Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bộ đội BIÊN PHÒNG TỈNH THANH hóa vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG THAM GIA QUẢN lý, bảo vệ CHỦ QUYỀN AN NINH BIÊN GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.15 KB, 78 trang )

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và an ninh biên giới (ANBG) quốc
gia là công việc quan trọng hàng đầu của mọi quốc gia dân tộc trên thế giới.
Đối với Việt Nam, đấu tranh để bảo vệ biên giới quốc gia (BGQG), giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc vừa là truyền thống, vừa là
quy luật trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện
chiến lược “diễn biến hoà bình”, kết hợp bạo loạn lật đổ, chống phá cách mạng
Việt Nam, trong đó chúng rất chú trọng tới địa bàn khu vực biên giới (KVBG).
Đặc biệt, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, tập trung vào đồng bào các dân tộc
ở KVBG để kích động, lôi kéo, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn
định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên các tuyến biên giới.
Khu vực biên giới đất liền tỉnh Thanh Hoá là địa bàn chiến lư ợc có
tầm quan trọng về kinh tế - xã hội (KT-XH), quốc phòng - an ninh và đối
ngoại; là nơi cư trú chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, là khu
vực nhạy cảm về chính trị, an ninh trật tự (ANTT), luôn tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định.
Những năm qua, Đảng uỷ, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BĐBP)
tỉnh Thanh Hoá nhận thức rõ vị trí, vai trò của quần chúng nhân dân
(QCND) và tầm quan trọng của công tác vận động quần chúng (VĐQC)
tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG. Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh
Hoá đã tiến hành triển khai tích cực công tác VĐQC và tham mưu cho cấp
uỷ đảng, chính quyền địa phương phát động phong trào quần chúng tự quản
đường biên, cột mốc, giữ gìn ANTT; củng cố hệ thống chính trị (HTCT) cơ
sở; tham gia phát triển (KT-XH) ở KVBG… Bước đầu, các phong trào này


4



đã mang lại kết quả thiết thực, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền,
ANBG quốc gia. Tuy nhiên, công tác VĐQC vẫn còn có những hạn chế
nhất định cả trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện, trực tiếp ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả công tác VĐQC cũng như việc phát huy vai trò của
nhân dân các dân tộc ở KVBG trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ quyền,
ANBG quốc gia.
Công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG là vấn đề
khoa học đã và đang được đề cập, nghiên cứu ở các góc độ và phạm vi, địa
bàn khác nhau; tuy nhiên, hiện chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và toàn diện về công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền, ANBG của BĐBP tỉnh Thanh Hoá dưới góc độ khoa học Biên phòng.
Vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hoá
vận động quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới” có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, trước mắt và lâu dài.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác VĐQC,
luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia
quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG của BĐBP tỉnh Thanh Hoá.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác VĐQC tham gia quản lý,
bảo vệ chủ quyền, ANBG của BĐBP.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác VĐQC tham gia quản lý,
bảo vệ chủ quyền, ANBG của BĐBP tỉnh Thanh Hoá.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia
quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG của BĐBP tỉnh Thanh Hoá.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


5


- Đối tượng nghiên cứu:
Công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG của
BĐBP.
- Phạm vi nghiên cứu:
Công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Thanh Hoá tham gia quản lý, bảo vệ
chủ quyền, ANBG ở KVBG đất liền từ năm 2004 đến 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác quần chúng và VĐQC.
Quá trình nghiên cứu đề tài, sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Phân tích và tổng hợp, lô gíc và lịch sử, tổng kết thực tiễn, điều
tra khảo sát thực tế, so sánh và phương pháp chuyên gia.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn cấu trúc gồm: Mở đầu, 3 chương, kết luận, kiến nghị, tài liệu
tham khảo và các phụ lục.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
THAM GIA QUẢN LÝ, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1. Quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới
Quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG là tổ chức, điều khiển hoạt động của
các lực lượng đứng chân trên KVBG lấy BĐBP làm nòng cốt, nhằm quản lý,

giữ gìn, bảo vệ và chống lại mọi sự xâm phạm chủ quyền, ANBG quốc gia và
bảo vệ quyền tối cao của Nhà nước đối với mọi vấn đề trong phạm vi lãnh thổ
KVBG, duy trì, giữ gìn đường BGQG trên đất liền, trên biển (giữ gìn cột mốc
biên giới, dấu hiệu đường biên giới, các công trình có liên quan đến an ninh
BGQG…), giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội ở KVBG.
Quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG là một nhiệm vụ vừa có tính chất đối
nội, vừa có tính chất đối ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, trong đó lực lượng BĐBP là lực lượng chuyên trách, nòng cốt. Quản lý,
bảo vệ chủ quyền, ANBG phải tuân thủ theo luật pháp quốc tế, pháp luật của
Nhà nước Việt Nam; hệ thống điều lệnh, điều lệ quy định.


7

Nội dung của quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG ở nước ta hiện nay
được thể hiện một cách toàn diện trên các mặt: Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tài
nguyên, môi sinh, môi trường trên KVBG; chống lại sự xâm phạm của các
đối tượng hoạt động dưới mọi hình thức nhằm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, tài
nguyên môi trường; bảo vệ tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể
khác ở các xã biên giới. Đảm bảo sự trong sạch vững mạnh; giữ vững sự ổn
định về chính trị, tinh thần trong nhân dân, không để xảy ra gây rối, bạo loạn
lật đổ, bảo vệ sự yên ổn, lành mạnh của hệ thống các quan hệ xã hội ở
KVBG; giữ gìn đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng các
dân tộc, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đảm bảo cho mọi công dân
có cuộc sống yên ấm, các lợi ích chính đáng được đảm bảo không bị xâm hại;
bảo vệ các cơ sở kinh tế, văn hoá ở KVBG để giữ vững sự ổn định và phát
triển; bảo vệ và giữ gìn mối quan hệ hữu nghị thân thiện giữa hai Nhà nước,
giữa chính quyền và nhân dân hai bên biên giới, góp phần tạo môi trường hoà
bình, ổn định cho đất nước để xây dựng và phát triển.
1.1.2. Vận động quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, an

ninh biên giới
- Vận động, nói “vận động” là nói tới hoạt động: “Tuyên truyền, giải
thích, động viên, làm cho người khác tự nguyện làm việc gì, thường là theo
một phong trào nào đó” [34, tr.1105]. Nội hàm khái niệm “vận động” bao
gồm cả hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và hoạt động tổ chức, hướng dẫn
người khác hành động.


8

Như vậy, “vận động” là hoạt động của chủ thể tác động vào khách thể,
làm chuyển biến khách thể, thông qua các hoạt động tuyên truyền giáo dục,
nâng cao trình độ giác ngộ; tổ chức, hướng dẫn khách thể hành động để thực
hiện mục đích đã xác định.
- Vận động quần chúng, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân không để sót một
người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hiện những việc nên
làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao cho” [26].
Đây là cách định nghĩa hết sức cụ thể, sâu sắc của Người về công tác
VĐQC của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã xác định nội dung cốt lõi
của công tác này là công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, giác ngộ
quần chúng, tập hợp lực lượng cách mạng, tổ chức lực lượng quần chúng để
thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Tuy nhiên, tuỳ từng điều kiện
và đối tượng cụ thể mà công tác VĐQC được Người lựa chọn bằng tên gọi
khác nhau: công tác vận động nhân dân, dân vận... Tên gọi dân vận đồng nhất
với VĐQC cũng như vận động nhân dân và được sử dụng rộng rãi.
Như vậy, VĐQC là việc tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn
quần chúng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng thực hiện
những mục tiêu, nhiệm vụ nhất định.
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn công tác VĐQC có thể

hiểu: Công tác VĐQC là hoạt động lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng mối liên
hệ mật thiết với quần chúng; thông qua tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tập
hợp tổ chức, hướng dẫn quần chúng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.
Công tác VĐQC của Đảng được tiến hành trực tiếp thông qua hệ thống tổ
chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các cấp, ở từng địa phương, từng cơ
sở. Mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên ở cơ sở vừa tuyên truyền, vừa xây
dựng, hướng dẫn, tổ chức quần chúng hoạt động cách mạng. Quần chúng nhận


9

ra Đảng không phải là một tổ chức trừu tượng, mà bằng chính những con người
luôn gắn bó, chăm lo cuộc sống cho họ. Từ đó, quần chúng giác ngộ cách mạng,
tin và làm theo chỉ dẫn của Đảng.
Như vậy, từ những vấn đề trên có thể hiểu: Công tác VĐQC tham gia
quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG của BĐBP là tổng hợp các hoạt động có tổ
chức, có kế hoạch của BĐBP phối hợp với cấp uỷ, chính quyền, các lực lượng
để tuyên truyền, vận động, tập hợp, tổ chức, hướng dẫn quần chúng tham gia
quản lý, giữ gìn, bảo vệ và chống lại mọi sự xâm phạm chủ quyền lãnh thổ,
BGQG và ANTT ở KVBG.
Với quan niệm trên, VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG
là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, các ngành, đoàn
thể và các lực lượng ở KVBG, trong đó BĐBP là lực lượng trực tiếp tham gia
và giữ vai trò quan trọng. Để hoàn thành trọng trách đó, BĐBP phải chủ động
phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương và các lực lượng tiến hành đồng
bộ các hoạt động: Tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, huấn luyện, hướng dẫn
quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG. Cơ sở tiến hành là
dựa vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch của các bộ, ngành, của địa phương
và của cấp trên có liên quan.

Công tác VĐQC được tiến hành thường xuyên với những nội dung
được xác định trong quyết tâm, kế hoạch BVBG của chỉ huy các cấp BĐBP.
Tiến hành công tác VĐQC nhằm tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh
giác cách mạng cho QCND, làm cho nhân dân tin tưởng và thực hiện tốt
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Đồng


10

thời, xây dựng phong trào cách mạng tự giác trong quần chúng, làm cho quần
chúng hiểu và tự giác tham gia bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia.
1.2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG VÀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG

Thấm nhuần nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quần chúng và
vai trò của quần chúng, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam; đồng thời, kế thừa tư duy chính trị, truyền thống dựng nước
và giữ nước của ông, cha: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, “Dễ
trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” [29, tr.212],
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và đặt đúng vai trò của QCND
trong tiến trình cách mạng, cũng như đối với sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ
quyền, ANBG. Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, đấu tranh cho quyền lợi của
nhân dân là nguyên tắc tối cao, xuyên suốt trong tư duy, chiến lược và hoạt
động thực tiễn của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”; “Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu
thắng lợi trên nền nhân dân” [27, tr.77, 79]. Khẳng định vai trò sức mạnh to
lớn của quần chúng, đồng thời Người chỉ rõ ý nghĩa chiến lược của khối
đoàn kết toàn dân tộc là: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,
thành công, đại thành công.
Muốn phát huy vai trò to lớn của quần chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn

nhắc nhở: “Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém
thì việc gì cũng khó, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [28, tr.208];
Người còn nói: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả các hội viên của các tổ chức
nhân dân (Liên Việt, Việt Minh…) đều phải phụ trách dân vận” [29, tr.699].
Đối với lực lượng BĐBP (trước đây là Công an nhân dân vũ trang) được Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho những tình cảm đặc biệt, nhất là những
lời dạy bảo vô cùng quý báu về công tác dân vận. Trong ngày thành lập lực


11

lượng, Người đã huấn thị: “Công an và Bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn
áp kẻ địch bên trong và bên ngoài… là nhiệm vụ mà Quân đội và Công an
phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành được tốt… Khi tổ chức được dân thì
việc gì cũng làm được” [28, tr.381]. Người luôn quan tâm, nhắc nhở cán bộ,
chiến sĩ (CBCS) Biên phòng phải tin tưởng vào sức mạnh, trí sáng tạo của
nhân dân, phải gắn bó với các dân tộc ở KVBG để làm tốt công tác biên
phòng. Bác nói: “Chúng ta phải dựa vào dân. Nhất là Công an Biên phòng ở
những nơi đồng bào thiểu số, phải chú ý đến phong tục tập quán của đồng
bào, luôn giúp đỡ, giáo dục đồng bào, làm cho đồng bào tin yêu, phục cán bộ
thì đồng bào mới hết sức giúp đỡ, có khi hy sinh cả cho ta” [29, tr.404].
Trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vai trò quần chúng và công tác VĐQC, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định vai trò của quần chúng đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam; điều đó được thể hiện rõ trong Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI), ngày
27/3/1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối liên
hệ giữa Đảng với nhân dân” xác định: “Cách mạng là sự nghiệp của dân,
do dân và vì dân”.
Đảng ta thấy rõ được vai trò to lớn của quần chúng và luôn xác định sự
nghiệp cách mạng của Đảng là sự nghiệp của nhân dân. Đảng tin vào tài năng,

trí sáng tạo của nhân dân, nên không chỉ dựa vào dân trong quá trình tổ chức
thực hiện chủ trương, chính sách mà ngay cả trong việc chuẩn bị xây dựng
chủ trương, chính sách đến quá trình kiểm tra, giám sát, sửa đổi, bổ sung
chính sách, Đảng luôn lấy ý kiến xây dựng của nhân dân.
Quan điểm của Đảng khẳng định vai trò của QCND trong sự nghiệp cách
mạng, đồng thời xác định mục đích sự nghiệp cách mạng của Đảng là đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Xuất phát từ vai trò to lớn của quần
chúng trong lịch sử và trong sự nghiệp cách mạng của Đảng; sự nghiệp cách


12

mạng muốn thành công phải biết dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh của nhân
dân. Đánh giá đúng vai trò của QCND, thường xuyên phải phát huy hết khả năng
to lớn của các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
xác định: Trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để cho
nhân dân ngày càng tin yêu Đảng và sẵn sàng đi theo Đảng. Đảng đã huy động
được đông đảo QCND tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đánh giá vai trò của quần chúng trong thời kỳ đổi mới, Báo cáo chính
trị tại Đại hội IX của Đảng đã khẳng định:
Nhân dân tích cực thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực, tạo ra nhiều
điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay và nhân tố mới. Từ đó, Đảng có
cơ sở để tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận, đẩy mạnh công cuộc
đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Để công cuộc đổi mới thành công phải động viên được mọi tầng
lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia [2, tr.82].
Báo cáo Chính trị tại Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định vai trò to
lớn của QCND, cũng như phải phát huy vai trò, sức mạnh của QCND vào sự

nghiệp đổi mới, phát triển toàn diện đất nước, cụ thể là:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân.
Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò
quan trọng trong hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn,
phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển đó là
chìa khóa của thành công [3, tr.71].
Thấy rõ được vai trò to lớn của quần chúng đối với sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, nên Đảng ta luôn xác định công tác VĐQC là công việc hàng đầu; là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.


13

Công tác VĐQC của Đảng muốn thành công, trước hết phải biết tập hợp
QCND; đồng thời phải thấy rõ được động lực thúc đẩy phong trào quần chúng
là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống
nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân.
Đảng liên hệ với QCND không chỉ qua đường lối, chính sách mà còn
qua các tổ chức quần chúng. Các tổ chức quần chúng là sự kết hợp lợi ích của
mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Đảng quan hệ, gắn bó được quần
chúng phải thông qua các tổ chức quần chúng. Quần chúng muốn thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng phải hoạt động trong các tổ chức mới phát
huy được sức mạnh. Các tổ chức quần chúng là cầu nối liền giữa Đảng với
quần chúng. Đồng thời, xuất phát từ vai trò quan trọng của công tác quần
chúng của Đảng. Đảng ta luôn xác định công tác quần chúng là nhiệm vụ
chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của mình.
Để làm tốt công tác VĐQC Đảng ta xác định phải kết hợp chặt chẽ và giải
quyết tốt hai vấn đề là: Động viên, tổ chức quần chúng thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với chăm lo lợi ích của quần chúng,

kết hợp hài hoà các lợi ích. Đây là quan điểm được dựa trên cơ sở nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin và mục tiêu lý tưởng của Đảng, bản chất của chủ nghĩa
xã hội. Mục tiêu lý tưởng của Đảng là đem lại lợi ích cho quần chúng, lợi ích của
quần chúng cũng chính là lợi ích của Đảng. Mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng.
Công tác VĐQC được tiến hành bằng sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị theo cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”, được thể hiện: Thường xuyên nắm chắc tình hình tâm tư và đời sống
của các tầng lớp quần chúng, kịp thời giải quyết những vấn đề quần chúng đặt
ra bằng các chủ trương, chính sách cụ thể, động viên đảng viên tham gia công
tác đoàn thể, công tác xã hội ở nơi công tác và nơi cư trú. Phân công cán bộ
của Đảng làm công tác quần chúng. Thực hiện chế độ kiểm tra, chỉ đạo các cơ


14

quan chính quyền, đoàn thể để quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương,
chính sách của Đảng về công tác quần chúng.
Công tác VĐQC có tầm quan trọng hết sức to lớn trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Công tác VĐQC là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, các cơ
quan, đoàn thể và mọi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, cán bộ, chiến sĩ BĐBP phải
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vai trò của quần chúng và công tác
VĐQC nói chung, VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia
nói riêng, để tham gia tích cực vào công tác VĐQC bảo vệ vững chắc chủ quyền,
ANBG.
Bộ đội Biên phòng vận dụng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
vào công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia
Bộ đội Biên phòng luôn xác định vai trò to lớn của nhân dân các dân tộc
nơi biên giới trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia được thể hiện:

quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG là sự nghiệp của QCND ở KVBG. Ngoài lực
lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, BVBG là BĐBP, lực lượng tham gia chủ
yếu BVBG là QCND ở KVBG. Huy động lực lượng quần chúng tham gia quản
lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG là vấn đề có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Do đó,
phát huy sức mạnh tại chỗ của QCND, các cơ quan, ban ngành ở KVBG vào
quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG, công tác VĐQC phải thấy rõ và khẳng
định được vai trò to lớn của QCND trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền,
ANBG.
Thực tế những năm qua, thấy được vai trò to lớn của QCND các dân
tộc ở KVBG trong sự nghiệp xây dựng và BVBG. Bộ đội Biên phòng đã
thường xuyên làm tốt công tác VĐQC, huy động được sức mạnh to lớn của
nhân dân trong tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia, được
thể hiện bằng những việc làm cụ thể như: Tham gia tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao giác ngộ chính trị, cảnh giác cách mạng cho quần chúng; tích cực


15

tham gia xây dựng, củng cố các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức
quần chúng ở KVBG vững mạnh, phát huy vai trò của từng tổ chức nhằm
tuyên truyền, vận động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng tham gia quản lý, bảo
vệ chủ quyền, ANBG, phối hợp, hiệp đồng với các cơ quan, ban, ngành các
lực lượng ở KVBG; vận động quần chúng tham gia phát triển KT-XH ở
KVBG góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây
dựng KVBG ngày càng vững mạnh.
1.3. CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG THAM GIA QUẢN LÝ, BẢO
VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH BIÊN GIỚI CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG

1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ của Bộ đội Biên phòng
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Bộ

Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa VII) đã
ra Nghị quyết số 11/NQ-TW ngày 08/8/1995 về xây dựng BĐBP trong tình
hình mới, Nghị quyết xác định:
Bộ đội Biên phòng là một lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng
và Nhà nước, là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam
làm nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia theo nhiệm vụ và quyền hạn được giao, đồng thời là
một lực lượng thành viên của các khu vực phòng thủ tỉnh, huyện
biên giới [4].
Nghị quyết cũng xác định, một trong những nhiệm vụ cơ bản thường
xuyên của BĐBP là:
Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa vào quần chúng để thực hiện
nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền, vận động nhân dân vùng biên
giới tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và
chương trình kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước, tích cực xây


16

dựng cơ sở chính trị, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận
biên phòng toàn dân vững mạnh gắn với thế trận quốc phòng toàn
dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới [4].
Pháp lệnh BĐBP đã cụ thể hóa Nghị quyết số 11/NQ-TW của Bộ Chính
trị về nhiệm vụ của BĐBP. Tại Điều 10, Pháp lệnh nêu rõ:
Bộ đội Biên phòng có nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân
thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế,
xã hội, văn hóa, giáo dục, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế
trận biên phòng toàn dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân ở khu vực biên giới [33].

Tại Khoản 2, Điều 31, Luật biên giới quốc gia (2003) chỉ rõ chức năng,
nhiệm vụ của BĐBP: “Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng cốt, chuyên
trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân, các ngành hữu quan và
chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia,
giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của
pháp luật”.
Như vậy, với chức năng, nhiệm vụ của BĐBP trong tình hình mới mà
Nghị quyết số 11/NQ-TW và các văn bản pháp luật của Nhà nước đã xác định
trong quản lý, BVBG nói chung, nhiệm vụ công tác VĐQC, trong đó có VĐQC
tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG nói riêng là cơ sở quan trọng để
BĐBP quán triệt và tổ chức thực hiện; đồng thời, là cơ sở để xác định mục tiêu,
yêu cầu, nhiệm vụ công tác, xác định ý thức, trách nhiệm đối với CBCS và cơ
quan, đơn vị các cấp BĐBP, đảm bảo thực hiện thắng lợi công tác VĐQC tham
gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia.
1.3.2. Vị trí, vai trò, yêu cầu công tác vận động quần chúng của
Bộ đội Biên phòng


17

* Vị trí, vai trò công tác VĐQC
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của BĐBP là lực lượng
nòng cốt trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia. Trong suốt
50 năm qua BĐBP luôn vận dụng và thực hiện tốt 6 biện pháp công tác
biên phòng. Trong đó, biện pháp VĐQC là cơ sở, là nền tảng để thực
hiện các biện pháp công tác khác. Vị trí, vai trò quan trọng công tác
VĐQC của BĐBP được thể hiện ở những vấn đề sau:
Công tác VĐQC của BĐBP là nhiệm vụ chính trị thường xuyên; là nội
dung hoạt động công tác đảng, công tác chính trị nhằm xây dựng, củng cố
mối quan hệ máu thịt quân dân; là một biện pháp công tác cơ bản, làm cơ sở,

nền tảng để tiến hành các biện pháp công tác khác trong quản lý, bảo vệ chủ
quyền, ANBG quốc gia.
Công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc
gia của BĐBP góp phần củng cố mối quan hệ giữa quần chúng với Đảng và
Nhà nước, xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân vững chắc.
Công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia
của BĐBP góp phần xây dựng, củng cố HTCT cơ sở, phát triển KT-XH ở
KVBG vững mạnh, làm cơ sở xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận
biên phòng toàn dân, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh
nhân dân vững mạnh.
* Yêu cầu công tác VĐQC
Công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG muốn đạt
được hiệu quả cao cần phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:


18

Một là, công tác VĐQC thực hiện đúng đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất giữa
quyền lợi và nghĩa vụ của công dân
Công tác VĐQC của BĐBP lấy đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước làm nền tảng, tiến hành tuyên truyền, giáo dục, tổ chức,
hướng dẫn quần chúng, nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho
QCND, làm cho nhân dân tin tưởng và thực hiện tốt đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; kết hợp hài hoà các lợi ích,
thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ của công dân là quán triệt quan điểm
của Đảng: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa
vụ công dân”. Trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG, quyền lợi và nghĩa

vụ công dân luôn gắn chặt với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, khi tuyên
truyền, vận động cần phải hướng dẫn quần chúng nhận thức và hiểu đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình, phải quan tâm đến lợi ích thiết thực của QCND
ở KVBG.
Hai là, công tác VĐQC của BĐBP vừa là nhiệm vụ chính trị của lực
lượng, vừa kết hợp các yêu cầu về chính trị, pháp luật, nghiệp vụ và mang
tính thuyết phục
Công tác VĐQC của BĐBP là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, là nội
dung hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, dựa vào đường lối của Đảng,


19

chính sách, pháp luật của Nhà nước, vận dụng nghiệp vụ công tác VĐQC để
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tập hợp, tổ chức và hướng dẫn quần chúng
ở KVBG vào quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG, xây dựng địa phương vững
mạnh, chống lại hoạt động phá hoại của địch và các loại đối tượng.
Ba là, công tác VĐQC phải phát động được đông đảo QCND, các
ngành, các cấp, các đoàn thể xã hội cùng tham gia, tạo thành sức mạnh tổng
hợp tại chỗ xây dựng và BVBG
Xuất phát từ quan điểm của Đảng: “Các hình thức tập hợp nhân dân
phải đa dạng”; công tác VĐQC của BĐBP là một bộ phận công tác VĐQC
của Đảng. Công tác VĐQC của BĐBP muốn hoàn thành nhiệm vụ và liên hệ
được với quần chúng phải thông qua các tổ chức quần chúng; các tổ chức
quần chúng là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng. Vì vậy, BĐBP xác định
công tác VĐQC phải bằng nhiều hình thức đa dạng và phong phú, phù hợp
với từng đối tượng và tình hình thực tế thì mới tạo ra sức mạnh tổng hợp tại
chỗ vào sự nghiệp bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia.
Bốn là, công tác VĐQC phải quán triệt phương châm tích cực, chủ
động kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống

Công tác VĐQC của BĐBP là hoạt động tổng hợp với nhiều nội dung
như: Tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, tổ chức, hướng dẫn quần
chúng, nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho QCND, làm cho nhân
dân tin tưởng và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, xây dựng các phong trào ở địa phương vững mạnh,


20

chống lại hoạt động phá hoại của địch và các loại đối tượng. Vì vậy, phải tích
cực và chủ động trong xây dựng kế hoạch cũng như chuẩn bị các nội dung
phục vụ cho các hoạt động của công tác VĐQC; xây dựng các phong trào ở
địa phương vững mạnh, giúp dân phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, đảm bảo
các mặt an sinh xã hội để nhân dân tuyệt đối tin tưởng đi theo Đảng, chống lại
các hoạt động phá hoại của kẻ thù.
Năm là, kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục với
đem lại lợi ích cho đồng bào, gắn nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền,
ANBG với nhiệm vụ chính trị và các cuộc vận động cách mạng của địa phương trong từng thời kỳ
Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục với đem lại
lợi ích cho đồng bào là thực hiện quan điểm của Đảng. Muốn có phong trào
quần chúng phải kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt hai vấn đề là: Động viên,
tổ chức quần chúng thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước với chăm lo lợi ích của quần chúng, kết hợp hài hoà các lợi ích.
Trong quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG, quyền lợi và nghĩa vụ của đồng bào
ở KVBG luôn gắn chặt với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Công tác VĐQC
phải làm cho họ nhận thức và hiểu đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình; đồng
thời, BĐBP cũng phải thường xuyên quan tâm chăm lo đến lợi ích thiết thực
của QCND ở KVBG.



21

1.3.3. Nội dung, hình thức, phương pháp vận động quần chúng của
Bộ đội Biên phòng
* Nội dung vận động quần chúng
Để thực hiện tốt nhiệm vụ, yêu cầu công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo
vệ chủ quyền, ANBG quốc gia, BĐBP phải thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
Một là, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị, cảnh giác
cách mạng cho quần chúng ở KVBG
Đây là nội dung quan trọng của công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ
chủ quyền, ANBG quốc gia. Các đơn vị BĐBP cần đi sâu tuyên truyền, giáo
dục: Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các
chủ trương và nhiệm vụ chính trị của địa phương trong từng thời kì; nhằm làm
cho QCND nhận thức rõ được đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nước, hăng hái tham gia và tích cực thực hiện nghĩa vụ và
trách nhiệm của mình ở địa phương. Trên cơ sở đó, củng cố lòng tin của nhân
dân với Đảng, Nhà nước, yên tâm sản xuất và sinh hoạt, gắn bó với địa phương.
Đồng thời, phải giáo dục làm cho đồng bào nhận rõ âm mưu, thủ đoạn hoạt động
của các thế lực thù địch nhằm chống phá công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc để cho QCND cảnh giác và tích cực
đấu tranh với các hành động sai trái ngay tại địa phương.
Để làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân, các đồn biên phòng
phải bám sát sự chỉ đạo của cơ quan chính trị BĐBP tỉnh; đồng thời, còn phải
bám sát sự chỉ đạo của cơ quan tuyên giáo tỉnh ủy và huyện ủy để tiếp thu chủ
trương, chính sách của địa phương. Tùy điều kiện và tình hình cụ thể từng
tỉnh, huyện mà lựa chọn hình thức, phương pháp tuyên truyền cho sinh động;
ở miền núi phải coi trọng tuyên tuyền miệng.
Hai là, tham gia xây dựng củng cố HTCT cơ sở ở KVBG trong sạch,
vững mạnh



22

Hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn biên giới
có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì đây là nơi trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, tập hợp,
tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước; xây dựng, củng cố HTCT phải đi đôi với xây dựng, củng cố đội
ngũ cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn trong sạch vững mạnh, có như vậy mới
phát huy được sức mạnh tổng hợp của quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và
BVBG. Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa VII) đã xác định: “Đảm
bảo phát triển miền núi toàn diện và vững chắc, vấn đề có ý nghĩa quyết định là
coi trọng công tác xây dựng Đảng, làm cho đảng bộ các địa phương miền núi
thực sự thể hiện được trí tuệ của nhân dân... xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi”.
Vì vậy, tham gia xây dựng, củng cố HTCT và đội ngũ cán bộ cơ sở xã,
phường, thị trấn biên giới vững mạnh là nội dung cơ bản của công tác VĐQC
tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia. Các đồn biên phòng phải
chủ động tham gia xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các
tổ chức đảng, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể ở các xã biên giới, làm cho các tổ chức này thực sự tiêu biểu về trí tuệ,
là người đại diện cho lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân các dân
tộc; cùng với đó là phải tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn
biên giới vững mạnh về mọi mặt, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ năng
lực chuyên môn tốt, để có đủ khả năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ của
địa phương. Mặt khác, phải là người gắn bó chặt chẽ với nhân dân và được dân
tin cậy, nhằm tập hợp và tổ chức nhân dân thành một khối đại đoàn kết thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, KT-XH, quốc phòng - an ninh ở KVBG.
Ba là, tham mưu, phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương tuyên
truyền, vận động, tổ chức các phong trào quần chúng bảo vệ chủ quyền,
ANBG quốc gia



23

Để quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia có hiệu quả phải dựa
vào dân, giác ngộ dân, tổ chức dân lại, xây dựng phong trào hành động của
nhân dân. Sức mạnh của nhân dân rất to lớn, nhưng sức mạnh đó chỉ phát huy
tốt khi quần chúng được giác ngộ, được tổ chức lại và có nhiều hình thức để
đưa quần chúng vào hành động cách mạng. Để làm được điều đó, các đồn
biên phòng phải tham mưu và phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa
phương để xây dựng phong trào quần chúng tham gia quản lý, bảo vệ chủ
quyền, ANBG quốc gia.
Các đồn biên phòng cần giúp địa phương tuyên tuyền, vận động, tổ
chức phong trào quần chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương,
gắn với phong trào quần chúng “tự quản đường biên, cột mốc và giữ gìn an
ninh trật tự xóm, bản khu vực biên giới”. Thông qua đó, phát huy vai trò của
quần chúng trong các lĩnh vực, tạo nền tảng vững chắc quản lý, bảo vệ chủ
quyền, ANBG quốc gia.
Bốn là, củng cố quan hệ đoàn kết quân dân một ý chí, thực hiện “Ngày
Biên phòng toàn dân”
Đoàn kết quân dân là bản chất, truyền thống của lực lượng vũ trang
nhân dân nói chung và của lực lượng BĐBP nói riêng. Đây là nội dung
quan trọng; là một nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công tác VĐQC
tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia. Trong buổi lễ thành
lập Công an nhân dân vũ trang (ngày 03/3/1959) Bác Hồ đã dạy: “Khi đoàn
kết được dân, tổ chức được dân, thì việc gì cũng làm được”. Thực hiện
“Ngày Biên phòng toàn dân” nhằm nâng cao trách nhiệm của QCND trong
tham gia BVBG cũng như xây dựng BĐBP vững mạnh.
Các đồn biên phòng tăng cường công tác tuyên truyền ý nghĩa của ngày
biên phòng toàn dân. Đồng thời, tuyên truyền, vận động các cấp, các ngành,
các lực lượng, đặc biệt là nhân dân các dân tộc, cấp uỷ, chính quyền địa



24

phương, các cơ quan ban, ngành, trường học, các lực lượng ở KVBG tham gia
thực hiện tốt các nội dung của ngày biên phòng toàn dân. Phối hợp thực hiện có
hiệu quả các chương trình đã ký kết, tham mưu và tham gia phát triển KT-XH
ở KVBG. Thông qua đó, phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, bảo vệ
chủ quyền, ANBG quốc gia.
Năm là, tiến hành công tác tuyên truyền đặc biệt, tuyên truyền đối ngoại
Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động nhân dân còn phải tiến hành công
tác tuyên truyền đặc biệt đối với các đối tượng phản động, một số quần chúng
lầm đường, lạc lối bị lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để tuyên truyền kích
động nhân dân nhằm chống lại các chủ trương, chính sách đại đoàn kết dân tộc
và vấn đề BGQG, phải làm cho họ hiểu chính sách dân tộc, tôn giáo và chủ
trương, chính sách của Đảng; hiểu được pháp luật Nhà nước Việt Nam, từ đó
họ từ bỏ hoạt động phá hoại. Đối với một số đối tượng vi phạm pháp luật, các
đối tượng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, đường biên, mốc giới phải kiên quyết
xử lý bằng pháp luật kết hợp tổ chức tấn công chính trị. Đây là một hướng
tuyên truyền, vận động, đấu tranh đối với những đối tượng đặc biệt. Do đó,
phải chuẩn bị kỹ, lãnh đạo chặt chẽ, lựa chọn hình thức, phương pháp tiến hành
sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng địa phương, từng tuyến biên giới.
Cùng với công tác tuyên truyền đặc biệt là tuyên truyền đối ngoại nhằm
xây dựng, củng cố các mối quan hệ quốc tế, xây dựng biên giới hoà bình, hữu
nghị, góp phần giải quyết tốt các vụ việc xảy ra trên biên giới.
Các đồn biên phòng cần tập trung tiến hành các hoạt động thông tin, tuyên
truyền, giải thích, xây dựng, củng cố biên giới đoàn kết, hữu nghị, cùng nhau
phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại của các đối
tượng, phần tử xấu ở KVBG làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nước.
Sáu là, tham gia phát triển KT-XH ở KVBG

Đây là nội dung rất quan trọng của công tác VĐQC tham gia quản lý,
bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh


25

thần cho nhân dân, xây dựng KVBG ngày càng vững mạnh.
Để thực hiện nội dung này, tùy tình hình cụ thể mà BĐBP tham gia giúp
dân tiếp cận với khoa học kỹ thuật, thực hiện các chương trình xoá đói, giảm
nghèo, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển đổi mô hình kinh tế, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong trồng trọt, chăn nuôi và chế biến sản
phẩm hàng hoá…; xây dựng gia đình, thôn, bản văn hóa, tổ chức đa dạng các
hoạt động thông tin, tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, phát thanh, truyền hình…;
tham gia xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho con em
các dân tộc; đặc biệt là, các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa; xây dựng, nhân
rộng và phát huy tác dụng các “trạm xá quân, dân y kết hợp”, “phòng khám
quân, dân y kết hợp” để chăm sóc sức khỏe cho đồng bào.
* Hình thức vận động quần chúng
Hình thức VĐQC được xác lập trên cơ sở hoàn cảnh, điều kiện, đặc
điểm cụ thể của đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, khả năng của BĐBP và sự
tham gia phối hợp của nhân dân trong địa bàn. Để xác định và vận dụng được
hình thức VĐQC phù hợp, chủ thể VĐQC phải làm tốt công tác điều tra,
nghiên cứu các yếu tố điều kiện, đặc điểm địa bàn, quy luật hoạt động, đặc
điểm tâm lý, trình độ, cá tính… của đối tượng tuyên truyền, vận động. Thực
tiễn 50 năm hoạt động của BĐBP, công tác VĐQC thường vận dụng hai hình
thức cơ bản đó là: Vận động quần chúng thường xuyên và VĐQC đột xuất.
- Vận động quần chúng thường xuyên là hình thức được tiến hành liên
tục về thời gian và không có sự phân biệt, phân chia đối tượng vận động để
thu hút nhiều người thuộc mọi thành phần lứa tuổi tham gia vào công tác
quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia

Đây là hình thức vận động cơ bản, chủ yếu tiến hành phổ biến theo kế
hoạch, chương trình hàng tháng, sáu tháng, một năm của chính trị viên dựa
trên cơ sở hướng dẫn của trên, tình hình thực tế của địa bàn đặt ra và khả
năng, điều kiện tổ chức thực hiện của địa phương, đơn vị.


26

Hình thức VĐQC thường xuyên tiến hành bằng cách tổ chức lực lượng,
bám địa bàn phụ trách. Việc bố trí lực lượng, phương tiện hoạt động phải đảm
bảo yêu cầu có lực lượng thường xuyên bám địa bàn, coi trọng nơi xung yếu,
phức tạp, xa xôi, hẻo lánh, không bỏ trống địa bàn, kết hợp với đảm bảo quân
số thực hiện nhiệm vụ khác. Tiến hành các mặt công tác theo kế hoạch, nắm
tình hình thường xuyên không gián đoạn, lơi lỏng, qua loa, đại khái. Những
việc xảy ra hàng ngày phải tổ chức giải quyết ngay không để kéo dài, tuỳ theo
tình hình thực tế ở địa bàn để cùng địa phương tổ chức tuyên truyền, giáo dục
nhân dân cho phù hợp.
Vận động quần chúng thường xuyên được áp dụng trong các trường
hợp sau: Vận động quần chúng xây dựng và củng cố đẩy mạnh các phong trào
cách mạng của quần chúng ở địa phương; VĐQC thực hiện các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các nhiệm vụ của địa
phương; VĐQC tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị, vũ trang, các tổ
chức quần chúng ở địa phương.
- Vận động quần chúng đột xuất là hình thức được tiến hành khi có
những nội dung, nhiệm vụ đột xuất nổi lên trong từng thời gian nhất định ở
địa bàn để giữ vững chủ quyền, ANBG, vùng biển
Đây là hình thức quan trọng được tiến hành để giải quyết một vụ việc,
một vấn đề mới nảy sinh ở địa bàn liên quan đến quần chúng và chủ quyền
ANTT ở địa bàn, trong thời gian, không gian nhất định.
Vận động quần chúng đột xuất được tiến hành ngay tại nơi xảy ra vụ

việc và nhanh chóng tổ chức lực lượng nắm diễn biến tình hình, tìm hiểu
nguyên nhân, báo cáo về đơn vị xin ý kiến chỉ đạo.
Chủ động phối hợp với các lực lượng tại chỗ tuyên truyền, giải
thích, ổn định tư tưởng nhân dân, khoanh gọn phạm vi không để lan rộng
kéo dài. Kịp thời thông báo tình hình, đề xuất biện pháp giải quyết với
cấp uỷ, chính quyền địa phương, phối hợp với các ngành, các lực lượng


27

tại chỗ tập trung giải quyết tốt các vụ việc xảy ra, củng cố ổn định địa bàn
sau khi giải quyết xong.
Tổ chức rút kinh nghiệm, hoàn chỉnh báo cáo công tác VĐQC, điều
chỉnh đội công tác trở lại hoạt động bình thường.
Vận động quần chúng đột xuất được áp dụng trong các trường hợp sau:
Vận động quần chúng chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược của kẻ địch đang
đe doạ trực tiếp; VĐQC ở những địa bàn đang có nguy cơ gây bạo loạn, gây rối
hoặc các vụ việc khác xảy ra ở địa bàn; VĐQC chống lấn chiếm lãnh thổ,
chống vượt biên, vượt biển, chống gián điệp, biệt kích, thám báo xâm nhập
biên giới; VĐQC thực hiện một chủ trương công tác lớn của BĐBP ở địa
phương.
Ngoài hai hình thức trên, BĐBP còn tiến hành VĐQC theo chuyên đề,
đây là hình thức vận động chuyên sâu cần thiết, nhằm giải quyết những công
việc cơ bản, thường xuyên, khắc phục những vấn đề nổi cộm, tạo ra những điển
hình tiên tiến, nghiên cứu rút kinh nghiệm, phổ biến và nhân rộng.
* Phương pháp vận động quần chúng
- Phương pháp chung
Phương pháp là “Cách thức tiến hành để có hiệu quả” [35, tr.1351]. Như
vậy, phương pháp VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG của
BĐBP là hệ thống cách thức, biện pháp mà cán bộ, chiến sĩ BĐBP tiến hành

để tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức nhân dân nhằm giữ vững ổn định
chính trị, ANTT ở KVBG.
Đối tượng công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBG
của BĐBP rất đa dạng, bao gồm nhiều đối tượng vận động thuộc mọi thành
phần lứa tuổi, nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Vì vậy, để nâng cao hiệu
quả công tác VĐQC đối với mỗi đối tượng phải có phương pháp vận động
phù hợp. Thực tế công tác VĐQC của BĐBP thường sử dụng hai phương


×