do
bệnh lây qua đường tình dục, bác sĩ sẽ chỉ định dùng kháng sinh, và khi giao hợp phải mang
bao cao su để tránh lây lan. Một số trường hợp (tuy hiếm) phải điều trị bằng phẫu thuật,
thường là thủ thuật cắt qua niệu đạo (như phẫu thuật phì đại tuyến tiền liệt). Có điều, phẫu
thuật không phải lúc nào cũng có thể cắt bỏ hết các mô viêm nhiễm, vì thế bệnh có thể tái
phát sau đó. Hơn nữa, phẫu thuật này có thể làm cho người bệnh mất khả năng kiềm giữ nước
tiểu, có khi còn bị vô sinh. Viêm tuyến tiền liệt chắc chắn ảnh hưởng tới việc sinh hoạt tình
dục của nam giới vì nó gây đau khi xuất tinh, đau hoặc khó chịu vùng xương chậu làm mất
hứng thú khi quan hệ tình dục. Có điều, tất cả những viêm nhiễm này đều nhất thời, có thể
chữa khỏi được.
- Ung thư tuyến tiền liệt
Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh rất hiếm ở thiếu niên và đàn ông trẻ, nhưng lại rất thường
xảy ra ở người lớn tuổi. Các cuộc mổ, khám tử thi đàn ông chết vì nhiều nguyên nhân khác
nhau cho thấy khoảng 30% đàn ông trên 50 tuổi có một số tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Ðàn
ông càng lớn tuổi khả năng bị ung thư tuyến tiền liệt càng cao hơn, nhất là tuổi ngoài 80, tỉ lệ
có thể lên đến 67 hay 80%. Trong hầu hết các trường hợp các khối u ung thư còn nhỏ và phát
triển chậm, chỉ chiếm một khoảng nhỏ trong tuyến tiền liệt. Chúng không gây ra vấn đề về

sức khỏe, cũng chẳng thấy triệu chứng gì, vì vậy thường không được chẩn đoán hoặc điều trị.
Tuy nhiên, cũng có đến 1% trường hợp, ung thư phát triển mạnh và lan rộng, làm cho bệnh
trầm trọng và có nguy cơ gây tử vong, chiếm khoảng 10% trường hợp chết vì ung thư các loại
nơi nam giới.
Có nhiều loại ung thư tuyến liệt khác nhau mà một số lại hầu như không gây ra vấn đề cho
đến khi đã tiến triển khá xa, khiến người bệnh khi biết mình có bệnh trên 45 tuổi nên đi khám
tuyến tiền liệt hàng năm để phát hiện ung thư sớm.
Người ta chưa biết nguyên nhân gây ra ung thư tuyến tiền liệt, nhưng dường như có nhiều
yếu tố khác nhau có thể làm tăng cơ hội mắc bệnh, như do các yếu tố di truyền; sự mất cân
bằng nội tiết tố, nhất là testosterore; do thức ăn cao chất béo; làm việc trong môi trường hóa
23082008
6
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
chất (sản xuất bình ac-quy, hay làm việc trong các ngành vải sợi, cao su và kỹ nghệ phân
bón); do vài loại vi rút nào đó.
Vì ung thư tuyến tiền liệt có thể gây tử vong, nó được đánh giá là bệnh nghiêm trọng. Có
điều nhiều người chết mà không biết mình chết vì bệnh này.
Như trên đã nói, ung thư tuyến tiền liệt ở các giai đoạn đầu thường không có triệu chứng
gì, trừ khi bệnh đã di căn, gây đau ở những phần này của cơ thể. Ða số được phát hiện qua
việc khám tuyến tiền liệt hoặc trong khi giải phẫu chứng phì đại tuyến tiền liệt.
Việc điều trị tùy thuộc vào các nhân tố như ung thư phát triển và lan tỏa ra sao, tuổi sức
khỏe và thời gian sống, ung thư có đang gây các triệu chứng cần điều trị không, và xem coi
liệu có điều trị khỏi không, vì nếu họ đã quá nhiều tuổi hoặc có các vấn đề khác về sức khỏe,
việc điều trị triệt để chưa hẳn đã có lợi.
Nếu quyết định điều trị, người bệnh sẽ được phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt. Thủ thuật cắt
bỏ tuyến tiền liệt là một phẫu thuật khác với thủ thuật cắt qua niệu đạo dùng trong phẫu thuật
phì đại tuyến tiền liệt và tác dụng phụ cũng khác. Sau khi cắt bỏ hết tuyến tiền liệt, niệu đạo
được nối với đáy bàng quang, chỗ của tuyến tiền liệt. Vì trong thủ thuật này, điều cần thiết là
loại bỏ tất cả mô trong vùng, một vài dây thần kinh quan trọng và cơ nào đó có thể bị mất,
nên có thể làm cho đàn ông bất lực vĩnh viễn. Ngày nay người ta có thể cắt bỏ tận căn tuyến

nhưng vẫn giữ lại các dây thần kinh cần cho sự cương cứng ước khoảng 50% đàn ông duy trì
được khả năng này sau phẫu thuật. Những nhà phê phán phương pháp này cho rằng việc
không cắt bỏ dây thần kinh có thể làm giảm cơ may lành bệnh. Xạ trị sau phẫu thuật thường
được dùng để kháng lại việc ung thư lan rộng. Cũng có vài dạng ung thư tuyến tiền liệt là do
nội tiết tố testosterone mà người ta nhận thấy rằng việc loại bỏ nội tiết tố nam khỏi cơ thể
thường là làm cho bệnh mau hết. Nội tiết tố testosterone này được các tinh hoàn tạo ra và
những phương pháp để loại nó khỏi cơ thể được gọi là sự thiến phẫu thuật và thiến hóa học.
Thiến phẫu thuật là một phương pháp trong đó các tinh hoàn bị lấy ra khỏi bìu. Ðàn ông trở
nên vô sinh sau phương pháp này và có thể cũng bị bất lực vĩnh viễn. Sự sản sinh nội tiết tố
testosterone trong cơ thể đàn ông, cũng có thể bị giảm hoặc loại bỏ sau khi thiến hóa học
bằng cách cung cấp liều estrogen liên tục sẽ ngăn chặn cơ thể đàn ông sản sinh nội tiết tố
testosterone. Cả hai phương pháp thiến này gây ra tình trạng nữ hóa, nghĩa là làm cho đàn ông
có tính chất nữ hơn, như việc phát triển vú (chứng phái nam có vú nữ), làn da của họ mịn hơn.
Ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn cuối không thích ứng với liệu pháp nội tiết tố vừa mô tả,
đôi khi được điều trị bằng những loại thuốc khác Những loại thuốc chống ung thư này hầu hết
còn đang thử nghiệm, nhưng nhiều loại thuốc đã được phát hiện có thể giúp ích và kéo dài sự
sống ở một số trường hợp.
Ung thư tuyến tiền liệt không gây rắc rối cho đa số đàn ông mắc bệnh, thật ra bệnh thường
không gây ra triệu chứng gì và hầu như không được điều trị. Tuy nhiên, nếu họ đã phẫu thuật
cắt bỏ tuyến tiền liệt (thủ thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt triệt căn), họ có thể trở thành bất lực vĩnh
viễn. Nếu họ đã thiến phẫu thuật hoặc hóa học, họ còn mất đi sự ham muốn tình dục.
2. TINH HOÀN
Tinh hoàn là một cơ quan sinh tinh trùng, đồng thời là tuyến nội tiết (tiết ra tiết tố nam
testosteron) làm cho cơ thể phát triển giới tính nam.
- Hình thể ngoài: Có hai tinh hoàn phải và trái nằm trong bìu. Tinh hoàn trung bình có kích
thước dài 4,5cm, rộng 2,5cm, dày 1,5cm, cân nặng khoảng 20g. Tinh hoàn được bao bọc bởi
một lớp vỏ xơ dày, trắng và không đàn hồi gọi là lớp áo trắng.
- Hình thể trong: Tinh hoàn được chia thành 300-400 tiểu thùy ngăn cách nhau bởi các vách
xuất phát từ mặt trong của lớp áo trắng. Mỗi tiểu thùy có từ 2-4 ống sinh tinh xoắn. Tinh trùng
do các ống này sinh ra được đổ vào các ống sinh tinh thẳng, rồi vào lưới tinh hoàn ở phần sau

23082008
7
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
trên của mỗi tinh hoàn. Từ lưới tinh hoàn có 12-15 ống xuất dẫn tinh trùng vào các ống mào
tinh. Ở giữa các ống sinh tinh có những nhóm tế bào kẽ tiết ra hormon testosteron.
Một số bệnh về tính hoàn:
- Viêm tinh hoàn
Thường do biến chứng của quai bị, tuyến nước bọt mang tai ở tuổi vị thành niên bị viêm do
vi rút; sau thời gian ủ bệnh từ 14 - 28 ngày, tuyến nước bọt mang tai bắt đầu sưng.
Biến chứng thường gặp của quai bị là gây viêm tinh hoàn ở con trai hoặc viêm buồng trứng
ở con gái, 3 - 4 ngày sau khi tuyến nước bọt mang tai sưng. Con trai có thể thấy tinh hoàn sưng
đau trong 1 - 2 ngày sau đó giảm và thường không để lại di chứng gì nhưng người trẻ hay
người trưởng thành có thể bị biến chứng viêm tinh hoàn sau quai bị dẫn đến giảm số lượng
tinh trùng.
- Ung thư tinh hoàn
Xảy ra khi các tế bào bất thường của tinh hoàn phân chia và phát triển không thể kiểm
soát. Một số trường hợp, khối u lành có thể tiến triển và trở thành ung thư. Ung thư tinh hoàn
cũng có thể phát triển ở một hay cả 2 bên ở ngừơi trưởng thành hay thanh niên.
Triệu chứng:
- Cục cứng, không đều ở tinh hoàn hay tinh hoàn to ra; có cảm giác nặng nề ở bìu.
- Đau âm ỉ ở bẹn hay bụng dưới; tinh hoàn đau hay khó chịu.
Nguyên nhân đích thực của tinh hoàn còn chưa rõ nhưng có một số yếu tố nguy cơ như:
- Tuổi hay gặp nhất ở độ tuổi từ 15 - 40.
- Tinh hoàn không xuống bìu sau khi sinh ít lâu (yếu tố nguy cơ chủ yếu).
- Lịch sử gia đình có người đã bị bệnh.
- Chủng tộc (người vùng Caucase có nguy cơ bị ung thư tinh hoàn cao hơn 5 lần so với
người Mỹ gốc Phi, gấp đôi so với người Mỹ gốc Á).
Ung thư tinh hoàn là thể ung thư hiếm và có khả năng chữa khỏi cao. Phẫu thuật là
phương pháp điều trị phổ cập nhất, gồm cắt bỏ cả 2 tinh hoàn, có thể lấy cả hạch bạch huyết
trong ổ bụng. Tia xạ dùng các tia có năng lượng cao để tấn công ung thư và hoá liệu pháp để

diệt các tế bào ung thư.
Kết quả điều trị phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của bệnh, nếu ung thư chưa lan tới
hạch bạch huyết thì tỷ lệ khỏi bệnh rất cao, trên 98%. Ngay cả khi đã di căn tới các bộ phận
khác của cơ thể thì hoá liệu pháp cũng có hiệu quả cao, tỷ lệ chữa khỏi trên 90%. Biết tự khám
tinh hoàn là cách phòng ngừa tốt mà mọi nam giới trên 15 tuổi đều cần được hướng dẫn.
- Giãn tĩnh mạch tinh hoàn
Nếu các tĩnh mạch có chức năng đưa máu ra khỏi tinh hoàn bị giãn thì phần bao quanh tinh
hoàn cũng bị sưng to, bệnh này không có nguyên nhân rõ ràng.
Phần sưng to có thể mất khi nằm nhưng đôi khi kèm cảm giác khó chịu, nặng nề nhất là khi
thời tiết nóng hoặc sau khi vận động.
Để giảm bớt sự khó chịu, chỉ cần mặc đồ lót có khả năng nâng đỡ, ôm giữ tinh hoàn, ngoài
ra không cần điều trị gì khác trừ phi xem ra giãn tĩnh mạch có ảnh hưởng đến khả năng sinh
sản.
23082008
8
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Tuy hiếm, có khi cần phải cắt bỏ những tĩnh mạch giãn nhưng kết quả của can thiệp ngoại
khoa này cũng không mấy mỹ mãn.
- Xoắn tinh hoàn
Các tinh hoàn treo tự do trong bìu dựa vào dây dịch hoàn, chứa ống dẫn tinh và sự tiếp tế
máu. Khi một tinh hoàn xoắn vào dây này, sự tiếp tể máu bị cắt và tinh hoàn bị sưng đau:
Tình trạng này được gọi là xoắn tinh hoàn. Nếu tinh hoàn không tự hết xoắn hay không điều
trị ngay, tinh hoàn sẽ bị hủy hoại và mất khả năng tạo ra tinh trùng và nội tiết tố nam. Tình
trạng xoắn thường thấy nhất ở độ tuổi từ 5 đến 20 tuổi, nhưng cũng có khi xảy ra ở trẻ nhỏ
hơn và người lớn. Khuynh hướng phát triển vấn đề này dường như do di truyền và liên quan
đến những gì được gọi là "sự dị dạng quả lắc chuông", đơn giản là cách cấu tạo dây tinh hoàn
và dây dịch hoàn khiến nó dễ bị xoắn. Nếu ai đã bị xoắn một bên thì bên kia cũng có nguy cơ
bị xoắn.
Tình trạng tinh hoàn bị xoắn là tình huống nghiêm trọng vì nó có thể làm mất hoàn toàn
khả năng thực hiện chức năng của một bên hoặc hai bên. Nếu khả năng thực hiện chức năng

cả hai tinh hoàn bị mất, họ sẽ trở nên vô sinh và sẽ cần điều trị nội tiết tố suốt đời, để duy trì
hình dạng nam tính và khả năng tình dục. Tổn hại xảy ra chỉ trong bốn giờ. Nếu được khám
và điều trị trong vòng 12 tiếng sau khi bắt đầu có triệu chứng xoắn, cơ may cứu được tinh
hoàn rất cao. Nhưng nếu để chậm trễ sau 24 tiếng thì hầu như không thể cứu được.
Các triệu chứng xoắn tinh hoàn đột ngột là thấy tinh hoàn sưng và đau dữ dội ở một bên
bìu, đặc biệt nam thiếu niên ở tuổi dậy thì. Ðau ở bụng dưới, buồn nôn và ói mửa cũng có thể
xảy ra. Vấn đề chính khi chẩn đoán tình trạng xoắn là phải phân biệt nó với tình trạng viêm
mào tinh hoàn, bằng cách xem máu có bị ngăn lại không. Vài xét nghiệm máu chảy đến tinh
hoàn được dùng để chẩn đoán bệnh, như việc dùng ống nghe đặc biệt (ống nghe Doppler) với
siêu âm và "nội soi cắt lớp hạt nhân", bao gồm việc chích một liều chất phóng xạ cực nhỏ vào
dòng máu để máu chảy vào vùng bìu trong khi quan sát bằng máy soi cắt lớp.
Nếu tình trạng xoắn không được điều trị, tinh hoàn sẽ hết sức đau, sưng, có khi bằng trái
bưởi chùm. Sau đó chỗ sưng sẽ giảm dần và cuối cùng teo lại bằng hạt đậu.
Xoắn tinh hoàn có thể điều trị thành công trên 90% trường hợp nếu được điều trị đúng
trong vài giờ sau khi triệu chứng bắt đầu. Trong những giờ đầu tiên sau khi tình trạng xoắn
xảy ra thì bác sĩ có thể làm hết xoắn mà không cần phẫu thuật. Sau khi gây tê, bác sĩ chỉ cần
xoay ngược lại chiều xoắn, trả lại tình trạng ban đầu cho tinh hoàn: máu tiếp tục chảy vào tinh
hoàn, và tinh hoàn giảm sưng dần.
Nếu cần phẫu thuật, việc này cũng đơn giản và chỉ mất vài phút là có thể tháo chỗ xoắn,
ổn định bằng mũi khâu để tránh tình trạng xoắn lại. Cuộc tiểu phẫu này chỉ cần vài phút như-
ng thường phải gây mê tổng quát.
Như đã giải thích trước, hầu hết trường hợp xoắn tinh hoàn nếu không điều trị kịp sẽ đưa
tới hậu quả làm mất khả năng thực hiện chức năng của tinh hoàn. Tinh hoàn không còn tạo ra
tinh trùng hoặc nội tiết tố nam. Nếu chỉ có một tinh hoàn bị ảnh hưởng, tinh hoàn còn lại có
thể tạo ra số lượng nội tiết tố nam bình thường. Nhưng họ có thể trở nên vô sinh do sự đáp
ứng miễn dịch tự động được hình thành nơi cơ thể như hậu quả của việc hủy hoại tinh hoàn
kia. Trong các trường hợp này cơ thể tạo ra những tế bào tấn công tinh trùng của họ và tiêu
diệt chúng.
Nếu cả hai tinh hoàn bị xoắn đều bị hủy hoại, thì thực chất là họ bị thiến. Họ bị vô sinh và
cần bổ sung nội tiết tố suốt đời để duy trì nam tính và khả năng tình dục bình thường. Nếu

không bổ sung tiết tố, họ sẽ dần dần mất dần ham muốn về tình dục, mất khả năng cương
cứng, phát triển nữ tính nhiều hơn.
- Tràn dịch tinh hoàn, dãn tĩnh mạch tinh, và u tinh dịch
23082008
9
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Ba tình huống làm ảnh hưởng bìu là tràn dịch tinh hoàn, dãn tĩnh mạch tinh, và u tinh dịch
thường hoàn toàn vô hại và không cần phải điều trị. Tràn dịch tinh hoàn là tình trạng tích dịch
cao trong túi bao quanh tinh hoàn. Dãn tĩnh mạch tinh là tình trạng tĩnh mạch phình to (căng
dàn tĩnh mạch) lồi ra bên trong bìu, thường ngay phía sau và trên các tinh hoàn. Ước chừng
10% đàn ông tuổi từ 15 đến 25 mắc chứng này. U tinh dịch là tình trạng có u nang nhỏ đầy
tinh dịch, thường nằm ngay trên các tinh hoàn.
Tràn dịch tinh hoàn thường không thành vấn đề trừ khi bìu bị phồng lớn và nặng do chất
dịch quá nhiề u làm khó chịu hoặc khó coi. Chất dịch này có thể dùng kim hút đi định kỳ hoặc
tiểu phẫu để chữa hoàn chỉnh.
Dãn tĩnh mạch tinh không đe dọa sức khỏe và thường không có triệu chứng nhưng đó là
nguyên nhân chủ yếu gây vô sinh. Sự hiện các mạch máu dãn ở bìu có thể tăng nhiệt độ, đủ
để làm chậm quá trình tạo tinh trùng và dẫn đến vô sinh. Một khi đã thành vấn đề, có thể tiểu
phẫu để chữa hết và cứu vãn được tình hình vô sinh (trên 50%). Ðể kiểm tra tình trạng vô sinh
có thể dùng phương pháp đếm tinh trùng. Một vài bác sĩ có ý kiến nên phẫu thuật tất cả các
trường hợp bị dán tĩnh mạch tinh càng sớm càng tốt nhằm tránh bị vô sinh.
U tinh dịch cũng không gây ra những vấn đề về sức khỏe và không cần điều trị trừ khi nó
gây khó chịu, lúc ấy có thể tiểu phẫu để cắt bỏ.
Các triệu chứng về tràn tinh dịch tinh hoàn là bìu lớn ra, có thể như thấy một trong hai
tinh hoàn lớn hơn bình thường do chúng bị bao quanh bởi quá nhiều chất dịch. Túi dịch có thể
mềm hay cứng, nhưng không đau hoặc rát. Dùng đèn chiếu sáng đặt bên dưới bìu sẽ nhìn rõ
túi dịch và lấy kim hút chất dịch mà vàng trong ra.
Các triệu chứng về dãn tĩnh mạch là thấy các nốt mạch máu cứng lổn nhổn ở bìu, trên hai
tinh hoàn, thường là bên trái nhiều hơn bên phải (giống như một túi sán). Các nốt này càng
lớn và cứng hơn nếu bị căng thẳng hoặc đứng lâu và mềm trở lại nếu nằm nghỉ. Có thể thấy

đau khi đụng vào nó. Trong những trường hợp hiếm, nếu khối u này phát triển quá lớn, nó có
thể gây sức ép vào các mạch máu khác cung cấp máu cho các tinh hoàn.
Các triệu chứng về u tinh dịch thường là một u nang nhỏ không đau nằm trên tinh hoàn
nên ít ai để ý, thường chỉ phát hiện ra lúc kiểm tra sức khỏe. Thực ra nang này thường không
gây bất cứ vấn đề gì và không cần chữa trị trừ khi gây ra những khó chịu.
Nếu cần điều trị, tất cả các trường hợp này chỉ cần tiểu phẫu là có thể chữa khỏi.
Dãn tĩnh mạch tinh là nguyên nhân chủ yếu khiến đàn ông bị vô sinh nhưng có điều
chứng này có thể chữa trị dễ dàng. Không chứng nào trong ba chứng này ảnh hưởng sự ham
muốn hay khả năng sinh hoạt tình dục.
- Bệnh tinh hoàn ẩn ở trẻ
Tinh hoàn ẩn là sự bất thường khi tinh hoàn không nằm trong bìu mà còn nằm lại trên
đường di chuyển như trong thời kì phôi thai. Đây là một bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh và dứơi
6 tuổi. Có thể gặp tinh hoàn ẩn cả 2 bên nhưng có khi chỉ một bên và thường gặp ở bên phải.
Khái niệm bệnh
Tinh hoàn ẩn khác với tinh hoàn lạc chỗ. Khái niệm tinh hoàn lạc chỗ có nghĩa rộng hơn,
tinh hoàn lạc chỗ ngoài bìu có thể nằm bất cứ chỗ nào như ở mu, nếp bẹn, cung đùi, tầng sinh
môn do trong khi di chuyển đã bị kéo lệch ra khỏi đường đi bình thường. Tinh hoàn ẩn được
xác định nằm trên đường di chuyển như trong thời kỳ phôi thai, có thể ở trong ổ bụng, ống
bẹn, lỗ bẹn, trên bìu...
Trong quá trình phôi thai ở tuần lễ thứ 7 đã có sự biệt hóa thành tinh hoàn và được treo
vào thành sau của bụng bởi mạc treo niệu sinh dục và cực dưới của tinh hoàn được gắn với
23082008
10
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
dây kéo của tinh hoàn, tinh hoàn di chuyển từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 8 thì xuống hết bìu.
Vì một lý do gì đó tinh hoàn không di chuyển hết xuống bìu sau khi sanh thì gọi là tinh hoàn
ẩn.
Nguyên nhân của bệnh còn chưa được rõ, có một vài giả thuyết được nêu ra như do dị
dạng giải phẫu, loạn sản tinh hoàn, thiếu hocmon kích thích tố...
Những tổn thương tại tinh hoàn ẩn có thể gặp: số lượng nguyên tinh bào giảm và chậm

trưởng thành, đường kính các ống sinh tinh giảm, xơ hóa xung quanh ống..
Điều cần lưu ý là người bị tinh hoàn ẩn có thể mắc các dị dạng khác, nhất là đối với thể
ẩn cả 2 bên có thể gặp những rối loạn bệnh lý nhiễm sắc thể giới tính, tật ái nam ái nữ hoặc
kèm theo dị dạng ở đường tiết niệu như tật lỗ đái thấp, suy tuyến sinh dục...
Biến chứng của tinh hoàn ẩn: có thể gây ra vô sinh do sự thoái hóa của tinh hoàn, loạn sản
gây ung thư hóa ở tinh hoàn ẩn rất cao so với tinh hoàn binh thường. Ngoài ra cũng có thể gặp
các biến chứng xoắn vặn tinh hoàn, chấn thương vỡ tinh hoàn ẩn... Vì vậy việc phát hiện sớm
và điều trị bệnh tinh hoàn ẩn ở trẻ nhỏ là rất quan trọng.
Thăm khám và chẩn đoán
Thường các bà mẹ có thể phát hiện tình trạng bệnh ở trẻ thông qua sờ nắn ở cả 2 bên để so
sánh. Song việc chẩn đoán cần phải xác định được tinh hoàn ẩn ở một bên hay hai bên, có còn
sờ thấy không thì phải nhờ các nhà chuyên môn. Một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh và
xét nghiệm hỗ trợ rất có giá trị hay được sử dụng hiện nay là:
- Siêu âm: là phương pháp phổ biến, đơn giản và vô hại, cho phép phát hiện dễ dàng vị trí,
kích thước của tinh hoàn.
- Chụp cắt lớp điện toán (CT Scan) cho phép phát hiện tinh hoàn ẩn ở bất cứ vị trí nào trên
đường di chuyển cùng kích thước, mật độ, sự bất thường hay nghi ngờ thoái hóa ác tính.
- Ngoài ra có thể thử nghiệm test sinh hóa HCG, Testosteron, xét nghiệm nhiễm sắc thể…
Điều trị
Có 2 phương pháp chính là:
- Điều trị nội khoa bằng nội tiết tố HCG có tác dụng kích thích tinh hoàn phát triển và di
chuyển. Một số thống kê cho thấy kết quả điều trị bằng nội tiết có 45% tinh hoàn ẩn ở ống bẹn
xuống được bìu và 20% tinh hoàn ẩn từ trong ổ bụng xuống được bìu.
- Điều trị ngoại khoa: được chỉ định khi điều trị nội tiết thất bại và các chuyên gia khuyên
nên mổ trước 2 tuổi, mổ để hạ tinh hoàn và cố định tinh hoàn xuống bìu. Nếu tinh hoàn ẩn cả 2
bên thì tùy theo từng trường hợp nhưng thường mổ từng bên cách nhau 6-8 tháng. Khi đã ở
tuổi dậy thì và tinh hoàn teo mất chức năng hoặc nguy cơ thoái hóa cao thì phải cắt bỏ tinh
hoàn teo.
- Điều gì xảy ra nếu một người bị mất tinh hoàn?
Điều này còn tùy thuộc vào thời gian anh ta bị mất. Nếu anh ta bị thiến trước tuổi dậy thì,

trước khi hiệu lực của kích thích tố nam xuất hiện, thì kể như anh ta không có một hoạt động
tình dục nào cả. Hành động giao hợp của con người bất hạnh này sẽ chấm dứt trước khi bắt
đầu. Anh ta sẽ không thể trông chờ một sự phát triển giới tính nào. Dương vật sẽ nhỏ hơn
người bình thường, lông ít, tiếng nói the thé. Hình thể bị biến dạng vì testosterone cũng ảnh
hưởng đến sự phát triển tổng quát của cơ thể. Anh ta sẽ có thân hình cao, gầy, màu da tái nhợt
và tính tình bủn xỉn. Nguyên nhân của cái tính bủn xỉn này người ta còn chưa hiểu được. Ở
Trung Đông cũng như một số nước châu Á trước kia, các hoạn quan vẫn được dùng để canh
giữ hậu cung của các vua chúa. Điều này lại khiến cho họ trở nên bủn xỉn, nhỏ nhặt hơn.
23082008
11
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Cũng có một số trường hợp bị thiến từ lúc nhỏ để duy trì giọng nữ cao. Tục lệ này đặc biệt
phổ biến trong thời Trung cổ và vẫn được duy trì đến cuối thế kỷ 19, mà không một ai thắc
mắc liệu sự hy sinh như vậy có đáng không.
- Nếu tinh hoàn bị mất sau giai đoạn phát triển sinh lý đầy đủ thì sao?
Vấn đề này đã được nghiên cứu một cách cặn kẽ. Nếu tinh hoàn bị phá hủy hoàn toàn
nhưng dương vật lại tương đối lành lặn, một số người không cảm thấy khó chịu lắm vì họ có
thể giao hợp một cách bình thường. Trong một nửa các trường hợp bị mất tinh hoàn, nạn nhân
nhanh chóng biểu lộ những dấu hiệu như lông trên người rụng dần, khả năng sinh hoạt giới
tính biến mất, và dĩ nhiên tình trạng vô sinh là điều không thể tránh khỏi. Việc giao hợp không
thể thực hiện được vì không có sự cương cứng, không có tinh trùng, không có khoái cảm cực
độ, và không có sự xuất tinh. Hoàn toàn không có gì cả. Song song với những biến đổi về thể
xác, những biến đổi về tâm lý cũng xảy ra. Nhưng xét qua các trường hợp đã xảy ra, khó mà
nói được tình trạng suy nhược và thẫn thờ của các nạn nhân là hậu quả của việc thiếu kích
thích tố hay là phản ứng đối với việc hoàn toàn mất khả năng sinh hoạt tình dục.
- Như vậy có phải các tinh hoàn luôn luôn nằm trong âm nang không?
Không. Trước ngày sinh, chúng nằm trong khoang bụng cũng như các bộ phận tương ứng
của chúng ở giống cái, tức buồng trứng. Một thời gian ngắn trước ngày sinh, chúng tụt xuống
âm nang, nơi chúng thường nằm lại. Đôi khi, chúng trở lên những bộ phận di trú, trượt lên
xuống giữa khoang bụng và âm nang.

Nếu tinh hoàn không tụt xuống được, người đàn ông sẽ có cảm giác trống rỗng. Đôi khi, có
thể làm cho chúng đi xuống bằng các kích thích tố (không phải testosterone, mà là một chiết
xuất từ tuyến yên). Nếu không làm như vậy thì phải giải phẫu để kéo chúng xuống và cố định
lại.
Tại sao lại phải kéo tinh hoàn xuống âm nang thay vì để chúng nằm yên trong ổ bụng, nơi
chúng được an toàn hơn?
Đây có vẻ là một ý kiến hay, nhưng rốt cuộc, hình như có lý do khiến chúng cần nằm ở âm
nang, nơi chúng có thể tiếp nhận những làn gió mát. Nhiệt độ cơ thể là nóng quá đối với việc
sản xuất tinh trùng. Nếu nhiệt độ tăng, sự tạo thành tinh trùng có xu hướng giảm, và khả năng
sinh sản lại càng giảm mạnh. Nhiệt độ ở âm nang thấp hơn nhiệt độ cơ thể từ 1,66 đến 2,22 độ
C. Ở nhiệt độ này, các cơ quan sinh dục hoạt động tốt hơn. Một số bộ lạc nguyên thủy lợi
dụng tri thức này (không ai biết họ học từ đâu) đã khuyến khích đàn ông trong bộ lạc ngâm
tinh hoàn trong nước nóng nhiều ngày trước khi giao hợp để tránh thai. Mặc dù có vẻ khó coi
nhưng cách này lại rẻ tiền, an toàn hơn, và có hiệu quả trong một mức độ nào đó.
Ngoài ra, nếu tinh hoàn nằm trong khoang bụng, chúng sẽ dễ bị ung thư hơn.
- Thoát vị bẹn là gì?
Thoát vị là một điểm yếu của thành cơ khiến các mô ruột bên trong phình ra. Thoát vị có
thể phát sinh ở nhiều bộ phận của cơ thể. Sự thoát vị bẹn được định vị ở háng. Ðó là chỗ hở
trong các cơ nâng đỡ đáy bụng, qua đó mô ruột có thể sa xuống. Mọi đàn ông đều có hai chỗ
hở trong những cơ này, nơi dây tinh nối tinh hoàn với niệu đạo đi ngang qua. Ðó là chỗ để
tinh hoàn đi từ bụng xuống bìu. ở một số thiếu niên hoặc đàn ông, các chỗ hở này có thể rộng
hơn khiến các mô ruột đi qua tạo nên chỗ mô phình ra nơi háng hoặc trong bìu. Trong những
trường hợp khác, những chỗ hở này dãn hoặc rộng ra do khiêng nhấc những đồ vật nặng hoặc
mắc chứng táo bón làm căng cơ mạn tính.
Nói chung, đàn ông thường chỉ thoái vị một bên, hiếm khi bị cả hai bên, tình huống đó gọi
là thoát vị đôi. Ðây là tình trạng thường gặp ở nam giới cần phải phẫu thuật để chữa trị.
23082008
12
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Thoát vị bẹn là một vấn đề sức khỏe có thể gây nên nhiều khó chịu. Có điều ít người quan

tâm, cứ để mặc không chịu chữa trị, vì thường nó không gây ra các vấn đề nghiêm trọng, và
vì nó thường phát triển chậm không gây ra các triệu chứng, trừ khi mô ruột bị cơ thắt chặt
(thoát vị bẹn bị thắt chặt). Trong trường hợp này sẽ cản trở việc cung cấp máu cho mô bị mắc
kẹt, cần phẫu thuật khẩn cấp để tránh các vấn đề có thể gây tai họa.
Việc điều trị chỉ bằng cách phẫu thuật để sửa các khuyết tật ở các cơ vùng bụng, có thể
gây mê tổng quát hay gây mê cột sống. Bác sĩ rạch một đường ở vùng háng để đưa bất cứ mô
ruột nào ở ngoài bụng trở về ổ bụng và khâu lại. Việc bình phục sau phẫu thuật thường nhanh.
Việc đeo đai nâng đỡ chỉ giải quyết tạm thời chứ không chữa khỏi tình trạng thoát vị. Thoát
vị có thể tái lại sau khi điều trị bằng phẫu thuật nhưng điều này rất hiếm thấy.
3. MÀO TINH HOÀN
Mào tinh hoàn uốn cong hình chữ C nằm dọc theo đầu trên và bờ sau tinh hoàn. Mào tinh
hoàn có ba phần là đầu, thân và đuôi.
Mào tinh hoàn gồm ống xoắn nằm trên mỗi tinh hoàn, có chức năng vận chuyển, lưu giữ và
giúp cho các tế bào tinh trưởng thành. Mào tinh kết nối tinh hoàn với ống dẫn tinh (vas
deferens)…
Một số bệnh thường gặp:
- Viêm mào tinh hoàn
Nguyên nhân gây viêm mào tinh hoàn thường do nhiễm khuẩn hay bệnh lây truyền qua
đường tình dục do chlamydia.
Triệu chứng: vùng bìu sưng đau. Trường hợp nặng, nhiễm khuẩn lan đến vùng lân cận của
tinh hoàn gây sốt và có thể tạo thành túi mủ (áp xe). Điều trị bằng kháng sinh, nghỉ ngơi,
chườm đá để giảm sưng nề, dùng thiết bị nâng đỡ bìu, thuốc chống viêm như ibuprofen.
Dùng bao cao su trong quan hệ tình dục có thể giúp phòng ngừa viêm mào tinh hoàn do
chlamydia. Nếu không được điều trị, viêm mào tinh hoàn có thể gây ra sẹo mô làm nghẽn tắc
đường tinh trùng ra khỏi tinh hoàn, vì thế dẫn đến vô sinh, nhất là khi dính líu đến cả 2 tinh
hoàn hay nhiễm khuẩn dễ tái diễn.
- Nang ở mào tinh hoàn
Mào tinh hoàn nằm phía sau tinh hoàn, nơi tinh trùng trưởng thành dần, khi phát triển thành
nang thì sưng do ứ nước, cũng có thể gây sốt và xuất tiết ở dương vật.
4. ỐNG DẪN TINH

Ống dẫn tinh đi từ duôi mào tinh hoàn đến mặt sau bàng quang thì kết hợp với ống tiết của
túi tinh để tạo thành ống phóng tinh. Nó dài khoảng 30 cm, đường kính 2-3 mm nhưng lòng
ống chỉ rộng khoảng 0,5 mm.
5. TÚI TINH
Túi tinh, hay tuyến tinh, là một tuyến sản xuất khoảng 60% thể tích tinh dịch. Nó dài
khoảng 5 cm, nằm ở mặt sau bàng quang, dọc bờ dưới của ống dẫn tinh. Đầu dưới của túi tinh
mở vào một ống bài xuất ngắn gọi là ống tiết. Ống này kết hợp với ống dẫn tinh cùng bên tạo
thành ống phóng tinh.
6. ỐNG PHÓNG TINH
23082008
13
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Mỗi ống phóng tinh 2 cm, do ống tinh và ống tiết của túi tinh kết hợp lại tạo thành. Hai ống
chạy chếch qua tuyến tiện liệt và đổ vào niệu đạo tiền liệt. Ống mào tinh, ống dẫn tinh, ống
phóng tinh và niệu đạo nam hợp thành đường dẫn tinh.
7. TUYẾN HÀNH NIỆU ĐẠO
Có hai tuyến hành niệu đạo nằm ở hai bên niệu đạo màng. Mỗi tuyến to bằng hạt ngô và đổ
dịch tiết vào niệu đạo hành xốp bằng một ống tiết. Dịch tiết của tuyến là một chất kiềm có tác
dụng trung hòa dịch acid của nước tiểu trong niệu đạo, qua đó bảo vệ cho tinh trùng. Tuyến
cũng tiết ra niêm dịch để bôi trơn đầu dương vật và niêm mạc niệu đạo.
8.BÌU
Bìu là một túi da rất sẫm màu do các lớp của thành bụng trĩu xuống tạo thành. Nó được
chia thành hai lớp ngăn, mỗi ngăn chứa một tinh hoàn và một mào tinh. Trong bìu có lớp có
Dartos được tạo nên bởi sợi cơ trơn, sợi đàn hồi và sợi liên kết, tương tự như một cơ bám da.
9. DƯƠNG VẬT
Cấu tạo bên ngoài
Dương vật được cấu tạo giống như một đường ống hình trụ xốp và mềm, gắn liền với bụng
dưới, treo ngay dưới mu. Dương vật có phần rễ, phần thân và phần đầu: rễ dương vật nằm đáy
chậu và dính vào xương mu bởi dây chằng treo dương vật. Phần thân giống như một đường
ống. Phần đầu là phần đỉnh chóp và hơi lớn hơn phần thân, phần đầu của dương vật được bao

bằng một nếp gấp bằng da nhỏ và mỏng nửa niêm mạc gọi là bao quy đầu. Treo phía dưới
dương vật là bìu. Bìu giống như một cái túi da xẫm màu (do nhiều sắc tố da) có nhiều nếp
nhăn đựng hai tinh hoàn (hòn dái) nơi tinh dịch được sinh ra khi ở tuổi dậy thì. Khi còn nhỏ,
bìu nép sát vào cơ thể, đến tuổi dậy thì, bìu bắt đầu lỏng dần và trĩu xuống. Nó trĩu xuống như
vậy là vì các tinh hoàn cần phải được bảo quản ở một nhiệt độ thấp hơn so với nhiệt độ của cơ
thể để sản xuất tinh trùng (khoảng 33°C). Sau khi được sản xuất, tinh trùng được dự trữ trong
một phần của tinh hoàn gọi là mào tinh hoàn. Cũng giống như một phần của lông mu, gốc
dương vật và một phần của thân dương vật được phủ một lớp lông (xuất hiện ở tuổi dậy thì) để
giữ pheromone. Lông có thể mọc dài xuống bìu.
Qui đầu
Qui đầu là đầu nhạy cảm và cương cứng được của dương vật. Qui đầu được bao bọc toàn
phần hay bán phần bởi da quy đầu. Qui đầu bị phơi bày hoàn toàn khi da qui đầu bị tuột khỏi
nó khi giao hợp hay thủ dâm do dương vật cương cứng và vươn thẳng nở rộng, hay do bị cắt
bì.
Chi tiết giải phẫu
Qui đầu là 1 phần của đầu thể xốp (corpus spongiosum) được nở rộng
và có hình nón cụt. Mặt dưới của quy đầu cũng nằm dựa vào phần đỉnh
tròn của 2 thể hang (corpora cavernosa penis). Ở đỉnh của qui đầu là một lỗ
rãnh dài gọi là lỗ tiểu hay lỗ niệu đạo (tinh dịch cũng được phóng ra ngoài
lỗ này). Vòng nở ngoài của phần đáy của qui đầu gọi là vành quy đầu
(corona glandis), lớp vành ngoài này phủ lấy một đường rãnh tròn gọi là
rãnh qui đầu (the coronal sulcus), dưới rãnh này là cổ dương vật.
Da quy đầu có chức năng bảo vệ và duy trì độ ẩm của lớp niêm mạc của da quy đầu.

23082008
14
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Quy đầu có lớp da quy đầu che phủ Quy đầu không còn lớp da quy đầu che
Nếp hãm qui đầu dương vật
Nếp hãm (thắng) qui đầu dương vật (frenulum preputii penis) là một nếp

mô rất co giãn nằm ở mặt dưới của qui đầu. Nếp mô này nối lớp niêm mạc
mặt dưới (vernal mucosa) của đầu dương vật với da qui đầu. Chức năng của
nếp hãm này là giúp giữ da qui đầu khỏi bị tuột quá xa vị trí của nó và do đó
bảo đảm qui đầu được che chở, (da qui đầu có thể được kéo trở lại để che chở
cho qui đầu).
Nếp hãm của dương vật đôi khi bị cắt bỏ một phần hay toàn phần trong
quá trình cắt bỏ da qui đầu (cắt bì) (do phong tục tôn giáo hay lý do vệ sinh).
Nếp hãm rất nhạy cảm khi bị kích thích, do đó đóng phần quan trọng trong cơ cấu gây
khoái cảm cho cơ quan sinh dục nam. Nếp hãm có thể bị rách khi làm tình hay thủ dâm và có
thể bị chảy máu khá nhiều.
Cấu tạo bên trong
Phần ống trước
Dương vật gồm ba ống hình tròn nằm song
song với nhau, cấu tạo bằng các mô cương,
trong đó có hai ống thể hang và một ống thể
xốp được bao xung quanh bởi ba lớp: lớp cân
sâu (cân Buck), lớp mô dưới da và lớp da.
Thể hang
Thể hang là ống có mô cương gồm nhiều
khoảng trống như hang động, chạy dọc theo
chiều dài và nằm phía trên của dương vật, bao
quanh bởi những lớp cân trắng Buck cách
nhau bằng một màng chắn.
Mô cương là những chỗ phình ra của
động mạch xoắn, bao bọc bằng các sợi cơ trơn co dãn được. Hệ thống mô cương và sợi cơ
trơn này co dãn để có thể bơm, chứa máu.
Thể xốp
Thể xốp là một ống khác chứa bên trong nó là niệu đạo, phần cuối ống nở ra tạo thành đầu
dương vật hay quy đầu.
Hệ thống mạch máu của dương vật

23082008
15
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
Động mạch
Động mạch của dương vật bắt nguồn từ động mạch bụng, có ba nhánh:
• Động mạch lưng nằm ở trên lưng dương vật.
• Động mạch cung cấp máu cho hai thể
hang hay động mạch thể hang.
• Động mạch cung cấp máu cho thể xốp
hay động mạch thể xốp: động mạch thể
hang là một hệ thống mạch máu chằn
chịt, chia ra nhiều nhánh nhỏ, chạy dọc
theo chiều dài dương vật, có hình xoắn
nên gọi là động mạch xoắn. Chính động
mạch này cung cấp máu cho các hang
mạch máu.
Tĩnh mạch
Máu thoát ra từ các hang mạch máu vào các
tính mạch nhỏ rồi từ đó đổ vào tĩnh mạch lớn
hơn (gọi là tĩnh mạch lưng) nằm sâu trong các
thể hang. Từ đó máu chảy về qua tĩnh mạch lưng nằm gần ngoài da và đổ vào tính mạch bụng.
- Hệ thống thần kinh của dương vật
Cơ chế cương được kiểm soát bằng một hệ thống thần kinh tự động. Những dây thần kinh
đối giao cảm đi từ xương thiên 2-4 giữ nhiệm vụ chính. Trong khi đó những sợi thần kinh giao
cảm đi từ đốt sống ngực số 1 đến đốt thắt lưng số 2 lại kiểm soát sự phóng tinh và làm xìu
dương vật.
Những sợi thần kinh đối giao cảm nối với vùng thần kinh ở thể hang chạy phía dưới tuyến
tiền liệt và nằm ở gốc dương vật. Các dây thần kinh này rất dễ bị tổn thương khi giải phẫu
vùng chậu.
Hệ thống thần kinh cảm giác và vận động tạo thành một vòng cung đi qua vùng trung tâm

gây cương ở tủy sống.
Phản xạ cương dương vật có thể trực tiếp từ những kích thích ở dương vật, vì vậy đối với
những bệnh nhân khi bị tổn thương hoặc bị cắt phần trên của xương thiên thì sẽ có vấn đề.
Một đường dẫn truyền thần kinh khác từ vỏ não xuống dương vật cũng ảnh hưởng đến
chức năng cương. Đó là đường dẫn của những yếu tố gây cương tâm lý, ví dụ như những kích
thích nhận được từ mắt, tai, mũi (khi nhìn thấy hay tưởng tượng một hình ảnh kích dục, nghe
một chuyện kích dục, hay một xúc cảm, một thay đổi về nội tiết) cũng là nguyên nhân gây
cương, làm liệt hay rối loạn chức năng cương dương vật.
- Quá trình cương cứng của dương vật
Khi có một kích thích hay một ham muốn tình dục (tác động trực tiếp hay gián tiếp) trên
dương vật, đặc biệt ở phần dưới bao quy đầu, thì kích thích này sẽ phát ra một tín hiệu từ não
bộ được chuyển đến trung tâm gây cương ở tủy sống và làm cho nó hoạt động. Sau đó tín hiệu
được gởi tiếp đến mô cương nằm trong hai thể hang qua sự dẫn truyền của các sợi thần kinh
thể hang. Kết quả là:
• Làm dãn nở các động mạch thể hang, các động mạch nhỏ, kể cả động mạch xoắn, do
đó máu sẽ được bơm dồn vào các hang mạch máu.
23082008
16
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
• Các cơ trơn quấn quanh động mạch hang cũng như quấn quanh các hang mạch máu
dãn ra sẽ tạo thành một lực hút làm cho máu đến các hang mạch máu nhiều hơn. Sự
dãn của các cơ trơn này là một yếu tố chính trong việc gây cương hay xìu dương vật.
• Sự dãn nở của các hang mạch máu làm cho một số lượng máu dồn lại càng ngày càng
nhiều hơn do đó làm tăng áp lực trong các hang, các hang này sẽ phình ra và ép lên các
tĩnh mạch vốn có thành mạch máu rất mỏng làm cho nó xẹp xuống, như thế máu sẽ ứ
lại không thoát ra trở về được nên đã gây cương cứng. Đó là cơ chế gây cương do tĩnh
mạch bị chèn ép.
Cương cứng thông thường được dùng để chỉ trạng thái dương vật được kích thích tình dục
và trở nên cứng lại, dựng đứng lên và nở to ra để sẵn sàng cho việc giao hợp. Tuy nhiên,
không chỉ ở phái nam mới có sự cương cứng, phái nữ thể hiện rõ sự cương cứng ở núm vú và

ở âm vật. Sở dĩ dương vật cương cứng lên được là nhờ trung khu thần kinh điều khiển cho
máu dồn xuống, lấp đầy các thể hang trong dương vật. Khi dương vật cương cứng, chiều dài
và thể tích của nó có thể tăng gấp vài lần.
Nếu dương vật bị kích thích một thời gian mà vẫn không thể đạt được trạng thái cương
cứng, thì đó là hiện tượng rối loạn cương dương. Hầu hết các trường hợp này là do vấn đề về
tâm lí, một số do sức khỏe. Phương pháp điều trị chủ yếu là tâm lí, ngoài ra có thể dùng thêm
một số thuốc đặc biệt như Viagra.
- Cơ chế xìu dương vật
Lương máu bị ứ lại trong các hang nếu thoát dần ra được sẽ làm dương vật bớt cứng và xìu
xuống. Hiện tượng này là do hoạt động co thắt cuả hệ thần kinh giao cảm, hệ này được kích
thích sau khi con người đạt được cực khoái và xuất tinh.
Tóm lại chìa khóa của việc cương dương vật là sự dãn nở của các cơ trơn quấn quanh các
mạch máu và các hang mạch máu, được điều khiển bởi hệ thần kinh đối giao cảm. Trong khi
đó dương vật ở trạng thái bình thường tức là không cương thì các cơ trơn này ở trạng thái thái
co thắt dưới tác dụng của adrenergic.
Một số bệnh thường gặp ở dương vật
- Ung thư dương vật
Ðây là dạng ung thư rất hiếm, tỉ lệ chừng 4/1000 trường hợp, với tỉ lệ tử vong thấp hơn
2/1000, và hầu hết liên quan đến quy đầu và bao da quy đầu, nhất là ở đàn ông lớn tuổi. Tuy
chưa biết rõ nguyên nhân, nhưng vấn đề vệ sinh kém và các viêm nhiễm mãn tính có thể là
yếu tố góp phần vào.
Mặc dù ung thư dương vật phát triển chậm nhưng là một bệnh nghiêm trọng và có thể
lan tỏa đến những phần khác của cơ thể, gây tử vong.
Triệu chứng chính của ung thư dương vật là đau rát, chảy máu hay mủ từ dương vật
hoặc khi thấy khối u trên dương vật không mất đi. Khối u này có thể thấy trên da quy đầu.
Cần sinh thiết để phát hiện bệnh.
Việc điều trị có thể bằng hóa trị nếu vết loét hay khối u còn nhỏ. Xạ trị cũng có thể làm
khối u teo lại. Nhưng khi khối u đã lớn, lúc ấy phải phẫu thuật cắt bỏ hoặc điều trị bằng tia
lade để ngăn chặn sự lan tỏa. Sau phẫu thuật, đầu dương vật được đậy lại bằng vạt da thừa và
tạo lỗ tiểu mới. Trong hầu hết trường hợp, người bệnh vẫn đi tiểu bình thường, khả năng

cương cứng, xuất tinh không bị ảnh hưởng; có điều, dương vật của họ sẽ ngắn hơn, sinh hoạt
tình dục sẽ khó khăn hơn.
Một số trường hợp phải cắt bỏ toàn bộ dương vật, phải tạo lỗ tiểu môi ở háng. Nếu bệnh
này lây lan tới hạch bạch huyết của háng hoặc bụng, sau phẫu thuật cần xạ trị.
23082008
17
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
- Chứng cương dương vật
Ðây là một vấn đề sức khỏe bất thường, tình trạng mà dương vật duy trì sự cương suốt
một thời gian dài (hàng giờ hoặc có khi cả ngày) mà không liên quan gì đến ham muốn tình
dục. Nó sẽ gây đau nhức. Người ta cho rằng chứng cương dương vật phát triển do lệch lạc
chức năng tuần hoàn hoặc thần kinh làm cản trở sự rút máu bình thường của dương vật. 60%
trường hợp không rõ nguyên nhân, một số khác có thể do bệnh như ung thư bạch cầu, bệnh
hồng cầu liềm, và các khối u hoặc viêm nhiễm vùng tiểu khung, các tổn thương dương vật,
tủy sống, hay do dược phẩm.
Chứng cương dương vật có thể là một chứng nguy hiểm nếu nó kéo dài quá lâu vì sẽ làm
tổn hại mô bên trong dương vật, đưa đến bất lực. Những trường hợp kéo dài và gây đau nhức
nặng cần được điều trị ngay. Mục đích điều trị nhằm làm dương vật giảm cương càng nhanh
càng tốt và giữ để không tái phát. Trong hầu hết trường hợp đều tiểu phẫu, phối hợp với thuốc,
như thuốc an thần, giảm đau và thục rửa bằng dung dịch nước muối lạnh. Nếu phương pháp
điều trị này không hiệu quả, cần rút máu trong thể hang của dương vật bằng kim hoặc phẫu
thuật
- Chứng nhược dương
Chứng nhược dương có thể chia làm hai loại: Tâm lý và thể lý. Trước đây người ta tin
rằng 90% các trường hợp nhược dương là do tâm lý, nhưng với sự tiến bộ y học hiện nay,
người ta thấy 50% là do tâm lý và 50% khác thuộc thể lý.
Nguyên do thể lý thường thấy ở những người lớn tuổi, với các nguyên nhân nhân tổn
thương hoặc rối loạn hệ thần kinh trung ương, bệnh tiểu đường, uống rượu, rối loạn nội tiết
tố, huyết áp cao, các rối loạn hệ tuần hoàn, sự viêm nhiễm, do phẫu thuật hay tổn thương, và
tác dụng của một số loại thuốc.

Với những tiến bộ vượt bậc về y khoa đã giúp chẩn đoán chính xác và có nhiều phương
cách chữa trị hiệu quả, nhưng vẫn có những trường hợp không rõ nguyên nhân, và nguyên
nhân không do vấn đề thể lý.
Một thử nghiệm đơn giản để xác định xem chứng nhược dương là do tâm lý hoặc có các
vấn đề thể lý là "thử bằng cách dán tem thư". Trong khoảng thời gian ngủ bình thường hàng
đêm, dương vật của đàn ông không bị chứng nhược dương do vấn đề thể lý sẽ cương lên từ
ba đến năm lần (mà họ thường không biết) mỗi lần kéo dài 20 đến 40 phút. Nếu dán một vòng
tem thư quanh dương vật trước khi ngủ, sự cương cứng này (nếu xảy ra) sẽ đủ mạnh để xẻ
những cái tem bị đục lỗ và cái vòng sẽ bong ra. Nếu cương không xảy ra thì vòng tem sẽ còn
dính nguyên. Thử nghiệm có thể cần làm vài đêm liền.
Loại xét nghiệm giống nhau (với dụng cụ tốt hơn) có thể làm ở phòng mạch dưới sự
giám sát của bác sĩ có lẽ chính xác hơn nhiều. Các xét nghiệm khác có thể xác định nguyên
nhân bất lực là kiểm tra huyết áp và mạch đập bên trong dương vật cùng với việc chụp X-
quang động mạch dương vật (tiêm chất nhuộm vào các động mạch cung cấp máu cho dương
vật và kiểm tra bằng nội soi cắt lớp). Cũng có thể kiểm tra bằng phản xạ thể hang hành niệu
quản bằng việc dùng dòng điện nhẹ kích thích dương vật và chụp X-quang thể hang để thấy
máu lưu thông trong vùng cần nghiên cứu.
Ðiều trị bất lực do thể lý tùy thuộc vào nguyên nhân bệnh. Nếu nguyên nhân là do thuốc
kích thích hoặc các chất như rượu thì ngưng sử dụng rượu và loại thuốc ấy sẽ giải quyết được
vấn đề (ngoại trừ như trường hợp nghiện rượu, cơ thể đã bị tổn hại vĩnh viễn). Nếu do dược
phẩm trị bệnh, như cây thuốc trị cao huyết áp, lúc ấy cần thay đổi thuốc hoặc liều lượng.
Nếu do mất cân bằng nội tiết tố phải điều trị bằng liệu pháp nội tiết tố, hoặc cần phẫu
thuật nếu sự mất cân bằng nội tiết tố là do khối u hay sự bất thường của các tuyến sản sinh
nội tiết tố gây ra. Phẫu thuật phục hồi khả năng bằng cách làm mất những ảnh hưởng do tổn
23082008
18
Tìm hiểu giới tính và sức khỏe sinh sản Phần 1 Trịnh Anh Tình
hại hệ tuần hoàn như chứng xơ vừa động mạch mãn tính chưa được thành công lắm, nhưng
nhiều phương pháp mới đang được triển khai.
Hiện nay có một vài loại thuốc như papavirine có thể điều trị tạm thời bằng cách tiêm

vào dương vật mỗi khi muốn cương cứng. Thuốc làm gia tăng lượng máu chảy vào dương vật
giúp dương vật cương cứng. Có điều sử dụng thuốc này làm dương vật cương kéo dài vài giờ
dù đã xuất tinh. Thuốc này chưa được phổ biến rộng, và việc sử dụng nên hạn chế. Phương
pháp điều trị triệt để và hiệu quả hơn (do những khiếm khuyết ở hệ thần kinh, hệ tuần hoàn
hoặc bệnh mãn tính) là cấy mô dương vật.
Một số câu hỏi, bác sỹ trả lời:
- Kích thước dương vật của người Việt Nam lúc "nghỉ" và lúc quan hệ vợ chồng là
khoảng bao nhiêu thì được coi là bình thường ?
Tại đơn vị Nam khoa Bệnh viện Bình Dân, năm ngoái chúng tôi (BS) tiến hành đo đạc cho
trên 100 người ở trạng thái xìu và khi cương. Kết quả cho thấy, chiều dài trung bình của
dương vật khi cương là 11-12 cm. Gọi là nhỏ nếu khi xìu mà nó dưới 4 cm và khi cương
không quá 6 cm. Khi cương mà quá 17 cm thì có thể “đi thi” được rồi.
Số liệu tham khảo về kích thước trung bình của dương vật đàn ông một số nước:
Nước Chiều dài bình thường Khi cương
Pháp 11,94 15,75
Ý 9,91 14,99
Mexico - 14,99
Đức - 14,22
Chi-Lê - 13,97
Colombia 8,89 13,72
Tây Ban Nha - 13,46
Nhật 7,87 12,95
Mỹ 8,64 12,70
Venezuela 9,40 12,70
Arab Saudi - 12,45
Brazil - 12,19
Hy Lạp - 12,19
Ấn Độ - 10,16
Hàn Quốc 6,86 9,40
(Nguồn: SizeGenetics - ClickPress)

- Hỏi: Không biết đàn ông ngoại quốc có khác đàn ông Việt Nam không?
Tôi quen với 1người nước ngoài và anh ta có ý định cưới tôi .Chúng tôi sẽ quan hệ trước hôn
nhân. Mà đối với tôi đây là lần đầu quan hệ nên tôi rất lo lắng . Không biết sao nữa .Không biết
đàn ông ngọai quốc có khác đàn ông Việt Nam không? Tôi chỉ 19 tuổi thôi . Tôi rất lo lắng. Mong
có câu trả lời sớm ?
23082008
19

×