Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Đề tài: Phân tích những vấn đề pháp lý đối với giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế của các thương nhân trước trọng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.62 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

1


A. MỞ ĐẦU
Trong xu thế chung hội nhập kinh tế toàn cầu, các quốc gia trên thế giới
đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện đất nước, thừa nhận nhiều thành
phần kinh tế theo nền kinh tế thị trường. Các quan hệ kinh tế cũng như các
quan hệ thương mại quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện
thuận lợi cho các quốc gia phát triển, tăng cường sự hợp tác cũng như trợ
giúp nước ngoài. Tuy nhiên, quan hệ thương mại quốc tế càng được mở rộng,
khả năng phát sinh tranh chấp càng lớn. Tranh chấp trong thương mại quốc
tế là lĩnh vực rất rộng, phức tạp. Khi xảy ra tranh chấp các bên rất khó thương
lượng giải quyết, đa phần là do cách hiểu không đồng nhất về tập quán và các
điều kiện trong thương mại quốc tế, sự khác nhau về văn hóa kinh doanh mỗi
quốc gia, sự khác biệt về ngôn ngữ,…. Không chỉ doanh nghiệp, mà cả Nhà
nước sẽ phải bước vào những địa hạt pháp lý không quen thuộc. Điều đó cũng
có nghĩa là tranh chấp trong thương mại quốc tế tất yếu nảy sinh và cần phải
có cơ chế giải quyết các tranh chấp đó một cách phù hợp và có hiệu quả. Hiện
có rất nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp nhưng phương pháp giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài đang được xem trọng trên trường quốc tế nhanh chóng, thuận tiện và hiệu quả hơn cả.
Nắm bắt được những vấn đề nêu trên, cũng như mong muốn làm rõ vấn
đề pháp lý của việc giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài,
em xin chọn đề tài: “Phân tích những vấn đề pháp lý đối với giải quyết tranh
chấp trong thương mại quốc tế của các thương nhân trước trọng tài” cho bài
tiểu luận của mình.

2



B. NỘI DUNG
I. Khái quát về tranh chấp thương mại quốc tế
1. Khái niệm
Thương mại quốc tế đã ra đời từ rất sớm và trải qua nhiều quá trình phát
triển khác nhau. Theo quan điểm chung trên thế giới hiện nay, thì thương mại
quốc tế được hiểu là hành vi thương mại của thương nhân vượt ra khỏi phạm vi
biên giới quốc gia, cũng có thể gói gọn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia tuy
nhiên được thực hiện bởi các chủ thể là thương nhân quốc tế hoặc giữa các chủ
thể trong một quốc gia nhưng đối tượng của hợp đồng nằm ở nước ngoài. Theo
góc độ pháp lý, thương mại quốc tế được hiểu là hoạt động thương mại có yếu tố
nước ngoài. Các yếu tố nước ngoài trong thương mại quốc tế được xác định qua
ba dấu hiệu: Chủ thể trong quan hệ thương mại là các bên có quốc tịch khác
nhau hoặc có trụ sở ở các nước khác nhau; Sự kiện làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quan hệ thương mại xảy ra ở nước ngoài; và đối tượng của quan hệ
thương mại ở nước ngoài.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau
như sự khác biệt về ngôn ngữ, pháp luật, tập quán,… và nhất là sự thay đổi về
điều kiện thực hiện hợp đồng nên các tranh chấp phát sinh là điều khó tránh
khỏi. Có thể hiểu, tranh chấp thương mại quốc tế là những bất đồng xảy ra
trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại quốc tế mà chủ yếu là khi
thực hiện các hợp đồng thương mại quốc tế.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
- Thương lượng
- Hòa giải
- Trọng tài thương mại
- Tòa án

3



II. Khái quát về phương thức trọng tài thương mại
1. Khái niệm
Hiện nay, thuật ngữ trọng tài thương mại quốc tế được sử dụng: Thứ nhất,
để biểu thị một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế; Thứ hai, để
biểu thị một tổ chức được thành lập nên để giải quyết các tranh chấp nói trên.
Trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ
quan hệ thương mại quốc tế được các bên thỏa thuận lập ra để giải quyết tranh
chấp.
2. Đặc điểm
- Trọng tài thương mại là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp
phát sinh chủ yếu trong lĩnh vực thương mại;
- Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, mang tính chất
xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng tài;
- Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán. Cụ
thể, thỏa thuận là tiền đề cho phán quyết và không thể có những phán quyết
thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận;
- Tố tụng trọng tài đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt của mình một
cách cao nhất, các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa
điểm giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng,…
- Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm. Về nguyên tắc, trọng tài
không xét xử công khai, do đó, ngoài nguyên đơn và bị đơn, trọng tài cần triệu
tập các đương sự khác khi cần thiết.
3. Phân loại
Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại trọng tài:
Thứ nhất, căn cứ vào số lượng Trọng tài viên, có Trọng tài cá nhân và
Trọng tài tập thể hay còn gọi là Hội đồng Trọng tài (từ 3 thành viên trở lên).
Thứ hai, căn cứ thẩm quyền giải quyết, có Trọng tài có thẩm quyền
chung như Trọng tài La Haye và Trọng tài có thẩm quyền chuyên môn như
Trọng tài về luật biển, Trọng tài của tổ chức thương mại thế giới WTO...
Thứ ba, căn cứ vào tính chất hoạt động, có Trọng tài vụ việc (ad hoc)

và Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế).

4


4. Ưu điểm, nhược điểm


Ưu điểm
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với

việc giải quyết tranh chấp;
Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ có giá trị bắt buộc
đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án hay
kháng cáo. Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi
phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết
định trọng tài là quyết định cuối cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của
Toà án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng
chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài
thì có thể kiện ra Toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật;
Hầu hết pháp luật về trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc
trọng tài xử kín nếu các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội
dung tranh chấp và danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy
trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh
chóng, linh hoạt cho các bên;
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà
án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó.
Trong khi đó, với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục,

thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện
lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho
phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá
trình giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, tiết kiệm thời gian;
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn
phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
5


Thứ năm, duy trì được quan hệ đối tác;
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những
bất đồng trên cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ
nhàng… Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối
hoà khí lâu dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan
hệ hợp tác kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Thứ sáu, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các
chuyên gia;
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên
đương sự. Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự
hiểu biết vững vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực
chuyên ngành có tính chuyên sâu.
Thứ bảy, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ
chức phi chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án.
• Nhược điểm
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định. Hạn chế lớn nhất của trọng tài đó là
trọng tài không đại diện cho quyền lực tư pháp của nhà nước vì vậy có thể gặp
khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp như xác minh, thu thập chứng cứ,

áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời,…
III. Vấn đề pháp lý đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
quốc tế
1. Nguyên tắc giải quyết
1.1. Nguyên tắc thỏa thuận
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng
trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động
thương mại. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa
thuận của các bên. Như vậy, thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận thể hiện ý chí
của các bên, nếu các bên không muốn tranh chấp được trọng tài giải quyết thì
không ai có thể ép buộc họ.
6


1.2. Nguyên tắc trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư khi giải quyết
tranh chấp
Sự độc lập của trọng tài viên thể hiện ở việc trọng tài viên không có lợi
ích trực tiếp hoặc liên quan trong vụ tranh chấp, không chịu sự chi phối của bất
kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Hơn nữa, thoả thuận trọng tài còn hoàn toàn
độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô
hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu lực của thoả thuận
trọng tài.
Sự khách quan được đảm bảo khi trọng tài viên thực hiện đúng vai trò của
người thứ ba phân xử đúng sai dựa trên những chứng cứ, tài liệu, tình tiết của vụ
việc. Nếu có căn cứ cho rằng họ không độc lập, khách quan, vô tư khi thực hiện
nhiệm vụ thì trọng tài viên đó có thể bị thay thế. Thậm chí, khi quyết định trọng
tài có hiệu lực, nếu có căn cứ chứng tỏ trọng tài viên đã vi phạm nguyên tắc này
thì quyết định trọng tài sẽ bị tòa án tuyên hủy.
1.3. Nguyên tắc giữ bí mật nội dung vụ việc tranh chấp
Đây là nghĩa vụ của trọng tài viên khi giải quyết vụ việc vì một trong các

lý do để các bên đương sự lựa chọn trọng tài là tính bí mật của tranh chấp. Do
vậy. Các trọng tài viên không được phép tiết lộ nội dung của tranh chấp khi
không được các bên đồng ý. Ngoài ra, nguyên tắc này còn được thể hiện ở việc
sẽ không có người ngoài được tham dự vào phiên xét xử của trọng tài nếu các
đương sự không cho phép.
1.4. Nguyên tắc chung thẩm
Khi Hội đồng trọng tài công bố quyết định, quyết định đó có hiệu lực
thi hành ngay, các bên không có quyền kháng cáo, cũng như không có tổ chức
nào có quyền kháng nghị. Nguyên tắc này có nguồn gốc từ bản chất của tố
tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền tự định đoạt của các đương sự; hơn
nữa, bản chất của tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp, nếu một bên không tự

7


nguyện thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết.
2. Thỏa thuận trọng tài
2.1. Khái niệm
Thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận của các bên bằng văn bản, trong đó
thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên mong muốn đưa tranh chấp của mình ra
giải quyết tại một trung tâm trọng tài. Theo quy định của pháp luật các nước
cũng như trong các điều ước quốc tế thì thỏa thuận trọng tài có thể được lập vào
thời điểm trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thỏa thuận trọng tài được coi là
không có giá trị pháp lý khi:
Thứ nhất, tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm
quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại.
Thứ hai, người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.

Thứ ba, người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân
sự theo quy định của Bộ luật dân sự.
Thứ tư, hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều 16 của Luật Trọng tài thương mại.
Thứ năm, một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác
lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.
Thứ sáu, thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
Như vậy, giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc vào việc
nó được lập trước hay sau khi có tranh chấp, cũng như nó là một điều khoản của
hợp đồng hay một điều khoản độc lập, mà quan trọng là thỏa thuận đó phải được

8


lập bởi những chủ thể có thẩm quyền, phải là sự thống nhất ý chí của các bên,
phải đáp ứng được các yêu cầu về hình thức và nội dung của thỏa thuận.
Theo Công ước New York năm 1958 thì thỏa thuận trọng tài bắt buộc
phải bằng văn bản. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, các
hiểu đối với thuật ngữ “bằng văn bản” đã được mở rộng, bao gồm các hình thức
khác như Telex, Fax, Email,...
2.2. Nội dung của thỏa thuận trọng tài
Ở mỗi trung tâm trọng tài khác nhau thường có những mẫu về nội dung
thỏa thuận khác nhau, tuy nhiên, các bên có thể tự xác định thỏa thuận và thỏa
thuận đó phải có những nội dung cơ bản sau:
- Phương thức được lựa chọn để giải quyết tranh chấp, tức là các bên lựa
chọn phương thức trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa họ;
- Lựa chọn loại trọng tài: Thường trực hay vụ việc. Nếu các bên lựa
chọn trọng tài thường trực thì cần phải chỉ rõ tên gọi chính xác của cơ quan
trọng tài đó;
- Địa điểm tiến hành giải quyết tranh chấp: Nếu các bên lựa chọn trọng tài

thường trực thì việc xác định địa điểm không bắt buộc, theo đó tranh chấp sẽ
được giải quyết ở địa điểm chính thức của cơ quan trọng tài nếu các trọng tài
viên không xác định địa điểm khác; còn nếu các bên lựa chọn trọng tài vụ việc
thì nên thỏa thuận và chỉ rõ địa điểm giải quyết tranh chấp;
- Ngôn ngữ để giải quyết tranh chấp: Nếu các bên lựa chọn trọng tài
thường trực thì không bắt buộc chỉ rõ ngôn ngữ, trong trường hợp này trọng tài
sẽ giải quyết tranh chấp dựa trên ngôn ngữ của mình.
- Lựa chọn luật áp dụng.
3. Tố tụng trọng tài
3.1. Khởi kiện

9


Theo quy định tại khoản 2 Điều 3 quy chế Uncitral Quy tắc trọng tài
Uncitral 1976 thì “Tố tụng trọng tài sẽ được coi là bắt đầu từ ngày mà Bị đơn
nhận được Thông báo ra Trọng tài này” và theo quy định của pháp luật Việt
Nam thì:
“1. Trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên
không có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ
khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.
2. Trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên
không có thoả thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ
khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn.”
Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện



Đơn khởi kiện của nguyên đơn phải bao gồm các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;

- Tên và địa chỉ của các bên;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp;
- Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn;
- Giá trị vụ tranh chấp;
- Trọng tài viên mà nguyên đơn chọn.
Kèm theo đơn kiện, nguyên đơn phải gửi bản thỏa thuận trọng tài và các
tài liệu chứng cứ khác cho trọng tài.
Sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan, Trung tâm
trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài
liệu khác mà nguyên đơn đã cung cấp.


Bị đơn nộp bản tự bảo vệ

Bản tự bảo vệ của bị đơn bao gồm các nội dung sau:
10


- Ngày, tháng, năm làm bản tự bảo vệ;
- Tên và địa chỉ của bị đơn;
- Cơ sở và chứng cứ tự bảo vệ, nếu có;
- Tên và địa chỉ của người được bị đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ
định Trọng tài viên.
Trường hợp bị đơn cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài, không có thoả thuận trọng tài, thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được thì phải nêu rõ điều đó trong bản tự
bảo vệ. Việc bị đơn không nộp bản tự bảo vệ sẽ không ngăn cản trọng tài tiếp
tục quá trình tố tụng.
Ngoài bản tự bảo vệ, bị đơn có thể nộp đơn kiện lại vền những vấn đề
liên quan đến vụ tranh chấp. Đơn kiện lại phải được nộp cùng thời điểm nộp

bản tự bảo vệ.
3.2. Thành lập Hội đồng trọng tài


Trọng tài thường trực

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng
của Trung tâm trọng tài không quy định khác, việc thành lập Hội đồng trọng tài
được quy định như sau:
Khi nhận được đơn khởi kiện và yêu cầu chọn Trọng tài viên do Trung
tâm trọng tài gửi đến, bị đơn phải chọn Trọng tài viên cho mình và báo cho
Trung tâm trọng tài biết hoặc đề nghị Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định
Trọng tài viên. Nếu bị đơn không chọn Trọng tài viên hoặc không đề nghị Chủ
tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên thì Chủ tịch Trung tâm trọng
tài chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, các bị đơn phải thống nhất
chọn Trọng tài viên hoặc thống nhất yêu cầu chỉ định Trọng tài viên cho mình.

11


Nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên thì Chủ tịch Trung tâm trọng
tài chỉ định Trọng tài viên cho các bị đơn;
Các Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được Chủ tịch Trung tâm
trọng tài chỉ định phải bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng
trọng tài, nếu việc bầu không thực hiện được thì Chủ tịch Trung tâm trọng tài
chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên duy
nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên thì Chủ tịch Trung tâm
trọng tài sẽ chỉ định Trọng tài viên duy nhất.



Thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc
Trường hợp các bên không có thoả thuận khác, việc thành lập Hội đồng

trọng tài vụ việc được quy định như sau:
Khi nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn, bị đơn phải chọn Trọng
tài viên và thông báo cho nguyên đơn biết Trọng tài viên mà mình chọn, nếu bị
đơn không thông báo cho nguyên đơn tên Trọng tài viên mà mình chọn và các
bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì nguyên đơn
có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn.
Trường hợp vụ tranh chấp có nhiều bị đơn, thì các bị đơn phải thống
nhất chọn Trọng tài viên, nếu các bị đơn không chọn được Trọng tài viên và
nếu các bên không có thoả thuận khác về việc chỉ định Trọng tài viên, thì một
hoặc các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên
cho các bị đơn.
Các Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch Hội đồng
trọng tài. Trong trường hợp không bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài và các
bên không có thoả thuận khác thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài.

12


Trong trường hợp các bên thoả thuận vụ tranh chấp do một Trọng tài viên
duy nhất giải quyết nhưng không chọn được Trọng tài viên thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Tòa án có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên duy nhất.
Thay đổi trọng tài viên




Trọng tài viên phải từ chối giải quyết tranh chấp, các bên có quyền yêu
cầu thay đổi Trọng tài viên giải quyết tranh chấp nếu phát hiện những tình tiết
có thể ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của Trọng tài viên.
3.3. Xem xét thỏa thuận trọng tài
Trước khi xem xét nội dung vụ tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải xem
xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài; thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được
hay không và xem xét thẩm quyền của mình. Trong trường hợp vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của mình thì Hội đồng trọng tài tiến hành giải quyết
tranh chấp theo quy định của Luật này. Trường hợp không thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc xác định rõ thỏa thuận
trọng tài không thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài quyết định đình chỉ
việc giải quyết và thông báo ngay cho các bên biết.
Quyết định của Hội đồng trọng tài về việc không có thỏa thuận trọng tài,
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được,
thẩm quyền của Hội đồng trọng tài có thể bị khiếu nại.
3.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp


Chuẩn bị phiên họp giải quyết tranh chấp

Trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài không có quy định khác, thời gian và địa điểm mở phiên
họp do Hội đồng trọng tài quyết định.
Trường hợp các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài không có quy định khác, giấy triệu tập tham dự phiên họp
phải được gửi cho các bên trong thời hạn quy định.
13





Thành phần, thủ tục giải quyết tranh chấp

Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ
trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền
cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời
người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hội đồng
Trọng tài tự mình hoặc theo yêu cầu của một bên, có quyền mời tổ chức, cá
nhân giám định, định giá tài sản và chuyên gia tham dự phiên họp giải quyết vụ
tranh chấp. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có
thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp.
Tại phiên họp giải quyết vụ tranh chấp, nếu thấy rằng các bên không còn
bất kỳ tài liệu hoặc chứng cứ có liên quan nào để cung cấp, Hội đồng Trọng tài
tuyên bố phiên họp giải quyết vụ tranh chấp này là phiên họp cuối cùng giải
quyết vụ tranh chấp. Sau khi kết thúc phiên họp cuối cùng giải quyết vụ tranh
chấp, Hội đồng Trọng tài không có nghĩa vụ xem xét bất kỳ tài liệu hoặc chứng
cứ bổ sung nào.


Việc vắng mặt của các bên

Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết vụ
tranh chấp nhưng vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp
giải quyết vụ tranh chấp mà không được Hội đồng Trọng tài chấp thuận thì bị
coi là đã rút đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, Hội đồng Trọng tài chỉ tiếp
tục giải quyết vụ tranh chấp khi Bị đơn có yêu cầu hoặc có đơn kiện lại.
Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh
chấp nhưng vắng mặt mà không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp mà không được Hội đồng Trọng tài chấp thuận thì Hội

đồng Trọng tài vẫn tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu chứng
cứ hiện có.
Trong trường hợp có đơn kiện lại, nếu bị đơn đã được triệu tập hợp lệ
tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp nhưng vắng mặt mà không có lý do
chính đáng hoặc rời phiên họp giải quyết vụ tranh chấp mà không được Hội
14


đồng Trọng tài chấp thuận thì bị coi là đã rút đơn kiện lại. Trong trường hợp
này, Hội đồng Trọng tài chỉ tiếp tục giải quyết đơn kiện lại khi nguyên đơn có
yêu cầu.
Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng Trọng tài có thể căn cứ vào tài liệu
và chứng cứ hiện có để tiến hành phiên họp giải quyết vụ tranh chấp mà không
cần sự có mặt của các bên. Hội đồng Trọng tài có thể tiến hành phiên họp giải
quyết vụ tranh chấp khi có yêu cầu vắng mặt của một bên.


Hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp

Trường hợp có lý do chính đáng, một bên hoặc các bên có thể yêu cầu
Hội đồng Trọng tài hoãn phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. Yêu cầu hoãn
phiên họp giải quyết vụ tranh chấp phải bằng văn bản, nêu rõ lý do, kèm theo
chứng cứ và gửi tới Trung tâm. Trong trường hợp Trung tâm không nhận được
yêu cầu hoãn trước ngày mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp chậm nhất là
07 ngày làm việc thì bên yêu cầu hoãn phải chịu mọi chi phí phát sinh, nếu có.
Hội đồng Trọng tài quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu hoãn,
thời hạn hoãn và thông báo cho các bên.
Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng Trọng tài có thể hoãn phiên họp
giải quyết vụ tranh chấp và thông báo cho các bên



Hòa giải, công nhận hòa giải thành

Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng Trọng tài tiến hành hòa giải. Biên
bản hòa giải thành phải được lập trong trường hợp hòa giải thành. Biên bản hòa
giải thành phải có chữ ký của các bên và chữ ký của các Trọng tài viên hoặc
Trọng tài viên duy nhất. Trong trường hợp này, Hội đồng Trọng tài ra quyết
định công nhận hòa giải thành. Quyết định công nhận hòa giải thành của Hội
đồng Trọng tài có hiệu lực như Phán quyết trọng tài.


Đình chỉ giải quyết tranh chấp

Vụ tranh chấp được đình chỉ giải quyết trong các trường hợp sau đây:
15


- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không
được thừa kế;
- Nguyên đơn hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt động, bị phá
sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức
mà không có cơ quan, tổ chức nào tiếp nhận quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ
chức đó;
- Nguyên đơn rút đơn khởi kiện hoặc được coi là đã rút đơn khởi kiện, trừ
trường hợp bị đơn yêu cầu tiếp tục giải quyết tranh chấp;
- Các bên thoả thuận chấm dứt việc giải quyết tranh chấp;
- Tòa án đã quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng
trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được.
Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp. Trường

hợp Hội đồng trọng tài chưa được thành lập thì Chủ tịch Trung tâm trọng tài ra
quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp.
Khi có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp, các bên không có quyền
khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết lại vụ tranh chấp đó nếu việc khởi kiện vụ
tranh chấp sau không có gì khác với vụ tranh chấp trước về nguyên đơn, bị đơn
và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ các trường hợp khác theo quy định của
pháp luật.
3.5. Phán quyết trọng tài
Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo
nguyên tắc đa số. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết
trọng tài được lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài.
Khi có Trọng tài viên không ký tên vào phán quyết trọng tài, Chủ tịch
Hội đồng trọng tài phải ghi việc này trong phán quyết trọng tài và nêu rõ lý do.
Trong trường hợp này, phán quyết trọng tài vẫn có hiệu lực.
Phán quyết trọng tài phải được gửi cho các bên ngay sau ngày ban hành.
Các bên có quyền yêu cầu Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài vụ việc
cấp bản sao phán quyết trọng tài.
16


Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành.
Phán quyết này có thể bị sửa chữa nếu phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, số
liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai và bổ sung đối với những yêu cầu được
trình bày trong quá trình tố tụng nhưng không được ghi trong phán quyết.
3.6. Thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên. Tuy nhiên,
trong trường hợp một bên không tự nguyện thực hiện thì việc thi hành quyết
định của trọng tài sẽ ra sao? Rõ ràng đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực pháp luật
mang tính chất dân sự, cho nên trong trường hợp này chỉ có thể đặt ra những sự
kiện pháp lý liên quan đến vấn đề cưỡng chế thi hành. Sự cưỡng chế này không

thể do bên có lợi trong việc thi hành quyết định của trọng tài hoặc bản thân trọng
tài thực hiện. Bởi vì bên đó và trọng tài đều không phải là người thực thi quyền
lực Nhà nước. Như vậy, để cho quyết định được thi hành trên thực tế thì việc thi
hành quyết định của trọng tài chỉ có thể do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thực hiện – thông thường là Tòa án. Vì vậy, khi bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì
bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ Nhà nước có thẩm quyền thi
hành phán quyết trọng tài để đảm bảo quyền lợi của mình.
IV. Thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam
Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế bằng trọng tài đã phổ biến ở
hầu hết các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, do đặc thù của nền kinh tế, chính
trị, xã hội nên hình thức này phát triển muộn hơn, chưa thực sự phổ biến. Từ
năm 1993 đến nay, trước sự đòi hỏi của thực tiễn, ngày 28/4/1993, Thủ tướng
Chính phủ ra quyết định 204/1993/TTg về việc thành lập trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam (VIAC). VIAC được ghi nhận là tổ chức phi chính phủ được
thành lập bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế quốc tế như
các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư, du lịch, vận tải và
bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín dụng và thanh toán quốc tế.
17


Tại Việt Nam, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được
giải quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng, đội ngũ trọng
tài viên không ngừng được mở rộng.
Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật đối với sự phát triển của trọng
tài cũng như để đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương thức này
ngày càng gia tăng, đồng thời thể hiện sự tôn trọng luật chơi chung trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, ngày 25/4/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Tiếp đó, Luật Trọng tài thương mại,

được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011,
khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của trọng tài đối
với các tranh chấp thương mại, cho phép trọng tài viên là người nước ngoài
cũng như nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ trọng tài…
Với lợi thế đó, trong những năm qua, số vụ tranh chấp thương mại được
giải quyết bằng trọng tài mà tiêu biểu là tại VIAC liên tục tăng. Tuy nhiên, bức
tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương
thức này chỉ giải quyết khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại, số vụ tranh
chấp mà VIAC thụ lý vẫn rất khiêm tốn.
Nguyên nhân là do những quy định của pháp luât hiện hành còn nhiều
thiếu sót, chồng chéo, chưa rõ ràng cụ thể. Luật trọng tài thương mại năm 2010
mặc dù đáp ứng phần nào yêu cầu thực tế song sau một thời gian đi vào hoạt
động đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất hợp lý. Chưa kể, thói quen, tập quán của
thương nhân Việt Nam tin tưởng tòa án hơn trọng tài. Hơn nữa, trình độ trọng
tài viên ở Việt Nam đều là những người kiêm nhiệm trong lĩnh vực thương
mại, chưa thực sự chuyên nghiệp trong lĩnh vực tố tụng. Cho nên, một số trọng
tài viên còn chưa chuyên nghiệp. Trong khi đó, các tranh chấp thương mại
ngày càng phức tạp, nhất là tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
Giải pháp nâng cao, khắc phục những tồn tại trong giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng trọng tài tại Việt Nam:

18


Thứ nhất, cần có thêm những cơ chế hỗ trợ pháp lý từ phía Nhà nước đối
với các tổ chức phi Chính phủ, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và pháp luật về trọng tài nói riêng cho phù hợp với xu thế phát triển
chung.
Thứ hai, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước cũng cần
có hành động cụ thể nhằm hỗ trợ cơ chế cho hoạt động này, hơn nữa, trong quá

trình giải quyết tranh chấp, trọng tài cũng cần đến cơ chế phối hợp từ các cơ
quan nhà nước, trực tiếp là hệ thống toà án, đặc biệt trong việc cưỡng chế thi
hành phán quyết cũng như công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài
nước ngoài.
Thứ ba, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật trọng tài cũng như
nâng cao chất lượng dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp hiểu hơn về bản chất và ưu
thế của trọng tài thương mại, từ đó tạo điều kiện cho cơ chế này ngày càng
phát triển.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài cũng phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
trọng tài viên, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Đặc biệt, công tác
nghiên cứu và giảng dạy pháp luật trọng tài là nhân tố bảo đảm cho sự phát triển
bền vững của mô hình. Vì thế, cần bồi dưỡng năng lực cũng như định hướng cho
sinh viên, đặc biệt là sinh viên luật và kinh tế về những vấn đề cơ bản trong
pháp luật trọng tài.

19


C. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh chung của quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát
triển mạnh, kèm theo đó là những tranh chấp về lợi ích liên tục nảy sinh. Với
tính chất nhanh chóng, mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả cũng như những ưu thế
trong việc giải quyết tranh chấp thương mại vốn cần nhanh gọn, chính xác nên
trọng tài ngày càng được các thương nhân trên thế giới quan tâm và sử dụng
trong việc giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, với thủ tục nhanh gọn, dễ dàng, đảm
bảo tính bí mật, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng chiếm được ưu
thế so với các phương thức khác trong giải quyết tranh chấp thương mại.
Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài chưa có lịch sử
phát triển lâu đời ở Việt Nam và hiện cũng chưa thực sự phát triển. Tuy nhiên,

nhà nước Việt Nam đã và đang ra sức tiến hành cải cách pháp luật nhằm xây
dựng một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động thương mại trong nước cũng
như các hoạt động thương mại có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện cho trọng tài
trở nên gần gũi với các doanh nghiệp, giúp họ thoát khỏi tư duy theo lối mòn và
đưa tới một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại nhanh chóng, kịp thời, hiệu
quả, đồng thời giảm bớt gánh nặng Tòa án.
Bài tiểu luận trên đã thể hiện toàn bộ những hiểu biết của em về những
vấn đề pháp lý đối với giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế của các
thương nhân trước trọng tài. Tuy nhiên do hạn chế về mặt kiến thức và kỹ năng
nên bài làm sẽ không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót nên em rất mong được
sự góp ý, sửa đổi của thầy cô để giúp bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.

Quy tắc trọng tài UNCITRAL năm 1976;
Công ước New York năm 1958;
Luật Trọng tài thương mại 2010;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại quốc tế, NXB.

5.
6.
7.


Công an nhân dân;
;
;
;

21



×