Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Báo cáo Môn Kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.43 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH

NHÓM 04

CHÍNH SÁCH BẢO HỘ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
VIỆT NAM

BÁO CÁO MÔN KINH TẾ QUỐC TẾ
KHOA KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 05/2017


DANH SÁCH NHÓM

STT

Mã sinh viên

Họ lót

Tên

Mã lớp

Tên lớp


1

14120074

Đỗ Ngọc Phương

Anh

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

2

14120093

Trần Phạm Quỳnh

Duyên

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

3

14120108

Võ Thị Xuân


Hiếu

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

4

14120116

Nguyễn Minh

Huy

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

5

14120032

Nguyễn Kim

Ngân

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường


6

14120038

Huỳnh Nguyễn Phú Nông

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

7

14120162

Vũ Mạnh

Quân

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

8

14120044

Võ Khánh

Quỳnh


DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

9

14120178

Phạm Hoàng

Thu

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

10

14120179

Bồ Thụy Ngọc

Thuận

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

11


14120055

Nguyễn Thị Cẩm

Tiên

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

12

14120057

Lê Thị

Trang

DH14KM

Kinh tế tài nguyên môi trường

1.


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ BẢNG
TÊN

HÌNH
Hình 1
Hình 2
Hình 3
Hình 4
BẢNG
Bảng 1
Bảng 2
Bảng 3
Bảng 4
Bảng 5
Bảng 6
Bảng 7
Bảng 8
Bảng 9
Bảng 10
Bảng 11

NỘI DUNG
Tác động của thuế quan đối với sản xuất trong nước.
Tác động của thuế quan đối với sản xuất trong nước (tiếp).
Đường cong học tập của ngành công nghiệp ô tô từ năm 2008 đến nay.
Lương bình quân một tháng của lao động làm việc trong ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam .

Chi phí nhân công tính theo tuần trong ngành công nghiệp ô tô tại các nước Châu Á.
Tỷ lệ người sở hữu xe dưới mức 250 xe/1.000 người dân.
Ước lượng thời gian khi ngành công nghiệp ô tô Việt Nam bắt đầu có lợi nhuận và
phát triển nhanh chóng tính từ thời điểm năm 1998.
Cơ cấu sản xuất bộ linh kiện CKD theo công ty và nơi sản xuất.

Biểu thuế nhập khẩu linh kiện phụ tùng .
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 106/2016/QH13 về ô tô dưới 24 chỗ ngồi.
Sản lượng xe ô tô lắp ráp trong nước qua các năm.
Cơ cấu thành phần kinh tế trong sản xuất xe ô tô lắp ráp tại Việt Nam qua các năm.
Tổng số thuế nộp vào ngân sách nhà nước của ngành công nghiệp ô tô.
Bảng giá xe ở Việt Nam so với Thái Lan và Indonesia năm 2015.
Tỷ trọng của thuế và chi phí sản xuất và thặng dư trong tổng giá trị sản phẩm của
ngành công nghiệp ô tô qua các năm.

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt
AFTA
ASEAN

Tên đầy đủ Tiếng Anh
ASEAN Free Trade Area
Association of Southeast Asian

CBU

Nations
Completely Built-Up

CKD

Completely Knocked Down


CNPT
ERP
FDI
FLC
GATT
GDP

Effective rate of protection
Foreign Direct Investment
Fixed learning cost
General Agreement on Tariffs
and Trade
Gross Domestic Product
Organisation Internationale des

OICA
R&D
VAMA
WTO

Constructeurs d'Automobiles
Research & Development
Vietnam Automobile
Manufacturers Association
World Trade Organization

5

Tên đầy đủ Tiếng Việt
Khu vực Mậu dịch Tự do

ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á
Xe nhập khẩu nguyên chiếc
Ô tô lắp ráp trong nước với
100% linh kiện nhập khẩu
Công nghiệp phụ trợ
Tỷ lệ bảo hộ hiệu quả
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đường cong học tập
Hiệp ước chung về thuế quan
và mậu dịch
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổ chức quốc tế các nhà sản
xuất ô tô
Nghiên cứu và phát triển
Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô
Việt Nam
Tổ chức thương mại Thế giới


CHƯƠNG 1.
MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết của đề tài
Từ khi ra đời vào năm 1991 đến nay, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam được xác định
là ngành kinh tế trọng điểm, được ưu tiên đầu tư xây dựng. Nhà nước đã ban hành rất
nhiều chính sách bảo hộ song song với ưu đãi với mục tiêu không ngừng nâng cao tỷ lệ
nội địa hóa. Nhưng, tỷ lệ nội địa hóa ngành ô tô của nước ta sau gần 30 năm rất thấp, chỉ
vào khoảng 15%. Lượng ô tô sản xuất trong nước tăng qua các năm nhưng việc sản xuất ô
tô ở Việt Nam ở công đoạn giản đơn là hàn, tẩy – rửa sơn và lắp ráp do chuyển giao công

nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài không hiệu quả, năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp phụ trợ là yếu kém. Hậu quả là 70% nguyên liệu để sản xuất ô tô vẫn phải nhập
khẩu. Không chỉ vậy, doanh nghiệp FDI Toyota (doanh nghiệp có thị phần hơn 30% , lớn
thứ hai tại Việt Nam) tuyên bố đang có ý định rời khỏi Việt Nam và thành lập nhà máy tại
Indonexia do lo ngại về lợi nhuận công ty khi thuế nhập khẩu ô tô tại Việt Nam sẽ giảm
về 0 % vào năm 2018.
Nhiều nhà phân tích cho rằng nguyên nhân chính khiến ngành ô tô Việt Nam thất bại
là sai lầm trong chính sách bảo hộ với “đứa con mãi không chịu lớn” này. Ngành công
nghiệp ô tô Việt Nam ra đời sau so với khu vực từ 30-40 năm nên nhà nước đã thực hiện
áp dụng các biện pháp bảo hộ (thuế nhập khẩu cao, ưu đãi thu hút FDI,…) nhằm hạn chế
cạnh tranh từ nước ngoài và nuôi dưỡng ngành công nghiệp ô tô non trẻ.
Nhìn tổng quan, nước ta có hướng đi đúng khi áp dụng biện pháp bảo hộ nhằm hạn chế
nhập khẩu song song với thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cường chuyển giao công nghệ,
nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, tồn tại những
hạn chế khiến ngành công nghiệp ô tô mãi trì trệ, kém phát triển. Chính vì vậy, nhóm
nghiên cứu đề xuất đề tài “Chính sách bảo hộ trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam”
với mục đích phân tích, đánh giá chính sách bảo hộ của nhà nước đối với ngành công
6


nghiệp ô tô dựa trên lý thuyết bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ, đóng góp một cách nhìn
mới về chính sách sách của nhà nước cũng như đề xuất biện pháp để phát triển ngành
trong thời gian tới.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đánh giá chính sách bảo hộ trong ngành công
nghiệp ô tô tại Việt Nam trên cơ sở phương pháp định tính và định lượng. Tập trung phân
tích ưu điểm và hạn chế của chính sách, từ đó đánh giá và đưa ra đề xuất để phát triển
ngành công nghiệp ô tô trong thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tương nghiên cứu: Chính sách bảo hộ và mức độ bảo hộ của các chính sách đến

ngành ô tô Việt Nam.
Phạm vi thời gian: Chính sách bảo hộ của Nhà nước đối với ngành từ năm 1991 đến
năm 2015.
Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu sự tác động, ảnh hưởng của các chính sách của
Việt Nam đến ngành công nghiệp ô tô trong nước.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phân tích định tính:
Phương pháp thu thập, thống kê, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
Số liệu trong bài được tổng hợp từ báo cáo thống kê của Hiệp hội VAMA, Tổng
cục thống kê, Tổng cục hải quan,…
Phương pháp phân tích định lượng:
Nhóm nghiên cứu thực hiện thu thập số liệu thực tế từ ngành công nghiệp ô tô qua
thời gian (giá ô tô, sản lượng tích lũy, giá nguyên vật liệu nhập khẩu), thực hiện xử
lý số liệu (chiết khấu theo thời gian), từ đó đưa vào mô hình hồi quy để đưa ra kết
quả. Số liệu được thu thập là từ năm 2007 đến năm 2014, và mô hình hồi quy được
7


sử dụng là OLS chạy trên phần mềm Eviews. Tiếp theo, nhóm nghiên cứu dựa trên
những kết quả phân tích định tính và định lượng đã thực hiện ở trên để đưa ra
khuyến nghị, gợi ý chính sách.

1.5. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài.
Cung cấp góc nhìn tổng quan về ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, một số những
chính sách Nhà nước áp dụng để bảo hô ngành.
Phân tích định tính nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về sự tác động của các nhóm
chính sách đến sự phát triển của ngành.
Phân tích định lượng nhằm xác định những con số cụ thể để có thể đánh giá được mức
độ bảo hộ hiện tại của các chính sách, từ đó đưa ra gợi ý cho những nghiên cứu chuyên
sâu có thể đưa ra những gợi ý chính xác hơn cho mức độ bảo hộ hiệu quả đối với ngành.


1.6. Bố cục của đề tài
Bài nghiên cứu của nhóm gồm 3 chương:


Chương 1: Cở sở lý luận và cơ sở thực tiễn của chính sách bảo hộ trong ngành

công nghiệp ô tô.
• Chương 2: Thực trạng chính sách bảo hộ ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
• Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện chính sách đối với ngành công nghiệp ô tô ở Việt
Nam.
• Chương 4: Đề xuất biện pháp.
• Chương 5: Kết luận.

8


CHƯƠNG 2.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH
SÁCH BẢO HỘ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ
2.1. Lý thuyết bảo hộ mậu dịch
2.1.1. Sự ra đời của lý thuyết bảo hộ mậu dịch
Chúng ta biết rằng, mậu dịch tự do là nền tảng lý tướng để thực hiện quy luật lợi thế
so sánh, nâng cao hiệu quả kinh tế cho mỗi quốc gia và cho toàn thế giới. Trong những
giai đoạn đầu tiên khi kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ, sản xuất hàng hóa vượt
ra khỏi biên giới quốc gia. Adam Smith đã rất ủng hộ tư do mậu dịch, không cần sự
can thiệp của chính phủ. Điều này đã thế hiện khá rõ trong lý thuyết lợi thế cạnh tranh
dựa vào chất lượng và giá cả sản phẩm. Vì quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ nên
chưa có doanh nghiệp nào đủ sức lũng đoạn thị trường. Nếu không đủ sức cạnh tranh
thì doanh nghiệp có thể chuyển hướng hoạt động.

Sang thế kỉ 19, nền kinh tế phát triển vượt bậc dựa vào các yếu tố thâm dụng của
mỗi quốc, các doanh nghiệp lớn áp dụng chính sách độc quyền. Họ đã bắt đầu dựng
nên các hàng rào bảo hộ cho sản xuất trong nước, lý thuyết bảo hộ mậu dịch đã bắt đầu
hình thành. Nến mậu dịch tự do trên thế giới không còn tồn tại và bước tiến đến chủ
nghĩa bảo hộ mậu dịch là một bước tất yếu của lịch sử thế giới (mặc dù là bước lùi).
2.1.2. Lý thuyết bảo hộ mậu dịch
Là các chính sách ngoại thương của các nước nhằm một mặt sử dụng các biện pháp
đế bảo vệ thị trường nội địa trước sự cạnh tranh dữ dội của hàng hóa ngoại nhập, mặt
khác nhà nước nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trướng ra thị trường nước
ngoài.

9


2.1.3. Vì sao các nước lại áp dụng lý thuyết bảo hộ mậu dịch ?
Dễ dàng nhận thây rằng chính sách bảo hộ mậu dịch được áp dụng ớ hầu hết các
quốc gia trên thế giới, dù là nước đã phát triển hay chưa.
Nguyên nhân khách quan, cơ bản nhất của hiện tượng này là do có sự khác biệt vê
địa lý và tài nguyên dẫn đên sự khác biệt về nguồn lực kinh tế và năng lực cạnh tranh
giữa các quốc gia - đó là cái góc của vấn đề. Có sự chênh lệch vê khả năng cạnh tranh
giữa các công ty trong nước với các công ty nước ngoài.
Ngoài hai nguyên nhân cơ bản này ra, chúng ta cũng nên nhìn nhận chủ nghĩa bảo
hộ mậu dịch dưới một sô khía cạnh khác để làm rõ vấn đề.
Xét về khía cạnh tác dụng:



Giảm bớt sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Bảo hộ các nhà sản xuất trong nước, giúp họ tăng cường thêm sức mạnh trên thị


trường nội địa.
• Giúp nhà xuất khẩu trong nước tăng sức cạnh tranh để xâm chiếm thị trường
nước ngoài.
• Giúp điều tiết cán cân thanh toán quốc tế quốc gia, sử dụng hợp lý nguồn ngoại
tệ thanh toán của mỗi nước.
Xét về khía cạnh lịch sử và quan hệ giữa các nước:
Ở buổi đầu hình thành nền thương mại quốc tế, người ta thường quan tâm đến
việc đẩy mạnh xuất khẩu để thu về kim khí quý, trong khi đó lại chủ trương hạn
chế nhập khẩu để giảm bớt khả năng di chuyển kim khí quý ra ngoài (lý thuyết
lợi thế một chiếu). Xét về mặt chủ quan, các nước thực hiện chính sách bảo hộ
chủ yếu vì lợi ích cục bộ. Các nước lớn đánh thuế quan để làm giảm khối lượng
nhập khẩu nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia; các nước khác trả đũa, dẫn đến thuế
quan có tính chất cấm đoán.
2.1.4 Các vấn đề cơ bản của lý thuyết bảo hộ mậu dịch

10


a. Biểu hiện của lý thuyết bảo hộ mậu dịch
Bao gồm các biểu hiện thuế và phi thuế như : thuế quan, hệ thống thuế nội địa, giấy
phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các hiện pháp kỹ thuật, trợ cấp...
Biểu hiện thuế quan:
Là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu của quốc gia.
Thuế quan có tính chất là hàng rào mậu dịch chủ yếu là thuế nhập khẩu. Thuế quan làm
tăng số lượng hàng hoá trong nước sản xuất và chính phủ thu được một khoản tiền từ
nhập khẩu.
Các biểu hiện phi thuế quan:
Giới hạn về số lượng Quota: Là giới hạn về số lượng của một loại hàng hóa mà nhà
nước cho phép các doanh nghiệp xuất hay nhập khẩu trong một khoảng thời gian nhất
định.

Các biện pháp làm tăng tính cạnh tranh về giá: điển hình nhất là bán phá giá và trợ
cấp xuất khẩu. Bán phá giá là bản sản phẩm ở thị trường nước ngoài với mức giá thấp
hơn giá thành sản xuất hoặc là bản thấp hơn mặt bằng giá hợp lý của thị trường nhập
khẩu sản phẩm đó. Thực chất của việc bán phá giá là dùng một phần lợi nhuận kinh
doanh nội địa để trợ giá cho sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh cho thị trường nước
ngoài. Trợ cấp xuất khẩu là khoản trợ cấp chính phủ thanh toán cho các doanh nghiệp
trong nước nhằm hạ chi phí để tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Bù đắp
thiệt hại cho việc nhập khẩu những mặt hàng cần thiết nhưng giá nhập khẩu cao hơn
mặt bằng giá mà chính phủ muốn duy trì trên thị trường nội địa.
Những quy định về kỹ thuật: Các hàng rào kĩ thuật là những quy định kỹ thuật
(nghiêm ngặt) về kiểm tra quy cách chất lượng sản phẩm để đảm bảo quyền lợi của
người tiêu dùng, ở nước nhập khẩu như kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm; kiểm dịch
động thực vật; kiểm tra cách đóng gói, bao bì, nhãn hiệu; ghi chú hướng dẫn sử dụng
sản phẩm.

11


b. Các vấn đề cơ bản của lý thuyết bảo hộ mậu dịch
Làm tổn thương quá trình phát triển thương mại quốc tế, gây ra sự cô lập kinh tế
của một nước trong xu thế toàn cầu hóa.
Bảo hộ mậu dịch gây nên sự ỷ lại, trì trệ trong các nhà kinh doanh nội địa, kết quả
là càng bảo hộ mạnh thì càng làm cho sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp chiến
lược không còn linh hoạt, hoạt động đầu tư và kinh doanh không còn hiệu quả.
Bảo hộ mậu dịch gây ra sự kém đa dạng về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng hàng
hóa, cũng như giá hàng hóa trở nên đắt đỏ hơn so với tự do thương mại đã gây thiệt hại
cho người tiêu dùng.
Chính vì chính bản thân chủ nghĩa mậu dịch đã tồn tại những vấn đề như vậy nên
các quốc gia rất khó khăn trước lựa chọn tăng cường hay cắt giảm bảo hộ mậu dịch.
Một mặt, các quốc gia muốn bảo vệ nền sản xuất trong nước, bành trường ra thế giới,

mặt khác lại muốn tăng cường lợi ích cho người tiêu dùng và sợ trả đũa từ các nước
khác khi bảo hộ nền kinh tế của mình.
2.2. Lý thuyết về bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ.
2.2.1 Khái niệm về ngành công nghiệp non trẻ, bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ.
Một ngành công nghiệp non trẻ là ngành có nhiều hứa hẹn phát triển trong tương lai,
tuy nhiên do mới thành lập nên gặp khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý.
Bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ là trường hợp Nhà nước áp dụng các biện pháp
tác động đến thương mại nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển cho các ngành công
nghiệp được coi là non trẻ của đất nước.
Các điều kiện để một ngành công nghiệp non trẻ nên và tiếp tục được bảo hộ:
(1) Chi phí sản xuất trong ngành công nghiệp non trẻ phải giảm xuống theo thời
gian do hiệu quả nhờ quy mô, ngành công nghiệp non trẻ phải đảm bảo có khả năng
cạnh tranh quốc tế trong tương lai.
(2) Phải đảm bảo được điều kiện phần tiết kiệm chi phí trong tương lai phải lớn
hơn chi phí phát sinh do bảo hộ.

12


(3) Bảo hộ nên thực hiện trong ngắn hạn, vì việc thực hiện bảo hộ sẽ gây ra các
méo mó về thị trường, tăng giá sản phẩm, giảm phúc lợi xã hội.
Trong lý thuyết, những điều kiện này phải được đảm bảo trước khi quyết định thực
hiện bảo hộ một ngành công nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, xác định một ngành non
trẻ tiềm năng là điều không dễ dàng do những khó khăn trong định lượng khả năng nội
lực và ngoại lực có thể phát triển một ngành kinh tế.
2.2.2 Lý luận bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ.
Lý luận bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ được xây dựng trên ý tưởng của nhiều
nhà nghiên cứu, trải qua thời gian dài từ năm 1791 đến nay. Tuy nhiên, các lý luận nổi
bật về bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ được công nhận rộng rãi thể hiện dưới quan

điểm của các nhà nghiên cứu là Alexander Hamilton, Friedrich List, John Stuart Mill,
Mihail Manoilescu.
Xu hướng bảo hộ hiện đại được phát triển và củng cố tại Mỹ, nơi mà theo Paul
Bairoch goi là “đất mẹ và thành trì của chủ nghĩa bảo hộ hiện đại”. Vào năm 1791,
Alexander Hamilton đã trình bày trước Quốc hội Hoa Kỳ báo cáo nổi tiếng “Report on
manufactures”, được coi là người đầu tiên phác thảo ý tưởng về bảo hộ ngành công
nghiệp non trẻ. Hamilton lấy dẫn chứng từ bối cảnh kinh tế Mỹ lúc bấy giờ và cho rằng
phát triển công nghiệp là không thể khả thi nếu không có sự bảo hộ từ chính quyền
Liên bang. Ông cho rằng, hệ thống công nghiệp hoàn hảo và tự do hóa thương mại
được điều khiển trên tinh thần trái ngược nhau, nên nước Mỹ lâm vào tình trạng có
tiềm năng sản xuất các sản phẩm công nghiệp nhưng phải đối mặt với “nhiều trở ngại
tai hại” trong xuất khẩu sản phẩm do chính sách thương mại của các quốc gia khác.
Trong báo cáo của mình, Hamilton đã nêu ra các biện pháp để bảo hộ ngành công
nghiệp như là áp đặt thuế quan và thậm chí có thể cấm nhập khẩu trong nhiều trường
hợp. Theo ông, điều này còn có lợi ích là tăng thêm ngân sách quốc gia. Hamilton
cũng đề cao biện pháp trợ cấp khi cho rằng trợ cấp là biện pháp tốt để đạt hiệu quả bảo
hộ và tránh được nhược điểm của thuế quan là gây méo mó về giá cả. Các biện pháp
khác được ông đề ra đó là miễn giảm và bồi hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu

13


đầu vào của các ngành sản xuất, đồng thời khuyến khích các phát minh khoa học công
nghệ và tạo thuận lợi trong vận chuyển hàng hóa. Theo Hamilton, việc bảo hộ phụ
thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài và tiềm năng của một quốc gia; Hamilton không tuyệt
đối hóa bảo hộ như một chính sách tốt nhất mà bảo hộ được đánh giá như một lựa chọn
tốt hơn tự do hóa thương mại đối với tình hình Mỹ lúc bấy giờ. Họ phát triển theo
hướng đơn giản hóa lập luận của Hamilton và xây dựng lý do bảo hộ cơ bản dựa trên
tác động của thuế quan.
Friedrich List coi bảo hộ là biện pháp cần thiết đối với các quốc gia phát triển

sau khi đạt được nhiều thành tựu và của cải từ thương mại tự do và đang phải đối mặt
với trở ngại từ sự cạnh tranh của các sản phẩm từ nước ngoài. Lập luận bảo hộ của
Friedrich List dựa trên ý tưởng về sự hy sinh lợi ích trong hiện tại để đạt được thu nhập
trong tương lai. Việc bảo hộ tạm thời bằng thuế quan gây ảnh hưởng xấu khi làm tăng
giá sản phẩm ở hiện tại nhưng là cần thiết để đánh đổi một mức giá thấp trong tương
lai (là kết quả của sự cạnh tranh). Một quốc gia thực hiện bảo hộ sẽ mất một số lợi ích
khi thực hiện bảo hộ nhưng bù lại, nó sẽ có được lực lượng sản xuất, cái mà sẽ tạo ra
giá trị lớn hơn trong tương lai. Tuy nhiên, việc bảo hộ nên có giới hạn, vì nếu thuế
quan nhập khẩu được áp đặt ở một mức quá lớn nó sẽ triệt tiêu tinh thần cạnh tranh
giữa sản xuất trong nước và nước ngoài, khi có quá nhiều ưu đãi tạo ra sự ỷ lại lớn
khiến các ngành công nghiệp non trẻ không có động lực thay đổi. Vì vậy, List nhấn
mạnh đó là sự bảo hộ chỉ mang tính chất tạm thời, và nhằm mục đích “học tập công
nghiệp” của một quốc gia, giúp thúc đẩy một nước phát triển lên một cấp độ cao hơn.
Theo List việc bảo hộ nên được thực hiện ở ngành có phúc lợi tự nhiên tiềm năng cạnh
tranh quốc tế, ông cũng chỉ ra rõ đặc điểm của các ngành đó là “cần vốn ban đầu lớn để
đầu tư và khai thác, sử dụng nhiều máy móc nên hàm lượng tri thức công nghệ lớn, yêu
cầu khả năng và kinh nghiệm cũng như cần nhiều người lao động, tạo ra các sản phẩm
có giá trị cao và quan trọng đối với quốc gia”. List cho rằng, “một hệ thống bảo hộ tốt
không cung cấp cho các nhà sản xuất bất kỳ độc quyền nào, nhưng được cung cấp bảo
vệ để chống mất mát về đầu tư vốn, năng lực và lực lượng lao động trong ngành công
nghiệp mới” hay So với Hamilton, List đề cao thuế hải quan, nhưng ông không ủng hộ

14


bồi hoàn thuế bởi theo ông, các bán thành phẩm nên bị đánh thuế cao để thúc đẩy khả
năng sản xuất linh kiện trong nước.
Lý thuyết về ngành công nghiệp non trẻ chính thức được chấp nhận đồng thời với
việc John Stuart Mill xuất bản ấn bản đầu tiên của cuốn sách “Principles of Political
Economy”. Uy tín và vị thế của Mill là sự khẳng định về tín nhiệm kiến thức đối với lý

luận về ngành công nghiệp non trẻ. Mill công nhận khả năng tạm thời áp dụng của một
số loại thuế hải quan bảo hộ, đặc biệt trong tình hình của các quốc gia đang trong quá
trình phát triển, với mục đích “tạo ra một ngành công nghiệp nước ngoài hoàn toàn phù
hợp với hoàn cảnh sản xuất của một nước”. Theo Mill, sự vượt trội của một quốc gia
so với các quốc gia khác (hiệu quả bảo hộ) nằm ở kinh nghiệm và khả năng đạt được
theo thời gian.
Mihail Manoilescu đưa ra lập luận về ngành bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ
tại các nước đang phát triển xuất phát từ thực tế các nước châu MỹLatinh. Manoilescu
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định thời gian thực hiện bảo hộ. Từ việc phân
tích thực tế, Manoilescu khẳng định việc tạm thời thực hiện bảo hộ, tuy không nhất
thiết là biện pháp tốt nhất nhưng đã đạt thành công ở một số quốc gia khi thực hiện
công nghiệp hóa và bảo hộ chống lại sự cạnh tranh từ bên ngoài. Manoilescu cũng
nhấn mạnh rằng yếu tố quan trọng cản trở sự phát triển của một ngành công nghiệp là
khả năng hấp thụ của thị trường nội địa (tiêu dùng nội bộ). Vì vậy, Manoilescu bổ sung
về chính sách bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ nên áp dụng cho các nước có lãnh thổ
rộng lớn, thị trường tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, việc lựa chọn một chủ nghĩa bảo hộ vĩnh
viễn mà không chịu từ bỏ nó sẽ dẫn đến tình thế cô lập cùng những hiệu ứng tiêu cực
trong tăng trưởng kinh tế và tiến bộ. Bên cạnh đó, tạo lập và phát triển thị trường nội
địa là một mục tiêu mà biện minh cho sự can thiệp của nhà nước bằng biện pháp bảo
hộ.
2.2.3. Sự cần thiết phải bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ.
Ý nghĩa cần thiết của việc bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ đối với mỗi nền
kinh tế là không thể phủ nhận. Bởi vì, khi một ngành công nghiệp đang ở trong tình

15


trạng “non trẻ” thì ngành công nghiệp đó cần có sự bảo hộ của Nhà nước để có thể bắt
đầu phát triển, nếu không nó sẽ dễ dàng bị “nuốt chửng” bởi những đối thủ hùng hậu
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của thương mại quốc tế.

Những doanh nghiệp “non trẻ” này phải chịu những chi phí ban đầu cao và không
thể cạnh tranh ngay trong một vài năm đầu tiên với các đối thủ nước ngoài đã hoạt
động lâu năm có quy mô rộng lớn với chi phí sản xuất thấp. Chính sách thương mại tự
do có thể “bóp chết” ngành công nghiệp non trẻ ngay khi nó mới sinh ra. Các hình thức
thuế quan tạm thời đánh vào hàng nhập khẩu sẽ cho phép những doanh nghiệp như vậy
trưởng thành cho tới “độ chín muồi” và được bảo vệ chống lại “cơn gió lạnh” của cạnh
tranh từ nước ngoài.

Hình 1. Tác động của thuế quan đối với sản xuất trong nước
Giả định là Giá thế giới và Cầu trong nước (D d) là không đổi. Sdn là đường cung
trong nước. Trong trường hợp thương mại tự do, tại giá thế giới là P = 3000 $/chiếc, sẽ
không có sản xuất trong nước (Sdn = 0). Trước tình hình đó, chính phủ thực hiện chính
sách bảo hộ, chính phủ áp một mức thuế là 33%, giá hàng trong nước tăng lên là 4000
$/ chiếc, nhờ vậy, sản xuất trong nước tăng lên là 20.000 chiếc.
Tuy áp dụng thuế giúp thúc đẩy sản xuất trong nước, tuy nhiên, xã hội lại chịu phần
thiệt hại là diện tích (b+d) trong hình.

16


Hình 2: Tác động của thuế quan đối với sản xuất trong nước (tiếp)
(Theo Krugman, 2012, International Economic)
Ngành công nghiệp non trẻ theo thời gian phát triển trở nên “trưởng thành”, chi phí
sản xuất trong nước trở nên thấp xuống đủ để cạnh tranh quốc tế, đường cung sẽ dịch
chuyển xuống dưới thành Sdf. Chính phủ lúc đó sẽ gỡ bỏ thuế quan, ô tô trong nước lúc
này đạt sản lượng 50.000 chiếc. Đồng thời, ngành công nghiệp ô tô tạo ra một lượng
thặng dư nhà sản xuất là diện tích v (trong hình). Nếu chi phí sản xuất trong nước đủ
thấp, ngành ô tô có thể xuất khẩu và tạo được nhiều lợi nhuận từ việc đó.
Thực tế, việc tác động đến thương mại nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước sẽ
bị coi là bất hợp pháp vì nó làm bóp méo bản chất của thương mại.

Tuy nhiên, với mục đích bảo hộ nền công nghiệp non trẻ trong nước thì sự tác động
này được coi là hợp pháp. Điều XVIII của GATT về “Trợ giúp của Chính phủ để phát
triển kinh tế” cho phép các nước có sự giúp đỡ tạo thuận lợi cho việc tạo dựng một
ngành sản xuất nhất định (khoản 13). Hiệp định cho phép các nước duy trì cơ cấu thuế
quan, thiết lập các hạn ngạch về số lượng nhằm tạo dựng một ngành sản xuất nhất định
và để phát triển kinh tế (khoản 2 Điều XVIII GATT). Với một hiệp định được thiết kế
được khuyến khích tự do hóa thương mại được tham gia bởi rất nhiều nước phát triển
lại có điều khoản về bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ, đây chính là bằng chứng rõ
ràng và thực tế nhất cho thấy tính cần thiết để bảo hộ ngành công nghiệp có tiềm năng

17


nhưng cần thời gian phát triển của một nước, không kể là nước phát triển hay đang
phát triển.
2.2.4. Phương pháp đánh giá chính sách của ngành công nghiệp ô tô.
2.2.4.1. Hệ số bảo hộ thực tế.
Tỷ lệ bảo hộ hiệu quả (Effective rate of protection – ERP) cho biết mức độ bảo hộ
thực tế của thuế quan đối với sản xuất trong nước. ERP là tỷ lệ % mà hàng rào thương
mại của một nước làm tăng giá trị gia tăng cho một đơn vị đầu
ra. Nói một cách khác, tỷ lệ bảo hộ hiệu quả cho biết “giá trị tăng thêm “ mà ngành
công nghiệp cạnh tranh trong nước sản xuất ra khi có thuế quan nhập khẩu so với tự do
thương mại.
Công thức:
Trong đó:



Vi’ là giá trị gia tăng trong ngành i khi có áp dụng thuế quan
Vi là giá trị giá tăng khi buôn bán tự do (trước khi đánh thuế).




ERP còn có thể tính bằng công thức sau:
(1.1)

Trong đó: ti là mức thuế quan đối với sản phẩm hoàn thiện; t j là mức thuế quan đối với
sản phẩm trung gian j; aij là tỷ lệ thể hiện sự tham gia của j trong việc sản xuất một đơn
vị sản phẩm i
Công thức 1.1 cho thấy, hệ số bảo hộ hiệu quả được xác định bởi các mức thuế
quan và phần giá trị gia tăng trong tổng đầu ra. Nếu thuế quan là như nhau đánh vào cả
đầu vào và đầu ra thì ERP bằng mức thuế quan danh nghĩa. Nhưng thuế thuế quan đầu
ra cao hơn thuế quan đầu vào, khi đó khoảng cách thuế càng mở rộng thì chỉ số ERP
càng lớn. Khoảng cách giữa thuế quan đầu vào và đầu ra càng lớn thì phần giá trị gia
tăng trong giá sản phẩm cuối cùng càng nhỏ.

18


EPR có thể âm, điều đó có nghĩa là thuế quan đối với nguyên liệu được xem là cao
hơn thuế quan đánh vào hàng hóa hoàn thiện. Trong trường hợp này, thuế quan được
xem có vai trò tác động điều chỉnh các yếu tố của việc sản xuất ngoài phạm vi của
ngành hơn là thu hút các nguồn lực khác. Tuy vậy, cơ cấu thuế quan có dạng hình tháp,
thuế thấp hoặc bằng 0 đối với nguyên liệu gốc, cao hơn đối với sản phẩm trung gian,
cao nhất đối với thành phẩm. Nên hệ số bảo hộ hiệu quả thường cao hơn thuế quan
danh nghĩa. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, hệ số bảo hộ thực tế có thể thấp hơn
thuế quan danh nghĩa nếu như nhà sản xuất nội địa phải mua yếu tố đầu vào cao hơn
mức giá cả thế giới.
2.2.4.2. Phương pháp định lượng chi phí và lợi ích của việc bảo hộ.
Mô hình đánh giá định lượng chính sách bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ của

Tran Lam Anh Duong (Tran Lam Anh Duong, 2011, The optimal dynamic infant
industry protection in joining a free trade agreement)
Giả thiết:
Hàng hóa trong nước và hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu là thay thế cho
nhau nhưng không phải thay thế hoàn hảo.
Thuế nhập khẩu là biện pháp duy nhất được nhà nước sử dụng để bảo hộ ngành
công nghiệp non trẻ. Nói cách khác, đây là mô hình đánh giá tác động của biện pháp
bảo hộ bằng thuế quan nhập khẩu tới sản xuất trong nước. Đông thời, thuế nhập khẩu
được giả định là không thể duy trì lâu dài, nó sẽ được giảm sau một thời gian.
Công nghệ là không đổi theo thời gian.
Hàm “học tập”
Cầu trong nước và hàm lợi ích.
Phúc lợi quốc gia và chính sách.
Tính toán phân tích.
Đánh giá chính sách.

19


2.3. Khái quát về ngành công nghiệp ô tô và các chính sách bảo hộ ngành công
nghiệp ô tô
2.3.1. Khái quát về ngành công nghiệp ô tô
Ngành công nghiệp ô tô đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia vì nó không những đáp ứng nhu cầu đi lại của con người, vận chuyển hàng hóa
mà còn tạo động lực phát triển kinh tế. Ngành công nghiệp ô tô đóng góp vào khoảng
10% GDP của Nhật Bản mỗi năm, còn tại Hoa Kỳ là 14.5% và tạo ra hơn 2 triệu việc làm.
Bên cạnh đó, ngành công nghiệp ô tô được coi là xương sống của nền kinh tế vì mối liên
hệ chặt chẽ với các ngành khác như: cao su, kim loại, hóa chất, điện tử … Vì vậy, việc
phát triển ngành công nghiệp ô tô là động lực quan trọng và mạnh mẽ thúc đẩy các lĩnh
vực liên quan phát triển.

Hiện nay, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mỗi năm đóng góp trung bình khoảng 3%
vào GDP, trong khi tỷ lệ đóng góp ngành này tại các nước khu vực Đông Nam Á là 10%.
Ngành công nghiệp ô tô cũng đóng góp vào ngân sách Nhà nước 1 tỷ USD mỗi năm (chỉ
tính riêng các khoản thuế) và giải quyết việc làm cho 80.000 người lao động.
2.3.2. Chính sách bảo hộ ngành công nghiệp ô tô
Với một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, thì đối tượng bảo hộ là các
ngành sản xuất quan trọng, tuy còn non trẻ nhưng có khả năng phát triển trong tương lai.
Vì vậy, nếu không có biện pháp bảo hộ đúng đắn thì những ngành này sẽ không thể tồn
tại được trước những cạnh tranh gay gắt của hàng nhập khẩu.
Các biện pháp của chính sách bảo hộ hay được nhắc đến là thuế quan và các biện pháp
phi thuế quan. Tuy nhiên, xét theo bản chất của chính sách bảo hộ không chỉ hạn chế nhập
khẩu mà còn khuyến khích phát triển nền sản xuất trong nước, vì vậy có thể chia công cụ
của chính sách bảo hộ thành 2 nhóm: Công cụ bảo hộ nhập khẩu và Công cụ khuyến
khích nền sản xuất nội địa.
Tùy vào từng nước, từng giai đoạn hoàn cảnh cụ thể mà chính phủ có thể sử dụng linh
hoạt các biện pháp khác nhau nhằm đạt được các mục tiêu nhất định.
20


2.3.2.1. Công cụ bảo hộ nhập khẩu
Thuế quan nhập khẩu là loại thuế gián thu, thực hiện trên các mặt hàng được phép
nhập khẩu vào lãnh thổ của một nước. Thuế quan nhập khẩu có thể đánh vào thành phẩm
hoặc đầu vào nhập khẩu (nguyên vật liệu và bán thành phẩm). Các ba loại thuế quan nhập
khẩu
Thuế cố định: là một loại thuế nhập khẩu quy định, một lượng tiền thuế cố định tính
trên một đơn vị hàng hóa nhập khẩu. Tổng tiền bị đánh thuế đối với hàng hóa nhập khẩu
tương ứng với số lượng đơn vị hàng hóa đưa vào quốc gia nhập khẩu và không tính theo
giá cả hoặc giá trị của hàng hóa nhập khẩu.
• Ưu điểm: cơ quan thuế có thể dễ dàng thu thuế vì họ chỉ cần biết số lượng hàng
hóa nhập khẩu vào một quốc gia mà không cần quan tâm đến việc quy đổi giá trị



cho chúng. Ngăn chặn hiện tượng làm hóa đơn giả, định giá nôi doanh nghiệp.
Nhược điểm: Gây trở ngại lớn trong việc bảo hộ các nhà sản xuất trong nước do
giá trị bảo hộ tỷ lệ nghịch với giá của hàng nhập khẩu, đặc biệt trong điều kiện

lạm phát, hay thay đổi trong tỷ giá làm giảm giá đồng tiền trong nước.
Thuế quan tính theo giá trị: được tính theo tỷ lệ % so với giá trị hàng hóa nhập khẩu.
• Ưu điểm: có thể bảo hộ các nhà sản xuất trong nước tốt hơn thuế quan cố định
do nó gắn với giá trị hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp nên không bị xói
mòn bởi lạm phát. Bên cạnh đó, thuế quan tính theo giá trị còn mang tính linh
hoạt, dễ điều chỉnh, dễ hài hòa khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế.
• Nhược điểm: dễ nảy sinh và khó kiểm soát nạn khai man giá trị tính thuế, gian
lận thương mại.
Thuế quan hỗn hợp: là loại thuế quan vừa tính theo tỷ lệ % so với giá trị hàng hóa, vừa
thu một khoản tuyệt đối trên một đơn vị hàng hóa xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, chính phủ còn sử dụng các biện pháp phi thuế quan như: cấm nhập khẩu, hạn
ngạch nhập khẩu và các hàng rào kỹ thuật,…
2.3.2.2. Công cụ khuyến khích nền sản xuất nội địa
Sử dụng nguyên liệu nội địa trong sản xuất của các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước
đưa ra các quy định về thành phần sản phẩm có nguồn gốc nội địa để giúp bảo vệ các nhà
sản xuất nội địa.
21


Tuy nhiên, nhược điểm của chính sách này là làm tăng chi phí do hàng hóa không
được kết thúc quá trình sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất. Điều này có thể khiến các
nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi quyết định đầu tư tại một nước trong khi các ngành công
nghiệp non trẻ rất cần hấp thụ nhanh chóng công nghệ từ các nhà đầu tư nước ngoài để
nâng cao năng lực sản xuất và giảm dần chi phí.

2.4. Kinh nghiệm quốc tế
Thực tế, chính sách bảo hộ ngành non trẻ đã được nhiều quốc gia áp dụng thành công
như Mỹ, Nhật Bản,… Trong đó, Malaysia và Ấn Độ được nhắc đến như hình mẫu của sự
bảo hộ thành công ngành công nghiệp ô tô. Người nghiên cứu đặc biệt tìm hiểu kinh
nghiệm xây dựng ngành công nghiệp ô tô của hai nước này bởi những tương đồng trong
khu vực và văn hóa, cũng như khoảng cách kinh tế không chênh lệch giữa Việt Nam và
hai nước này.
2.4.1. Malaysia
Tại khu vực Đông Nam Á, công nghiệp ô tô Malaysia chỉ đứng sau Thái Lan.
Malaysia có 18 nhà máy ô tô đang hoạt động, 550 nhà máy linh kiện ô tô, mỗi năm sản
xuất khoảng 800.000 xe. Ngành ô tô tạo công ăn việc làm cho 550.000 lao động, đóng
góp 3,4% vào GDP.
Giai đoạn 1: Thực hiện bảo hộ băng chính sách hạn chế nhập khẩu (1960 - 1992)
Chính phủ Malaysia bắt đầu chú ý đến ngành công nghiệp ô tô từ những năm 1960,
thông qua việc cấp phép cho một số nhà máy lắp ráp. Tính đến năm 1967 có 6 nhà máy
lắp ráp ô tô được cấp phép.
Sang thập niên 70, việc nhập khẩu xe nguyên chiếc (CBU) bị hạn chế do quy định
phải có giấy phép nhập khẩu và mỗi địa phương có quyền thêm vào một số điều kiện để
cấp phép. Năm 1980, Chính phủ đưa ra chính sách cấm nhập khẩu một số linh kiện để lắp
ráp ô tô trong nước, gọi tắt là chính sách MDI.
Nỗ lực này nhằm khuyến khích sự phát triển nội địa hóa và hướng tới việc sản xuất
chiếc ô tô “made in Malaysia” 100%. Để hiện thực hóa“giấc mơ” này, chính phủ
22


Malaysia thông qua Dự án ô tô quốc gia (NCP) năm 1982, dẫn đến sự ra đời của Công ty
Proton năm 1983. Khi mới ra đời, Proton liên doanh với Mitsubishi của Nhật Bản để được
hỗ trợ về công nghệ, nhưng về sau đã hủy liên doanh để hướng đến việc sản xuất chiếc xe
nội địa 100%.
Chính sách MDI phát triển thêm một bước vào năm 1992 bằng việc giao quyền

cho chính quyền địa phương quyết định danh sách các linh kiện cấm nhập khẩu vào địa
phương mình. Năm 1992 cũng đánh dấu sự ra đời của Dự án ô tô quốc gia lần 2, mở
đường cho việc thành lập Công ty Perodua, công ty ô tô lớn thứ hai Malaysia hiện nay.
Giai đoạn 2: Thực hiện tự do hóa thương mại ngành công nghiệp ô tô (1993 - nay)
Năm 1993, Hiệp định thương mại tự do ASEAN được đề xướng khiến Malaysia và
các nước trong khu vực chịu sức ép tự do hóa thị trường nội địa. Đến cuối năm 2003,
chính sách MDI hoàn toàn bị xóa bỏ do bị chỉ trích đi ngược lại khuynh hướng tự do
thương mại.
Năm 2006, Malaysia triển khai Chính sách Ô tô quốc gia (NAP) với 3 mục tiêu
chính là phát triển công nghiệp ô tô nội địa; thu hút nhà đầu tư nước ngoài; xuất khẩu ra
toàn cầu. Đến nay, Malaysia tiếp tục thực hiện chính sách tự do hóa thương mại trong
ngành công nghiệp ô tô và đạt được nhiều thành tựu.

2.4.2. Ấn Độ
Ấn Độ là nhà sản xuất ô tô khách lớn thứ ba ở châu Á và là nơi có ngành công nghiệp
ô tô phát triển nhanh thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Ấn Độ đã sản xuất được hơn
10 triệu ô tô,đến nay nước này có 3.695 nhà máy sản xuất ô tô và linh kiện.
Giai đoạn 1: Bảo hộ và điều tiết (1948 – 1979)
Để bảo vệ các nhà lắp ráp trong nước, năm 1948 chính phủ Ấn Độ quyết định nâng
hàng rào thuế quan đối với các loại xe nhập nguyên chiếc (CBU) và được duy trì cho đến
nay. Trong Nghị quyết chính sách công nghiệp (IPR) đưa ra năm 1948, chính phủ nhìn
nhận vai trò chiến lược của ngành công nghiệp ô tô và đưa nó vào phạm vi quản lý của
các luật định.
23


Hệ thống cấp phép (IDRA) được hoàn thiện năm 1951 trên tinh thần đưa vào
khuôn khổ quản lý một số ngành công nghiệp quan trọng, trong đó có công nghiệp ô tô.
Theo đó, các công ty ô tô buộc phải xin phép Chính phủ khi muốn gia nhập thị trường, đa
dạng hóa sản phẩm, mở rộng công suất, hợp tác với nước ngoài, nhập khẩu máy móc và

linh kiện…
Giấy phép được cấp phù hợp với mục tiêu phát triển. Với việc cấp phép chặt chẽ,
Chính phủ giữ hoạt động cạnh tranh trong phạm vi ít công ty hơn, tránh được nguy cơ
phân tán của ngành công nghiệp còn non trẻ, từ đó hạn chế những hoạt động sản xuất phi
kinh tế. Tuy nhiên, hạn chế của chính sách này là làm giảm cạnh tranh, khiến các công ty
không chú trọng nghiên cứu phát triển, kéo theo thị trường chậm phát triển.
Năm 1953, Chính phủ áp đặt yêu cầu sản xuất tiến bộ đối với các nhà máy lắp ráp,
với mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Chính sách này đã có tác động mạnh mẽ lên sự
phát triển của ngành công nghiệp ô tô, đầu tiên là sự rút lui của các nhà lắp ráp nước
ngoài. Chính phủ dần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa từ 50% lên 80%.
Vì công nghệ trong nước thấp nên tỷ lệ nội địa hóa cao đã kéo theo việc tăng giá
thành ô tô. Giá cao trong khi GDP đầu người thấp đã có tác động xấu nhu cầu tiêu thụ ô
tô Ấn Độ. Để giải quyết vấn đề này, năm 1960 Chính phủ Ấn Độ triển khai chính sách
khuyến khích ngành công nghiệp hỗ trợ. Điều này khởi đầu cho sự phát triển của ngành
công nghiệp linh kiện ô tô riêng biệt ở Ấn Độ.
Đến đầu những năm 1960, việc cộng tác với nước ngoài rất phổ biến, dẫn đến
những chỉ trích cho rằng ngành ô tô trong nước quá phụ thuộc vào vốn và công nghệ nước
ngoài. Vì vậy, năm 1968 Ấn Độ triển khai một số chính sách để hạn chế tình trạng này.
Nhìn chung, trong giai đoạn 1948-1979, các chính sách bảo hộ, nội địa hóa và
kiểm soát chặt chẽ đã giúp ngành công nghiệp ô tô Ấn Độ có tỷ lệ nội địa hóa cao. Tuy
nhiên, việc kiểm soát quá chặt sự tham gia của nước ngoài đã kìm hãm sự phát triển của
ngành ô tô trong nước. Thêm vào đó, sự bảo hộ của nhà nước đã mang lại thế độc quyền
cho các công ty trong nước, làm méo mó thị trường, không khuyến khích nghiên cứu và
phát triển để cải thiện chất lượng, nâng cấp sản phẩm.
24


Giai đoạn 2: Tự do hóa (1980 - nay)
Nhận thấy những hạn chế này, đầu những năm 1980 Chính phủ Ấn Độ quyết định
triển khai chính sách thúc đẩy công nghệ tiết kiệm nhiên liệu và gia tăng cạnh tranh, gọi

chung là “Chương trình hiện đại hóa công nghiệp ô tô”, với nội dung nới lỏng các quy
định về gia nhập thị trường, hợp tác với nước ngoài và nhập khẩu công nghệ, máy móc.
Từ năm 1991, Ấn Độ tiến hành nhiều thay đổi chính sách, được gọi chung là “tự
do hóa kinh tế”. Theo đó chính phủ bỏ các biện pháp kiểm soát, nhường vai trò trung tâm
cho các lực lượng thị trường quyết định các hoạt động kinh tế; đồng thời triển khai những
biện pháp tự do hóa thương mại và đầu tư như: giảm/bỏ chế độ cấp phép; các dự án từ
51% vốn FDI trở xuống được cấp phép tự động; nới lỏng kiểm soát nhập khẩu đối với các
mặt hàng nhạy cảm và bỏ các quy định của địa phương.
Nối tiếp các chính sách tự do hóa, Chính phủ đưa ra Chính sách Ô tô, trong đó nổi
bật là việc cấp phép tự động cho các dự án 100% vốn FDI. Điều này đã dẫn đến sự gia
nhập thị trường của nhiều tập đoàn xe hơi nước ngoài, trong đó có BMW và Volkswagen.
Hơn nữa, các chính sách khuyến khích nghiên cứu và phát triển đã thu các công ty nước
ngoài thành lập trung tâm nghiên cứu và phát triển ở Ấn Độ.

25


×