Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

đề tài: “Quy định của pháp luật về kiểm sát trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.08 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1


A. MỞ ĐẦU
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có nhiệm
vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính là một
trong những hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ
án tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ
trong lĩnh vực tố tụng hành chính, Viện kiểm sát luôn phải đảm bảo pháp luật
được chấp hành, thực thi một cách hiệu quả, nghiêm minh. Hành vi trả lại
đơn khởi kiện của Tòa án nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính cũng không ngoại lệ, việc thực hiện các quy định về trả lại đơn khởi
kiện phải đảm bảo tính hợp lý, hợp pháp vì đây là hành vi ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền của người khởi kiện, đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp được quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng hành chính.
Chính vì thế, cần nắm rõ các quy định của pháp luật về trả lại đơn khởi kiện
cũng như các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát về vấn đề
này để tiến hành kiểm sát được hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể khởi kiện luôn được thực thi.
Nắm bắt được những vấn đề nêu trên, cũng như nhu cầu nghiên cứu,
tìm hiểu của bản thân, em xin chọn đề tài: “Quy định của pháp luật về kiểm sát
trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính” cho bài tiểu luận của mình.


2


B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung
Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham
gia tố tụng trong giải quyết vụ án hành chính nhằm phát hiện vi phạm của Tòa
án và các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng hành chính, trên cơ sở đó thực hiện
thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục, phòng
ngừa, ngăn chặn vi phạm đã xảy ra hoặc có thể xảy ra, góp phần bảo đảm cho
Tòa án giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật; bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; pháp luật của nhà nước được chấp hành
nghiêm minh.
Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các
quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền gửi đơn khởi
kiện vụ án hành chính đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền bằng các hình thức
luật quy định. Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng đầu tiên của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Tuy nhiên không phải bất kỳ trường
hợp nào Tòa án cũng thụ lý giải quyết mà trên cơ sở pháp luật, Tòa án sẽ trả lại
đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu không đáp ứng đúng và đủ điều kiện
khởi kiện mà pháp luật quy định. Theo đó, trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của
Tòa án nhân dân trả lại đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo cho người khởi kiện
khi thuộc một trong các căn cứ theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính 2015.
Như đã nói ở trên, trả lại đơn khởi kiện là nội dung quan trọng trong tố
tụng hành chính, bởi lẽ hành vi này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của người
khởi kiện, đó là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được
quy định tại Điều 5 Luật Tố tụng hành chính – “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
quyền khởi kiện vụ án hành chính để u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích


3


hợp pháp của mình theo quy định của Luật này”, và đương nhiên, người khởi
kiện sẽ không được Tòa án chấp nhận giải quyết đối với yêu cầu của mình.
Như vậy, để thực hiện tốt công tác kiểm sát đối với hành vi trả lại đơn
khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đòi hỏi Viện kiểm sát – cụ
thể là những cán bộ kiểm sát được trực tiếp phân công làm nhiệm vụ cần phải
nắm chắc, hiểu rõ những quy định của định của pháp luật về vấn đề này; quyền
hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
II. Quy định của pháp luật về kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện vụ án
hành chính
Theo quy định tại Điều 6 Quy chế Công tác kiểm sát giải quyết vụ án
hành chính, sau khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Toà án cùng
cấp, trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản, Viện kiểm sát phải
tiến hành xem xét, nếu thấy việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng thì
thực hiện quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đã trả lại đơn khởi kiện theo
quy định tại khoản 1 Điều 124 Luật Tố tụng hành chính. Theo đó, căn cứ để
Viện kiểm sát cho rằng việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện không đúng được
quy định tại khoản 1 Điều 123 Luật Tố tụng hành chính 2015.
1. Quy định của pháp luật về kiểm sát đối với căn cứ để Tòa án trả lại đơn
khởi kiện
a. Người khởi kiện khơng có quyền khởi kiện
Để xác định chủ thể khởi kiện và quyền khởi kiện của chủ thể, Viện
kiểm sát cần căn cứ vào các quy định của pháp luật. Theo khoản 8 Điều 3
Luật Tố tụng hành chính 2015, người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân
khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc

hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri
trưng cầu ý dân và Điều 5 Luật Tố tụng hành chính 2015 cá nhân, cơ quan, tổ
4


chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án vảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình theo quy định....
Vậy, khi tiến hành việc kiểm sát, Viện kiểm sát cần nghiên cứu ky
lưỡng về tư cách chủ thể của người khởi kiện. Quyền khởi kiện vụ án hành
chính là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình theo thủ tục do pháp luật quy định. Trước tiên, cán
bộ kiểm sát phải xác định điều kiện cần, người khởi kiện phải là người có
quyền và lợi ích bị xâm phạm bởi chính quyết định hành chính, hành vi hành
chính đó. Đối với khởi kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính thì
chủ thể là bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức; đối với khởi kiện về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh thì chủ thể là cá nhân và tổ chức; còn đối với
khởi kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu
cử đại biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân thì chủ thể
chỉ là cá nhân. Tuy nhiên, Kiểm sát viên cần nắm rõ quyết định hành chính
nào là đối tượng của khởi kiện vụ án hành chính, cụ thể, chỉ có quyết định
hành chính cá biệt mới là đối tượng khởi kiện, còn quyết định hành chính
mang tính chỉ đạo, điều hành và quyết định hành chính mang tính cá biệt
không phải là đối tượng của khởi kiện vụ án hành chính. Việc xác định quyết
định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính phải đảm bảo đủ các
dấu hiệu sau:
– Là quyết định bằng văn bản;
– Do cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước ban hành;
– Quyết định này được áp dụng với một hoặc một số đối tượng cụ thể
ảnh hưởng tới quyền và nghĩa vụ của đối tượng cụ thể.

Cần khẳng định rằng: Quyền khởi kiện và chủ thể khởi kiện là hai yếu
tố gắn bó mật thiết với nhau. Quyền khởi kiện chỉ được thực hiện bởi một chủ
thể nhất định và chủ thể được thực hiện quyền khởi kiện khi lợi ích hợp pháp
5


của mình bị xâm phạm. Như vậy, trong quá trình xem xét về tư cách của
người khởi kiện thông qua những yếu tố nêu trên, Viện kiểm sát có thể đưa ra
nhận định về tính hợp pháp đối với hành vi trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
b. Người khởi kiện khơng có năng lực hành vi tố tụng hành chính đầy đủ
Người khởi kiện là thuật ngữ chỉ tư cách của cá nhân hay cơ quan, tổ
chức khi tham gia tố tụng trong vụ án hành chính. Người khởi kiện vụ án
hành chính có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không có
quốc tịch, cơ quan, tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ
trang nhân dân. Tuy nhiên, để đánh giá đúng tư cách người khởi kiện thì
Kiểm sát viên cần nắm rõ quy định pháp luật, cụ thể người khởi kiện phải
thỏa mãn các điều kiện quy định tại Điều 54 Luật Tố tụng hành chính 2015, là
phải có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng hành chính..
Theo quy định tại khoản 1 Điều 54, Luật Tố tụng hành chính thì: “ Năng lực
pháp luật tố tụng hành chính là khả năng có các quyền, nghĩa vụ trong tố
tụng hành chính do pháp luật quy định...” Năng lực pháp luật tố tụng hành
chính của cá nhân phát sinh từ khi cá nhân sinh ra và mất đi khi cá nhân chết.
Năng lực pháp luật tố tụng hành chính của cơ quan, tổ chức phát sinh từ khi
cơ quan, tổ chức được thành lập, tồn tại hợp pháp và mất đi khi cơ quan, tổ
chức đó bị giải thể.“Năng lực hành vi tố tụng hành chính là khả năng tự mình
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính hoặc ủy quyền cho người
đại diện tham gia tố tụng hành chính.” Năng lực hành vi tớ tụng hành chính
của cá nhân sẽ khác nhau tùy theo độ tuổi và khả năng nhận thức. Người từ

đủ 18 tuổi trở lên có quyền tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự
trong tố tụng hành chính hoặc có thể ủy quyền cho bất cứ người nào đại diện
cho mình tham gia tố tụng. Trường hợp người khởi kiện không đủ năng lực tố
tụng hành chính thì khi tham gia vào quan hệ tố tụng hành chính cần phải
thông qua người đại diện theo pháp luật.
6


c. Trường hợp pháp luật có quy định về điều kiện khởi kiện nhưng người khởi
kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó
Điều kiện ở đây là đới với mợt sớ loại khiếu kiện phải qua thủ tục
khiếu nại, nếu không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại đó hoặc đã hết thời
hạn giải quyết mà khiếu nại không được giải quyết thì mới có thể làm đơn
khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền. Nói cách khác, quy định trên chỉ áp
dụng với lại khiếu kiện mà pháp luật quy định phải qua thủ tục tiền tố tụng.
Tại khoản 3 Điều 115 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định rõ về trường
hợp này, theo đó “Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án về danh sách cử tri
trong trường hợp đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nhưng
hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại
đó”, như vậy, đới với khiếu kiện về danh sách cử tri thì phải thông qua thủ
tục khiếu nại tại cơ quan có thẩm quyền thì mới có thể khởi kiện vụ án hành
chính tại Tòa án, vì loại khiếu kiện này chỉ phát sinh trong thời gian bầu cử,
mang tính chính trị cao, cần phải xử lý một cách nhanh chóng.
d. Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật
Khi khởi kiện vụ án hành chính thì người khởi kiện cần phải xác định
sự việc đó đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án hay chưa, bởi lẽ, nếu cùng nội dung, cùng đối tượng khởi
kiện thì Tòa án sẽ không thụ lý những vụ án đã được giải quyết.

Theo quy định của pháp luật, nếu sự việc đã được giải quyết bằng bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án rồi thì các đương sự
chỉ có thể yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm chứ không được
quyền tiếp tục khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, Kiểm sát viên cần xem xét
ky nội dung cũng như đối tượng của đơn khởi kiện để xác định sự việc đó đã
7


được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định của Tòa án hay chưa, từ đó
nhận định căn cứ đối với hành vi trả lại đơn khởi kiện của Toà án có đúng
quy định pháp luật hay không.
đ. Sự việc khơng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tịa án
Thẩm quyền giải quyết của Toà án là một trong các điều kiện để khởi
kiện vụ án hành chính. Nghĩa là nếu sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án thì sẽ không được Tòa án thụ lý giải quyết. Vì vậy, với một
vụ án hành chính cụ thể, cần phải xác định thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa
án cấp nào, địa phương nào. Do đó, khi tiến hành kiểm sát, bên cạnh việc xem
xét các điều kiện về chủ thể, đối tượng khởi kiện, vụ việc có thể kiện ở đâu
thì Kiểm sát viên cần làm rõ hai nội dung: Thứ nhất, phân định thẩm quyền
xét xử giữa Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện; thứ hai, phân định thẩm
quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân địa phương trong cùng một cấp đối
với những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp đó.
e. Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ tục giải quyết khiếu
nại trong trường hợp quy định tại Điều 33 của Luật Tố tụng hành chính 2015
Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa
án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại thì Tòa án phải yêu cầu người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải
quyết và có văn bản thông báo cho Tòa án. Theo đó, nếu người khởi kiện lựa
chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết thì Tòa án căn cứ

vào quy định tại điểm e khoản 1 Điều 123 của Luật Tố tụng hành chính trả lại
đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Trường hợp
người khởi kiện không lựa chọn cơ quan giải quyết thì Tòa án trả lại đơn khởi
kiện cho người khởi kiện.
Việc quy định như vậy đã tạo điều kiện cho người khởi kiện tự do lựa
chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhằm bảo đảm tối đa quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Nếu người khởi kiện lựa chọn Toà án giải quyết thì Toà án
8


thụ lý giải quyết vụ án đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho
Toà án. Ngược lại, người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại giải quyết thì Toà án trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo
cho người khởi kiện. Như vậy, khi có thông báo trả lại đơn khởi kiện, Kiểm
sát viên cần xem xét về nguyện vọng của người khởi kiện, xem thực sự họ đã
lựa chọn cơ quan nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, từ đó đánh
giá tính khách quan và hợp pháp về hành vi trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
g. Đơn khởi kiện khơng có đủ nội dung quy định tại khoản 1 Điều 118 của
Luật Tố tụng hành chính mà không được người khởi kiện sửa đổi, bổ sung
theo quy định tại Điều 122 của Luật này
Để Tòa án thụ lý vụ án thì đơn khởi kiện phải đảm bảo các nội dung
theo quy định tại khoản 1 Điều 118 Luật Tố tụng hành chính 2015. Nếu đơn
khởi kiện không có đủ các nội dung theo quy định thì Toà án sẽ thông báo
cho người khởi kiện biết để họ sửa đổi, bổ sung và thời hạn sửa đổi, bổ sung
là 10 ngày làm việc, kể từ ngày người khởi kiện nhận được thông báo của Toà
án. Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo
đúng nội dung quy định trên thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án. Còn trường
hợp, không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn
khởi kiện và tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Như vậy, khi nhận được

văn bản thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Kiểm sát viên cần xem
xét, đối chiếu đơn khởi kiện với quy định của pháp luật để nhận định về nội
dung đơn khởi kiện, thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện của Tòa án
cũng như việc người khởi kiện thực hiện yêu cầu của Tòa án, đảm bảo mọi
hoạt động đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật
h. Hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật Tố
tụng hành chính mà người khởi kiện khơng xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí cho Tịa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm
ứng án phí, khơng phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có lý do chính đáng.
9


Sau khi nhận đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo, nếu Thẩm phán
được phân công xem xét đơn khởi kiện xét thấy vụ án hành chính thuộc thẩm
quyền giải quyết thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm
ứng án phí trừ những trường hợp miễn nộp tiền tạm ứng án phí hoặc không
phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Sau khi nhận được thông báo nộp tiền tạm ứng án phí thì trong thời hạn
10 ngày làm việc, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Toà án sẽ
thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án
phí, nếu hết thời hạn trên mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí thì Tòa án thông báo cho họ biết về việc không thụ lý vụ
án với lý do là họ không nộp tiền tạm ứng án phí. Trường hợp này, người
khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Trên thực tế có rất nhiều trường hợp Tòa án đã trả lại đơn kiện trái với
quy định của pháp luật. Chính vì vậy, Luật Tố tụng hành chính 2015 cũng
quy định đương sự có quyền khiếu nại về việc trả lại đơn khiếu nại. Theo
đó, trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản trả lại
đơn khởi kiện do Tòa án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với
Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.

Để kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án có đúng căn cứ
pháp luật hay không, Kiểm sát viên cần nghiên cứu, xem xét về lý do trả lại
đơn khởi kiện mà Tòa án đưa ra, từ đó so sánh, đối chiếu với các căn cứ pháp
luật tương ứng. Khi cho rằng việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án không
đúng căn cứ pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án để yêu
cầu xem xét lại việc trả lại đơn khởi kiện. Như vậy, quyền kiến nghị đối với
việc trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính là quyền hạn đặc trưng của Viện
kiểm sát khi thực hiện kiểm sát hoạt động của Tòa án, cụ thể là Thẩm phán
đối với việc trả lại đơn khởi kiện; vừa là phương thức kiểm soát quyền lực
cũng vừa thể hiện tính thống nhất trong việc việc thực hiện mục tiêu giải
quyết vụ án hành chính giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, đảm bảo
10


việc giải quyết vụ án hành chính tuân thủ nghiêm túc quy định của pháp luật,
hướng các chủ thể trong quan hệ tố tụng đó thực hiện đầy đủ nhiệm vụ,
quyền hạn cũng như các quyền và nghĩa vụ được Luật Tố tụng hành chính
ghi nhận.
2. Quy định của pháp luật về kiểm sát các hoạt động khác của Tòa án về
hành vi trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
Luật Tố tụng hành chính quy định khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản ghi rõ
lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho
Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán
trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và lưu tại Tòa án để làm cơ sở
giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu. Sau khi nhận được văn bản trả
lại đơn khởi kiện, trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản,
Viện trưởng Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát, tiến
hành kiểm tra, xem xét, đánh giá việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán,
nếu thấy việc trả lại đơn khởi kiện không đúng thì thực hiện quyền kiến nghị

với Chánh án Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện.
Bên cạnh quyền kiến nghị của Viện kiểm sát, quyền khiếu nại khi trả
lại đơn khởi kiện là quyền cơ bản của người khiếu nại xuất phát từ nhận thức
chủ quan khi họ cho rằng quyết định trả lại đơn khởi kiện của Tòa án là
không đúng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu không
quy định về quyền khiếu nại khi trả lại đơn khởi kiện thì sẽ có những trường
hợp bất cập xảy ra khi quyết định trả lại đơn là theo ý thức chủ quan của Tòa
án. Quyền kiến nghị, khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện được quy định tại
Điều 124 Luật Tố tụng hành chính 2015, theo đó trong thời hạn 07 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có
quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã
trả lại đơn khởi kiện, nếu người khởi kiện xét thấy việc trả lại đơn khởi kiện

11


của mình với lý do Tòa án đưa ra không đúng như các trường hợp pháp luật
đã nêu trên thì có quyền khiếu nại.
Trước đây, khi thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2010, công tác
kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện gặp rất nhiều khó khăn vì Tòa án gửi cho
Viện kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện với nội dung ngắn gọn và nêu
rất chung chung. Muốn xác định được việc trả lại đơn khởi kiện có đúng
pháp luật hay không thì Viện kiểm sát phải kiểm tra những tài liệu chứng cứ
kèm theo đơn khởi kiện mà đương sự gửi đến Tòa án, trong khi đó, Luật Tố
tụng hành chính năm 2010 quy định trong trường hợp này Tòa án phải chuyển
trả lại đơn khởi kiện và hồ sơ, tài liệu cho người khởi kiện (khoản 2 Điều 109
Luật Tố tụng hành chính năm 2010) nên Viện kiểm sát cũng không có căn cứ
để kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Mặt khác, Viện kiểm sát chỉ có thể
kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi
kiện cho Viện kiểm sát, trường hợp Tòa án không gửi thông báo cho Viện

kiểm sát thì Viện kiểm sát không thể thực hiện chức năng kiểm sát vì Luật
không quy định Viện kiểm sát được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về
việc xem xét và thụ lý đơn khởi kiện. Vì vậy, quy định tại đoạn 2, khoản 2,
Điều 123 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã khắc phục khó khăn cho
Viện kiểm sát, quy định cụ thể đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm
phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và lưu tại Tòa án để làm cơ
sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Tại Điều 21 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTCTANDTC quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án
nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính
(gọi tắt là Thông tư liên tịch số 03) quy định “1. Trường hợp Viện kiểm sát
cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận được
thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện thì
Viện kiểm sát gửi văn bản yêu cầu Toà án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ
bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ; 2. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
12


khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm sát, Tòa án giao cho Viện kiểm sát văn
bản cần sao chụp theo yêu cầu tại trụ sở Tòa án. Trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi nhận được văn bản cần sao chụp, Viện kiểm sát trả lại văn bản cho Tòa
án”. Theo những quy định trên, thì việc kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án thuận lợi hơn vì Viện kiểm sát được quyền yêu cầu Tòa án cho
sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ trong trường hợp trả lại
đơn khởi kiện. Việc tiếp cận được với các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn
khởi kiện sẽ giúp cho công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện được chặt
chẽ và có căn cứ pháp luật hơn.
Luật Tố tụng hành chính quy định trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại,
kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện bằng việc mở phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị của Tòa án và có sự tham gia của Viện kiểm sát
cùng cấp. Tại khoản 3, Điều 24 Thông tư liên tịch số 03 quy định: Đối với

phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi
kiện, … Viện kiểm sát gửi cho Tòa án quyết định phân công Kiểm sát viên
tham gia phiên họp ngay sau khi nhận được thông báo của Tòa án về thời gian
mở phiên họp.
Và tại Điều 26 Thông tư liên tịch số 03 quy định:
“1. Tại phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại của người khởi kiện,
Kiểm sát viên phát biểu các vấn đề sau đây:
a) Tính có căn cứ và hợp pháp của khiếu nại;
b) Việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng trong việc trả
lại đơn khởi kiện;
c) Tính có căn cứ và hợp pháp của việc trả lại đơn khởi kiện; quan
điểm của Viện kiểm sát về việc giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện hoặc
nhận lại đơn khởi kiện.

13


2. Tại phiên họp xem xét, giải quyết kiến nghị của Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên trình bày phát biểu về các vấn đề sau đây:
a) Nội dung kiến nghị và căn cứ của việc kiến nghị; có quyền xuất trình
bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có); phân tích để làm rõ quan điểm kiến nghị
của Viện kiểm sát về việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nội dung hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều này;
c) Quan điểm của Viện kiểm sát về việc giữ nguyên việc trả lại đơn
khởi kiện hoặc nhận lại đơn khởi kiện.
3. Trường hợp vừa có khiếu nại của người khởi kiện, vừa có kiến nghị
của Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên trình bày, phát biểu theo hướng dẫn tại
điểm a khoản 1, khoản 2 Điều này.”
Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc trả lại đơn khởi
kiện, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người khởi kiện có khiếu nại tại

phiên họp Thẩm phán sẽ quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện
hoặc nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo để tiến hành việc
thụ lý vụ án. Trường hợp không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán, trong thời hạn 07 ngày,
người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết. Trong thời hạn
10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Chánh án Tòa án cấp trên
trực tiếp giải quyết và đây là quyết định giải quyết cuối cùng. Như vậy, Kiểm
sát viên được phân công kiểm sát cần phải theo dõi sát sao, nắm rõ quy định
của pháp luật, đảm bảo các hoạt động của Tòa án trong việc giải quyết khiếu
nại, kiến nghị liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện được thực hiện đúng
thời hạn quy định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
Có thể nói, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã có một số quy định
thay đổi, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho Viện kiểm sát khi tiến hành công tác
kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Tuy nhiên, việc quy định mở
14


phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện là một
quy định hoàn toàn mới nên trong thực tiễn thi hành vẫn không tránh khỏi
những hạn chế, vướng mắc như:
Thứ nhất, về việc Tòa án thông báo cho Viện kiểm sát về ngày mở
phiên họp: Tại khoản 3 Điều 124 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định
trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở
phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Và tại khoản 2 Điều 12
Thông tư liên tịch số 03 quy địnhTòa án thông báo bằng văn bản cho Viện
kiểm sát cùng cấp về ngày mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện ngay sau khi quyết định mở phiên họp. Tuy
nhiên, quyết định mở phiên họp của Thẩm phán có được thể hiện bằng văn
bản hay không, được ban hành trước khi mở phiên họp bao lâu và có được

gửi cho Viện kiểm sát hay không thì cả Luật và Thông tư không quy định rõ.
Vì vậy, việc quy định Tòa án thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát về
ngày mở phiên họp ngay sau khi quyết định mở phiên họp là rất mơ hồ, thiếu
căn cứ nên thực tế đã xảy ra có nhiều trường hợp Tòa án thông báo cho Viện
kiểm sát trước khi mở phiên họp chỉ có 01 ngày thì không đủ thời gian
nghiên cứu hồ sơ khiếu nại và thực hiện các thao tác nghiệp vụ để tham gia
phiên họp.
Thứ hai, Luật tố tụng hành chính năm 2015 và Thông tư liên tịch số 03
không quy định Tòa án phải gửi cho Viện kiểm sát bản sao đơn khởi kiện và
tài liệu chứng cứ trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện mà Viện kiểm sát phải
gửi văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài liệu
chứng cứ và việc sao chụp tại liệu chứng cứ phải được thực hiện tại trụ sở Tòa
án. Việc quy định như trên làm cho Viện kiểm sát không chủ động mà phải phụ
thuộc vào Tòa án vì có trường hợp khi Kiểm sát viên liên hệ để sao chụp tài
liệu, chứng cứ thì cùng lúc đó Tòa án cũng đang nghiên cứu, hoặc thẩm phán,
thư ký được phân công vắng mặt hoặc bận công tác khác thì Kiểm sát viên

15


không sao chụp được hồ sơ sẽ dẫn đến không đảm bảo thời hạn để Viện kiểm
sát thực hiện quyền kiến nghị hoặc tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại.

16


C. KẾT LUẬN
Có thể nói, các quy định của pháp luật về kiểm sát giải quyết vụ án
hành chính, đặc biệt là quy định về kiểm sát trả lại đơn khởi kiện ngày càng
cụ thể, chặt chẽ hơn, tuy vẫn còn một số những vướng mắc trong thực tiễn thi

hành, nhưng những quy định này đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Để
thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, tham gia phiên
họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Tòa án theo quy định của Luật tố tụng
hành chính năm 2015, mỗi cán bộ kiểm sát cần nghiên cứu áp dụng đúng các
quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do có nhiều nội dung
được quy định mới chưa được hướng dẫn cụ thể nên bên cạnh việc nghiên
cứu áp dụng đúng quy định của Luật thì chúng ta cũng cần có những phương
pháp, cách thức cụ thể để theo dõi, kiểm sát; tăng cường công tác phối hợp
giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhất là trong việc gửi thông báo cho Viện kiểm
sát về ngày mở phiên họp và việc sao chụp tài liệu, chứng cứ, đồng thời cần
tiến hành tập huấn cho Viện kiểm sát địa phương về công tác này.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Luật Tố tụng hành chính 2010;
Luật Tố tụng hành chính 2015;
Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC: Quy định
việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong

4.

việc thi hành một số quy định của Luật tố tụng hành chính;
Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 573/2012/QĐ-VKSTC-


5.
6.
7.

V12 ngày 15/10/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
Dự thảo Quy chế Công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính;
Tập bài giảng môn Kiểm sát giải quyết vụ án hành chính;
/>
8.

spx
http://113.161.204.201/vkscantho/index.php/news/Tin-nganh-Kiemsat/KIEM-SAT-VIEC-TRA-LAI-DON-KHOI-KIEN-NHUNG-DIEMMOI-TRONG-LUAT-TO-TUNG-HANH-CHINH-2015-949/

18



×