Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398 KB, 86 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô
LỜI NÓI ĐẦU:

1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đang có những bước
phát triển đáng kinh ngạc. Các hoạt động trao đổi hàng hóa, thương mại, dịch
vụ không chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ mà còn vươn ra tầm quốc tế. Hòa
chung vào xu thế đó, hệ thống các NHTM cũng không ngừng phát triển và
mở rộng, bên cạnh các NHTM nhà nước là sự xuất hiện của rất nhiều các
ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh các ngân hàng
nước ngoài. Trong bối cảnh này thì sự cạnh tranh là tất yếu mà lĩnh vực cạnh
tranh gay gắt nhất chính là lĩnh vực tín dụng truyền thống. Chính vì vậy, các
ngân hàng đã và đang phát triển rất nhiều các sản phẩm tín dụng mới từ lĩnh
vực này và bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ khi là thị trường mà rất nhiều
ngân hàng nhắm vào.
Do đó, việc sử dụng BLNH đang bùng nổ mạnh mẽ đem lại thu nhập
đáng kể cho các ngân hàng đồng thời cũng đóng vai trò xúc tác cho các hợp
đồng kinh tế được kí kết dễ dàng. Có thể chắc chắn các giao dịch thương mại
lớn mà có yếu tố nước ngoài tham gia thì đi kèm với các hợp đồng kinh tế bắt
buộc phải có thêm hợp đồng bảo lãnh của ngân hàng để tạo được sự tin tưởng
tuyệt đối của bạn hàng.
Nghiệp vụ bảo lãnh được ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội thực
hiện ngay từ những năm đầu thành lập. Mặc dù đây là nghiệp vụ ngân hàng
còn mới mẻ với các ngân hàng TMCP Việt Nam, song với uy tín và quyền lực
tài chính của mình, trong những năm qua MB đã đáp ứng tốt nhu cầu của thị
trường, đem lại thu nhập đáng kể và dần đưa hoạt động bảo lãnh trở thành
một trong những hoạt động chính, không thể thiếu của ngân hàng. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện nghiệp vụ ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn,
hạn chế. Chính vì vậy, bản thân ngân hàng cũng có những chính sách nhất


định để không ngừng hoàn thiện và phát triển hơn nghiệp vụ này.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

1

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

Xuất phát từ những điều trên, em đã quyết định chọn đề tài: “Nghiệp vụ
Bảo lãnh tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội – Thực trạng và giải
pháp ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Khóa luận đề cập nghiên cứu hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản về
bảo lãnh ngân hàng, vai trò của bảo lãnh ngân hàng trong nền kinh tế, phân
tích, đánh giá thực trạng và kết quả đạt được, đồng thời nêu ra được những
khó khăn, tồn tại của hoạt động bảo lãnh tại MB. Trên cơ sở đó đưa ra định
hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh để tháo gỡ
những khó khăn, tồn tại của nghiệp vụ bảo lãnh tại MB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Khóa luận nghiên cứu tập trung chủ yếu về thực trạng bảo lãnh ngân
hàng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động bảo lãnh để tháo gỡ
những khó khăn, tồn tại của nghiệp vụ bảo lãnh tại MB.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khóa luận sử dụng các phương pháp lý thuyết hệ thống duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phân tích hoạt động kinh tế, thống kê, tổng kết thực

tiễn, phân tích, so sánh, xử lý số liệu…
5. Kết cấu khóa luận.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, cấu trúc của khóa luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Những lý luận chung về bảo lãnh ngân hàng.
- Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng TMCP Quân
Đội.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại ngân hàng
TMCP Quân Đội.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

2

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô
CHƯƠNG 1:

NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1. Khái quát chung về nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
1.1.1.1 Sự ra đời nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng.
Nền kinh tế càng phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng của
hoạt động giao lưu trao đổi hàng hóa, dịch vụ, thương mại. Các giao dịch
ngày càng phát triển về mặt số lượng, giá trị, độ phức tạp và được mở rộng
trên phạm vi toàn thế giới. Đặc biệt, trong TMQT các giao dịch diễn ra có sự
ngăn cách về thời gian, không gian, hệ thống pháp luật, điều kiện thị trường…

làm cho các loại rủi ro càng gia tăng như: rủi ro không thực hiện hợp đồng,
rủi ro tín dụng… để phòng ngừa rủi ro bên giao hàng hóa thường yêu cầu bên
nhận hàng hóa phải có bảo lãnh của bên thứ ba (bên thứ ba thường là người
có uy tín, có tiềm lực tài chính…) và như thế nghiệp vụ bảo lãnh ra đời.
Trên thực tế có nhiều tổ chức tài chính cũng phát hành bảo lãnh như:
chính phủ, công ty bảo hiểm, công ty tài chính… song bảo lãnh chủ yếu phát
triển ở các NHTM. Tại sao lại như vậy? Nguyên nhân xuất phát các đặc điểm
riêng có của các NHTM đó là:
- NHTM là trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là
nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân đem cho vay và đầu tư để thu lợi
nhuận. Thông qua quá trình đó, ngân hàng nắm bắt được rất nhiều những
thông tin của khách hàng, biết được năng lực tài chính của khách hàng thông
qua tài khoản tiền gửi của họ để tạo cơ sở cho việc phát hành thư bảo lãnh
đúng đắn.
- NHTM thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế,
có tiềm lực tài chính cao nên đã xây dựng được uy tín cũng như mối quan hệ
gắn bó tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Uy tín của ngân hàng là

Nguyễn Thị Hồng Hiên

3

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

yếu tố quan tâm hàng đầu của khách hàng khi quyết định dịch vụ bảo lãnh của

ngân hàng (là đối tượng yêu cầu bảo lãnh).
Như vậy sự ra đời nghiệp vụ bảo lãnh là một yếu tố khách quan, giúp
phòng ngừa rủi ro trong giao dịch tài chính và phi tài chính. Sự phát triển của
bảo lãnh gắn liền với các hoạt động của các NHTM, tổ chức có khả năng cung
cấp dịch vụ bảo lãnh tốt nhất.
1.1.1.2. Sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh ngân hàng là một nghiệp vụ quốc tế, được sử dụng rộng rãi ở
nhiều nơi trên thế giới. Nhiều tài liệu dẫn chứng trong thương mại giao dịch,
BLNH xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ
XX như là một dạng thư tín dụng dự phòng ( Standby letter of credit). Ở thời
điểm này, BLNH bắt đầu thực sự được sử dụng như là một hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, phải tới những năm 70, hoạt động bảo lãnh
của ngân hàng mới thật sự được sử dụng trong các giao dịch của TMQT.
Nguồn gốc là từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp giàu mỏ khiến
cho các quốc gia Trung Đông trở nên giàu có. Họ liên tục kí kết các hợp đồng
kinh tế với các quốc gia Phương tây để thực hiện các dự án như: tạo cơ sở hạ
tầng, canh tân công nông nghiệp… và để đảm bảo cho các hợp đồng này, các
công ty giàu mỏ Trung Đông yêu cầu các tập đoàn phương tây phải chứng
minh năng lực tài chính của mình thông qua BLNH. Đó là yêu cầu tất yếu bởi
giao dịch TMQT là giao dịch luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Sau những năm 70,
cùng với sự phát triển của TMQT, hoạt động bảo lãnh phát triển đáng kinh
ngạc. Bảo lãnh thực sự trở thành công cụ phòng ngừa rủi ro quan trọng.
Ngày nay, bảo lãnh ngày càng trở thành một nghiệp vụ chủ yếu của
ngân hàng tại nhiều nước trên thế giới. Quy mô và doanh thu phí bảo lãnh của
mỗi ngân hàng thể hiện uy tín trong nước cũng như quốc tế của ngân hàng đó
đối với ngân hàng đối tác, đối với khách hàng và ngay cả với chỉnh phủ.
Trong xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa, chu chuyển vốn và giao lưu

Nguyễn Thị Hồng Hiên


4

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

TMQT hiện nay ngày càng gia tăng với mức độ khổng lồ, nghiệp vụ bảo lãnh
rất được các ngân hàng chú trọng hoàn thiện và phát triển nhất là trong điều
kiện mua bán chịu đang ngày càng phổ biến, tiết kiệm vốn cho cả bên bán
hàng và bên mua hàng. Đây là nghiệp vụ mang lại thu nhập lớn cho các ngân
hàng, giúp cho các ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm từ đó giảm thiểu được
rủi ro trong quá trình kinh doanh. Ngược lại, các doanh nghiệp và các nhà
kinh doanh chủ yếu sử dụng nghiệp vụ BLNH nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
ngắn hạn cho công việc kinh doanh của mình đồng thời đảm bảo an toàn
trong giao dịch kinh doanh.
Tại Việt Nam, từ những năm 80, bảo lãnh đã được đề cập trong các
văn bản pháp quy. Song từ những năm 1980 – 1990, bảo lãnh của ngân hàng
chỉ do NHNN thực hiện như một công cụ hỗ trợ kinh doanh cho các DNNN
vay vốn nước ngoài để sản xuất kinh doanh. Sau công cuộc đổi mới trong hệ
thống ngân hàng năm 1998, các NHTM Việt Nam đã có sự phát triển đáng
ghi nhận, là kênh cung cấp quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Các nghiệp
vụ ngân hàng cũng ngày càng phát triển phong phú đa dạng. Tuy nhiên còn
nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới chỉ thực hiện ở giai đoạn bước đầu, trong đó
có nghiệp vụ BLNH. Nghiệp vụ này hết sức phức tạp đòi hỏi phải tuân thủ
theo các tập quán và thông lệ quốc tế. Năm 1994, quy chế bảo lãnh và tái bảo
lãnh của thống đốc NHNN được ban hành và lần đầu áp dụng cho các NHTM
Việt Nam. Tuy là một nghiệp vụ ngân hàng mới và chưa có hành lang pháp lý

chặt chẽ song BLNH đã dần khẳng định vị trí không thể thiếu trong nền kinh
tế thị trường hiện đại.
1.1.2: Khái niệm và đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng.
1.1.2.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng.
Có nhiều cách khái niệm khác nhau về nghiệp vụ BLNH, song về bản
chất và phương thức thực hiện, các khái niệm này đều nêu bật lên nghĩa vụ

Nguyễn Thị Hồng Hiên

5

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

của người phát hành bảo lãnh phải thanh toán cho người nhận bảo lãnh nếu
người đó có bằng chứng chứng minh người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng.
Theo bộ luật dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam điều
366 có định nghĩa: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện trả thay
cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh) nếu đến thời hạn mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”.
Theo luật các TCTD điều 20 định nghĩa: “Bảo lãnh ngân hàng là cam
kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận và hoàn trả cho các TCTD số
tiền đã được trả thay”.

Hình thức của BLNH là hợp đồng bảo lãnh hay còn gọi là thư bảo
lãnh.Thư bảo lãnh là cam kết bằng văn bản giữa khách hàng và ngân hàng về
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả.
Như vậy, BLNH là cam kết bằng văn bản, là hình thức cấp tín dụng
bằng chữ kí, tại thời điểm tham gia bảo lãnh, ngân hàng không trực tiếp xuất
vốn mà chỉ dùng khả năng tài chính và uy tín của mình để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ đã cam kết từ trước.
1.1.2.2: Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng.
- Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc:
Tham gia vào hoạt động bảo lãnh có ít nhất 3 chủ thể, đó là: Bên phát
hành bảo lãnh (ngân hàng), bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (bên thụ
hưởng). Các chủ thể tham gia có mối quan hệ với nhau thông qua các hợp
đồng là: Hợp đồng kinh tế, hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh. Cụ thể như sau:

Nguyễn Thị Hồng Hiên

6

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

Sơ đồ 1: Mối quan hệ các bên trong bảo lãnh ngân hàng.
Bên bảo lãnh

2


3

1

Bên được bảo lãnh

Bên nhận bảo lãnh

1 Hợp đồng kinh tế: Trước hết hoạt động bảo lãnh được phát sinh
trong mối quan hệ kinh tế giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Hai
chủ thể này thỏa thuận, kí kết hợp đồng kinh tế. Trong đó, bên nhận bảo lãnh
yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng bảo lãnh và chỉ khi bên được bảo
lãnh đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng thì bảo lãnh mới được xác lập. Từ
đó phát sinh ra các mối quan hệ tiếp theo.
Hợp đồng bảo lãnh: Quan hệ giữa ngân hàng và bên được bảo lãnh
2
thông qua hợp đồng bảo lãnh hay là mối quan hệ giữa ngân hàng cấp tín dụng
và bên hưởng tín dụng.
Cam kết bảo lãnh (thư bảo lãnh): Thư bảo lãnh do ngân hàng phát

3

hành trao cho bên nhận bảo lãnh trong đó quy định những điều kiện để bên
nhận bảo lãnh có thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp
bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
- Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập cao:
Mặc dù quan hệ trong BLNH là mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc nhau,
tuy nhiên quyền lợi và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia mang tính độc lập
tương đối. Đây chính là một đặc điểm nổi bật của bảo lãnh. Điều này có nghĩa
là việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh không phụ thuộc vào bất cứ giao dịch hay

yếu tố nào ngoài giao dịch bảo lãnh. Ngân hàng có trách nhiệm thanh toán

Nguyễn Thị Hồng Hiên

7

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

cho bên nhận bảo lãnh khi bên này có yêu cầu và có bằng chứng chứng minh
sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện các lí
do thuộc về mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng của mình để trì hoãn
hoặc không thực hiện thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Khi có yêu cầu thanh
toán, ngân hàng phải thanh toán ngay cho bên nhận bảo lãnh, sau đó mới quay
ra thu nợ đối với bên được bảo lãnh.
- Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động ngoại bảng:
Về bản chất, bảo lãnh là hình thức tài trợ bằng uy tín, qua đó bên được
bảo lãnh có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các
phương án sản xuất kinh doanh…để thu lợi. Khi thực hiện các nghiệp vụ bảo
lãnh, ngân hàng chưa phải xuất quỹ tiền mặt ngay do đó bảo lãnh được coi
như một hoạt động ngoại bảng vì hoạt động của nó không làm ảnh hưởng tới
bảng cân đối kế toán.
Tuy nhiên, khi rủi ro sảy ra thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh. Đó cũng chính là lúc ngân hàng phải thực sự xuất
quỹ tiền mặt, điều này làm ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán của ngân hàng.
Khoản chi này được xếp vào khoản tín dụng “xấu”, cấu thành nợ quá hạn. Khi

đó, hoạt động bảo lãnh đã được chuyển từ tài sản ngoại bảng vào tài sản nội
bảng. Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém không những có
ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp tới tài sản của
ngân hàng. Vì vậy, phải cân nhắc kĩ trước khi đưa ra quyết định bảo lãnh
tránh những khoản nợ “xấu” này.
- Bảo lãnh tiến hành trên cơ sở chứng từ:
Tất cả các hoạt động của ngân hàng đều dựa trên cơ sở chứng từ và
hoạt động bảo lãnh cũng không phải là ngoại lệ. Cam kết bảo lãnh của ngân
hàng cũng là một văn bản mà việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng
dựa trên văn bản đó. Do đó, khi người thụ hưởng bảo lãnh đến yêu cầu ngân
hàng thanh toán thì ngân hàng phát hành thư bảo lãnh phải có trách nhiệm

Nguyễn Thị Hồng Hiên

8

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

kiểm tra các chứng từ do người thụ hưởng xuất trình phù hợp với những điều
khoản và điều kiện của thư bảo lãnh. Ngân hàng phát hành có quyền từ chối
thanh toán nếu chứng từ bất hợp lệ hay những điều kiện và điều khoản bảo
lãnh không được đáp ứng. Nếu ngân hàng không thực hiện đúng trách nhiệm
kiểm tra, tức là vẫn thanh toán toàn bộ chứng từ bất hợp lệ thì ngân hàng đó
sẽ không nhận được tiền bồi hoàn từ người được bảo lãnh.Tuy nhiên nếu bộ
chứng từ được đưa đến hoàn toàn phù hợp với những điều kiện, điều khoản

quy định trong thư bảo lãnh và ngân hàng kiểm tra thấy không có dấu hiệu lừa
đảo thì ngân hàng phải ngay lập tức thanh toán cho bên thụ hưởng. Ngân hàng
phải thực hiện một cách trung thực khách quan, không làm chỗ dựa cho khách
hàng của mình để từ chối thanh toán vì nếu như vậy sẽ làm giảm uy tín của
ngân hàng.
1.1.3. Chức năng và vai trò của BLNH:
1.1.3.1. Chức năng của BLNH:
a. Công cụ bảo đảm:
Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh là cung cấp một sự đảm bảo
cho người thụ hưởng. Mục đích của bảo lãnh là sự cung cấp cho người thụ
hưởng một khoản bồi hoàn tài chính cho những người thiệt hại do hành vi vi
phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Hơn nữa, bảo lãnh được
dùng trong những hợp đồng thi công, hợp đồng bảo hành sản phẩm, dự thầu
công trình… thì đây là những thỏa thuận không mua bán hay thanh toán. Do
vậy, bảo lãnh chỉ được dùng cho mục đích bảo đảm an toàn cho người thụ
hưởng khi có một biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh.
b. Công cụ tài trợ:
Hầu hết các hợp đồng thi công, buôn bán lớn đòi hỏi phải có một
khoảng thời gian dài mới hoàn tất. Điều này đặt ra một nhu cầu tài trợ cho dự
án. Công ty xây dựng sẽ gặp khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu
như phải hoàn tất công trình mới nhận được thanh toán từ chủ công trình. Do

Nguyễn Thị Hồng Hiên

9

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp


Đại học Đông Đô

đó, công ty xây dựng sẽ thương lượng với chủ công trình ứng trước cho mình
một khoản tiền. Lúc đó, ngân hàng của công ty xây dựng sẽ phát hành một
bảo lãnh hoàn tiền ứng trước như một công cụ tài trợ để cho công ty nhận
được khoản tiền đó. Ngân hàng phát hành cam kết bảo lãnh cho công ty xây
dựng để thanh toán cho chủ công trình trong trường hợp công ty xây dựng vi
phạm nghĩa vụ trong hợp đồng.
1.1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng:
a. Đối với ngân hàng phát hành bảo lãnh:
Bảo lãnh là một hình thức dịch vụ ngân hàng cung ứng cho nền kinh tế.
Lợi ích trực tiếp của bảo lãnh đó là sự đóng góp phí bảo lãnh với lợi nhuận
của ngân hàng. Một ưu điểm trong bảo lãnh là ngân hàng không phải xuất vốn
ra ngay, do vậy chưa phải sử dụng vốn của mình, không mất chi phí cơ hội
cho mục đích kinh doanh khác. Không những đóng góp và lợi nhuận, bảo
lãnh làm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nói riêng và hoạt động ngân hàng
nói chung, làm giảm sự phụ thuộc vào tín dụng. Mà tỷ trọng thu từ dịch vụ là
xu hướng phát triển của các ngân hàng hiện đại ngày nay. Ngoài ra, bảo lãnh
giúp thực hiện chính sách khách hàng. Một mặt đáp ứng nhu cầu và gắn bó
hơn với khách hàng truyền thống. Mặt khác thu hút được các khách hàng mới.
Điều này làm lợi cho ngân hàng không chỉ về mặt phí mà còn thúc đẩy các
hoạt động khác của ngân hàng như thanh toán xuất nhập khẩu, tín dụng, huy
động vốn… Bảo lãnh nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng
trên trường quốc tế. Thông qua bảo lãnh nước ngoài, ngân hàng có thể mở
rộng quan hệ đối ngoại của mình. Bảo lãnh giúp ngân hàng tăng bạn hàng và
lợi nhuận.
b.Đối với doanh nghiệp:
Vai trò lớn nhất mà bảo lãnh mang lại cho các khách hàng là hạn chế
rủi ro, đảm bảo lợi ích kinh tế, chống lại những thiệt hại do việc vi phạm hợp

đồng gây ra. Nhờ có bảo lãnh ngân hàng, các doanh nghiệp có khả năng tiếp

Nguyễn Thị Hồng Hiên

10

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

cận được các nguồn vốn rẻ, hiệu quả, tham gia dự thầu được nhiều công trình,
đem lại thu nhập cao. Bảo lãnh ngân hàng cũng giúp cho các doanh nghiệp
tăng uy tín trong quan hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
c. Đối với nền kinh tế:
Bảo lãnh ngân hàng có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh
tế của mỗi quốc gia. Bảo lãnh là chất xúc tác cho các hợp đồng kinh tế, xây
dựng thương mại, các giao dịch hàng hóa và dịch vụ trong nước cũng như
quốc tế được kí kết một cách nhanh chóng, thuận lợi giúp cho hoạt động này
ngày càng phát triển hơn.
Bảo lãnh đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát
triển, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ chu
chuyển vốn giữa các thành phần kinh tế.
Ngoài ra, bảo lãnh còn được sử dụng như một công cụ quản lý vĩ mô
của nhà nước, giúp nhà nước thực hiện các chương trình quốc gia như thúc
đẩy một số ngành kinh tế mũi nhọn hay hạn chế một số lĩnh vực hoạt động
không có hiệu quả.
1.1.4. Nguồn luật điều chỉnh:

Do yêu cầu bức thiết của nền kinh tế về hoạt động BLNH các văn bản
pháp lý về nghiệp vụ này lần lượt ra đời như:
 Quyết định 192/ QĐ – NH ngày 17/09/1992 của thống đốc NHNN về
bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
 Quyết định 196/ QĐ – NHNN 14 ngày 25/08/2000 của thống đốc
NHNN về quy chế nghiệp vụ BLNH. Đây là cơ sở pháp lý đầu tiên về
nghiệp vụ bảo lãnh của các NHTM.
 Quyết định 283/2000/QĐ – NHNN 14 ngày 25/08/2000 của thống đốc
NHNN về việc ban hành quy chế BLNH thay thế cho các quyết định
trước đây.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

11

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

 Quyết định 386/QĐ – NHNN ngày 11/04/2001 về việc sửa đổi bổ xung
quy chế BLNH.
 Quyết định 112/2003/QĐ – NHNN về việc sửa đổi bổ xung quy chế
BLNH.
 Quyết định 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26/06/2006 về việc ban hành
quy chế BLNH.
1.2. Các loại bảo lãnh ngân hàng.
Nghiệp vụ BLNH cung cấp cho các hoạt động của nền kinh tế các loại

hình bảo lãnh phong phú và đa dạng. Căn cứ và những tiêu thức khác nhau có
thể phân chia bảo lãnh thành nhiều loại. Ta có thể phân loại các loại BLNH
theo một số tiêu thức sau:
1.2.1.Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh:
a. Bảo lãnh trực tiếp:
Là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng chịu trách nhiệm phát hành bảo
lãnh trực tiếp theo yêu cầu của người được bảo lãnh. Sau khi ngân hàng bồi
thường cho người thụ hưởng, ngân hàng trực tiếp truy đòi từ người được bảo
lãnh.
Sơ đồ 2: Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp.
Ngân hàng phát hành
2

Ngân hàng thông báo

3
b

3
a

b

1

Người được bảo lãnh

3
b
Người nhận bảo lãnh


Hợp
1 đồng chính kí kết giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo
lãnh.Khách
hàng cầu phát hành bảo lãnh và cam kết sẽ bồi hoàn.
2
3 Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho người thụ
a
hưởng.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

12

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

3
Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho người thụ
b
hưởng thông qua ngân hàng thông báo.
b
b. Bảo lãnh gián tiếp:
Là loại bảo lãnh trong đó người được bảo lãnh sẽ yêu cầu ngân hàng
thứ nhất (ngân hàng chỉ thị) đề nghị ngân hàng thứ hai (ngân hàng phát hành)
đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Người được bảo lãnh

không trực tiếp bồi hoàn cho ngân hàng phát hành mà chính ngân hàng chỉ thị
là người bồi hoàn. Đến lượt mình, ngân hàng chỉ thị sẽ truy đòi khách hàng
của mình.
Sơ đồ 3: Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp.
Ngân hàng phát hành

4
b

Ngân hàng thông báo

3
4
a

Ngân hàng chỉ thị

4
b

2
Người được bảo lãnh
1

1
>
>

Người nhận bảo lãnh


Hợp đồng gốc
Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân

2

hàng chính phát hành bảo lãnh.

3

Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho ngân hàng thứ hai phát hành bảo
lãnh đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng.

4a,b

Ngân hàng phát hành bảo lãnh chuyển trực tiếp cho người thụ
hưởng hoặc thông qua ngân hàng thông báo.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

13

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

c. Đồng bảo lãnh:
Trong các dự án lớn, để giảm thiểu rủi ro, các ngân hàng có thể thực

hiện đồng bảo lãnh.
Sơ đồ 4: Đồng bảo lãnh.
NH1
NH2

3

4
b

Ngân hàng phát hành
2

NH3

4
a

Người được bảo lãnh

Ngân hàng thông báo

1

4
b
Người nhận bảo lãnh

1


Hợp đồng gốc

2

Khách hàng yêu cầu phát hành bảo lãnh.

3

Ngân hàng chính dàn xếp bảo lãnh cùng với các ngân hàng khác.

4a,b Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh chuyển trực tiếp cho người thụ
hưởng hoặc thông qua ngân hàng thông báo.
1.2.2. Dựa trên bản chất của bảo lãnh.
a. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ:
Là loại bảo lãnh mang tính truyền thống xét theo nguồn gốc ra đời của
nó, theo đó ngân hàng phát hành bị chi phối bởi quy tắc đồng phạm quy, tức
là ngân hàng và người được bảo lãnh là cùng nghĩa vụ. Trong đó, nghĩa vụ
của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên còn nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ
bổ sung sau khi có bằng chứng xác nhận là nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
b. Bảo lãnh độc lập:
Là một loại bảo lãnh của ngân hàng hiện đại, theo đó nghĩa vụ của ngân
hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người được bảo lãnh (theo
hợp đồng gốc) và việc thanh toán chỉ dựa trên những điều kiện, điều khoản
quy định trong văn bản bảo lãnh được thỏa mãn.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

14

Lớp: TC – 13B



Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

1.2.3. Căn cứ vào điều kiện thanh toán:
a. Bảo lãnh theo yêu cầu:
Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ hưởng chỉ
cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán cho ngân hàng phát hành. Yêu
cầu đó có thể là một trong 2 dạng sau:
 Văn bản yêu cầu thanh toán.
 Văn bản yêu cầu thanh toán kèm theo tờ trình về sự vi phạm hợp đồng
của người được bảo lãnh.
Văn bản này chỉ là tuyên bố đơn phương của người thụ hưởng mà
không cần sự xác nhận gì về phía người được bảo lãnh hay một bên thứ 3 nào
khác. Do đó người thụ hưởng hoàn toàn chủ động trong việc yêu cầu thanh
toán bảo lãnh.
b. Bảo lãnh kèm chứng từ.
Là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận
của bên thứ 3. Chứng từ có thể xuất trình ở một trong hai cách sau:
- Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm
nghĩa vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ 3 có tư
cách độc lập phát hành.
- Người thụ hưởng xuất trình thanh toán ngoài ra không phải xuất trình
bất cứ chứng từ nào khác. Tuy nhiên quyền thanh toán của những người này
sẽ bị đình chỉ lại nếu người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ
3 độc lập xác nhận việc hoàn thành hợp đồng.
c. Bảo lãnh kèm phán quyết của tòa án hoặc trọng tài.
Điều kiện thanh toán ở đây là người thụ hưởng phải cung cấp một phán

quyết của tòa án hay trọng tài về việc vi phạm nghĩa vụ của người được bảo
lãnh và trách nhiệm bồi hoàn cho người thụ hưởng.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

15

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

1.2.4. Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh:
a. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
Là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh đảm bảo thực hiện đúng,
đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng đối với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng
đã kí kết. Khối lượng bảo lãnh là 10% - 15% giá trị hợp đồng.
b. Bảo lãnh hoàn thanh toán:
Là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ
hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã kí với bên nhận bảo
lãnh. Giá trị của bảo lãnh hoàn thanh toán tương ứng với số tiền đã ứng trước
(thường từ 10% - 20% giá trị hợp đồng).
c. Bảo lãnh trả chậm (bảo lãnh thanh toán).
Là loại bảo lãnh trong đó quan hệ giữa người bán với người mua ở đây
thực chất là quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả
tiền hàng hóa theo kì hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh
toán đầy đủ và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo
lãnh trả chậm của ngân hàng.

d. Bảo lãnh dự thầu.
Mục đích của bảo lãnh dự thầu là đảm bảo cho việc người dự thầu
không rút lui, không kí kết hợp đồng hay thay đổi ý định khi đã trúng thầu.
Nếu người dự thầu đã trúng thầu nhưng không kí kết hợp đồng thì người thụ
hưởng sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh để trang trải những chi phí đấu thầu
thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để tổ chức lại cuộc đấu thầu
khác. Chủ công trình sẽ yêu cầu người đăng ký tham gia đấu thầu phải cung
cấp một bảo lãnh ngân hàng gọi là bảo lãnh dự thầu, thông thường có giá trị
từ 1-5% giá trị hợp đồng đấu thầu.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

16

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

1.3. Rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro trong nghiệp vụ BLNH.
1.3.1. Rủi ro trong BLNH.
1.3.1.1: Rủi ro đối với ngân hàng phát hành bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng là một dịch vụ ngân hàng cung cấp phục vụ cho
khách hàng bằng việc cung cấp một phương tiện đảm bảo. Số tiền bảo lãnh
được hạch toán ngọai bảng có nghĩa là nó không hề ảnh hưởng tới quy mô
nguồn vốn và tài sản ngân hàng. Hơn nữa phí thu được từ hoạt động bảo lãnh
đóng góp một phần đáng kể vào thu nhập của nhân hàng. Nếu khách hàng
thực hiện đúng cam kết của họ với bên bảo lãnh thì ngân hàng sẽ không phải

bỏ tiền ra để thực hiện cam kết của mình. Nhưng nếu khách hàng vi phạm
cam kết thì ngân hàng phải bỏ tiền ra để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Rủi ro
xảy ra khi khách hàng không hoàn trả cho ngân hàng mà số tiền ngân hàng đã
trả hộ hoặc giá trị hoàn trả không tương xứng với chi phí cơ hội mà ngân hàng
bỏ ra.
a. Rủi ro tín dụng:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phải đối
phó với rất nhiều rủi ro do các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan.
Nếu các doanh nghiệp gặp rủi ro, mất khả năng thực hiện hợp đồng đã cam
kết với đối tác thậm chí đi đến chỗ phá sản thì ngân hàng không những phải
trả tiền hộ mà khả năng truy đòi lại số tiền đó từ bên bảo lãnh là rất thấp.
Trong trường hợp này ngân hàng sẽ bị mất vốn, khoản mục quá hạn tăng
nhanh làm giảm nguồn vốn để cho vay dẫn đến giảm thu nhập do thiếu vốn để
cho vay. Mức độ rủi ro này phụ thuộc vào hình thức cho hợp đồng bảo lãnh
mà ngân hàng yêu cầu bên được bảo lãnh phải thực hiện.
b. Rủi ro thanh khoản.
Yêu cầu phải thanh toán theo thư bảo lãnh đã phát hành có thể đến bất
kỳ lúc nào buộc ngân hàng phải sử dụng nguồn vốn của mình để thanh toán
(trừ trường hợp khách hàng ký quỹ 100%). Thông thường ngân hàng phải

Nguyễn Thị Hồng Hiên

17

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô


trích vốn để lập quỹ bảo lãnh phục vụ cho mục đích này. Nếu số tiền phải trả
quá lớn, vượt quá giá trị của quỹ thì ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh khoản, buộc ngân hàng phải chuyển một phần nguồn vốn dùng để
cho vay sang, thậm chí phải bán chứng khoán dự trữ, đi vay trên thị trường
mở hay phát hành chứng khoán nợ mới mà các hoạt động này khi thực hiện
một cách bị động thường làm cho ngân hàng bị thiệt hại rất nhiều do chi phí
cơ hội bỏ ra là rất lớn. Để giảm thiểu rủi ro tín dụng, ngân hàng phải xem xét
đánh giá khách hàng kỹ càng, xem xét việc phát hành bảo lãnh như cấp tín
dụng. Điều khoản quy định hình thức bảo đảm trong hợp đồng bảo lãnh cũng
phải được tuân thủ theo các quy định chung của hợp đồng tín dụng.
c. Rủi ro hối đoái.
Ngày nay hoạt động bảo lãnh không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi một
quốc gia mà diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đồng tiền sử dụng trong quan
hệ bảo lãnh không chỉ là một đồng tiền duy nhất. Chính vì thế, khi có biến
động tỷ giá giữa các đồng tiền có liên quan thì sẽ xảy ra rủi ro hoặc cho bên
này hoặc cho bên kia trong hoạt động bảo lãnh nếu ngân hàng cam kết thực
hiện nghĩa vụ bằng ngoại tệ của quốc gia bên nhận bảo lãnh trong khi hợp
đồng bảo lãnh được ký kết với bên được bảo lãnh bằng nội tệ hoặc nếu đồng
ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ thì ngân hàng sẽ bị thiệt hại. Đó là rủi ro
hối đoái.
1.3.1.2. Rủi ro đối với người thụ hưởng bảo lãnh.
Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng được chọn làm ngân hàng bảo
lãnh là một ngân hàng mạnh về tài chính, có chính sách tài trợ mạnh mẽ, trình
độ nghiệp vụ của các cán bộ cao, năng lực điều hành của ban lãnh đạo tốt và
có uy tín trên thị trường… để đáp ứng điều này cũng có nghĩa là bên được bảo
lãnh tìm cho mình một chỗ dựa vững chắc đồng thời người thụ hưởng bảo
lãnh sẽ có sự đảm bảo lớn về khả năng nhận được bồi hoàn nếu bên nhận
được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã kí kết.


Nguyễn Thị Hồng Hiên

18

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

Tuy nhiên, trên thực tế, không phải khi nào bên được bảo lãnh cũng
như người thụ hưởng bảo lãnh cũng tìm được ngân hàng bảo lãnh như ý.
Chính vì vậy, người thụ hưởng bị chi phối bởi khả năng tài chính của ngân
hàng bảo lãnh. Chẳng hạn như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ sẽ kéo theo
sự sụp đổ của ngân hàng bảo lãnh và hậu quả là người thụ hưởng bảo lãnh sẽ
phải chịu rủi ro. Ngoài ra, có thể có những nguyên nhân bất khả kháng cũng
có thể gây ra những rủi ro cho người thụ hưởng bảo lãnh như thiên tai, hỏa
hoạn…
1.3.1.3. Rủi ro đối với người được bảo lãnh.
Do tính chất cũng như vai trò của bảo lãnh nên bên được bảo lãnh bị
ràng buộc trong việc thực hiện các hợp đồng đã kí kết với người thụ hưởng
bảo lãnh. Bên được bảo lãnh luôn chịu sức ép đền bù về mặt tài chính nếu sự
vi phạm của mình được chứng minh trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo
lãnh. Vì vậy mà người thụ hưởng bảo lãnh có thể lợi dụng cơ hội này để lập
chứng từ giả về việc bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng để nhận được bồi
hoàn trong khi bên được bảo lãnh vẫn nghiêm túc thực hiện hợp đồng. Chính
vì thế, trong trường hợp này bên được bảo lãnh không những chịu gánh nặng
cũng như sức ép thực hiện đúng hợp đồng ký kết để tránh khỏi phải đền bù tài
chính mà còn phải luôn đề phòng sự lừa đảo từ phía người thụ hưởng bảo

lãnh.
Không những thế, bên được bảo lãnh cũng có thể gặp rủi ro trong kinh
doanh thương mại đơn thuần, vì vậy trước khi đề nghị ngân hàng bảo lãnh
khách hàng cần tính toán cẩn thận hiệu quả kinh tế đảm bảo tính khả thi tránh
trường hợp dự án vượt quá khả năng tài chính của mình.
1.3.2: Nguyên nhân phát sinh rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh.
a. Nguyên nhân chủ quan.
Xét về khía cạnh khách hàng, rủi ro xảy ra khi khách hàng làm ăn thua
lỗ, cố tình vi phạm hợp đồng hoặc không đủ năng lực thực hiện hợp đồng dẫn

Nguyễn Thị Hồng Hiên

19

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

đến việc ngân hàng phải trả tiền thay và khách hàng không đủ khả năng hoàn
trả cho ngân hàng. Bản thân ngân hàng cũng chứa đựng nhiều yếu tố gây ra
rủi ro: quy trình bảo lãnh không chặt chẽ, trình độ nhân viên tác nghiệp không
đáp ứng các yêu cầu ngày càng phức tạp của các giao dịch kinh tế, tắc trách
trong khâu thẩm định khách hàng…
b. Nguyên nhân khách quan.
Nhân tố pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định rủi
ro của một nghiệp vụ. Thực vậy nếu hệ thống pháp luật bao gồm nhiều văn
bản pháp quy của nhiều cấp ban hành không đầy đủ và thiếu đồng bộ cũng

như sự chồng chéo vừa thừa vừa thiếu gây ra những cản trở lớn cho hoạt động
kinh doanh.
Pháp luật mà không chặt chẽ ắt sẽ sinh ra khe hở để các bên vi phạm
hoặc không đủ cơ sở cần thiết để các bên thực hiện giao dịch. Nghiệp vụ bảo
lãnh cũng như nghiệp vụ tín dụng đòi hỏi phải có khung pháp lý đầy đủ, chính
xác nếu không sẽ gây ra nhiều cản trở, vướng mắc và rủi ro trong quá trình
thực hiện nghiệp vụ. Các nhân tố kinh tế xã hội, kinh tế bao gồm các hiện
tượng không thể lường hết được xảy ra trong nền kinh tế xã hội và ảnh hưởng
rộng khắp đến toàn xã hội như lạm phát, thay đổi tỷ giá, lãi suất… Tất cả
những nhân tố đó tác động tới khả năng thực hiện hợp đồng của bên được bảo
lãnh cũng như nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi ngân hàng thực hiện thanh
toán hộ theo cam kết bảo lãnh.
1.3.3. Mức độ rủi ro trong bảo lãnh ngân hàng:
Nghiệp vụ bảo lãnh có những đặc thù riêng của nó, mức độ rủi ro phụ
thuộc hoàn toàn vào hình thức đảm bảo của khách hàng cho cam kết bảo lãnh
ngân hàng. Xác định được mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh sẽ giúp cho
cán bộ phụ trách bảo lãnh có được những quyết định hợp lý về thời gian và
đặc biệt là mức phí bảo lãnh. Nếu như ngân hàng quy định mức phí rủi ro cho
các tài sản của mình từ 0% - 100% tùy vào đặc điểm của từng loại bảo lãnh

Nguyễn Thị Hồng Hiên

20

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô


thì chúng ta cũng có thể áp dụng phương pháp tương tự để xác định mức độ
rủi ro của nghiệp vụ bảo lãnh.
Thứ nhất: Bảo lãnh có mức độ rủi ro 0%: là loại bảo lãnh mà bên bảo
lãnh phải ký quỹ 100% trị giá bảo lãnh.
Thứ hai: Bảo lãnh có mức độ rủi ro 0% - 50%: khi bên bảo lãnh ký quỹ
từ 50% - 100% trị giá bảo lãnh hoặc ký quỹ từ 5% - 10% trị giá bảo lãnh và
kết hợp với thế chấp bằng bất động sản.
Thứ ba: Bảo lãnh có mức độ rủi ro 100%: mà loại bảo lãnh mà bên
được bảo lãnh không cần phải thế chấp hay ký quỹ bảo lãnh.
Như vậy phí bảo lãnh cao hay thấp không chỉ phụ thuộc vào thời gian
bảo lãnh mà còn phụ thuộc rất nhiều vào mức độ rủi ro của bảo lãnh đó và tỷ
lệ phí trên trị giá bảo lãnh.
1.3.4. Những biện pháp hạn chế rủi ro:
- Những hạn chế về mặt chính sách: Điều 7 của quyết định 26/2006/QĐ
– NHNN ngày 26/06/2006 của NHNN Việt Nam có quy định khống chế tỷ lệ
tối đa của tổ chức tín dụng được phép bảo lãnh cho một khách hàng là 15%
tổng vốn tự có của TCTD đó. Tại các NHTM cũng có những quy định khống
chế số dư tối đa mà một chi nhánh được bảo lãnh cho một khách hàng.
- Về mặt nghiệp vụ: Quy trình bảo lãnh được thực hiện qua mô hình ba
cấp: quan hệ khách hàng, quản lý khách hàng, bộ phận tác nghiệp. Tại bộ
phận tác nghiệp để một thư bảo lãnh được phát hành phải qua nhiều tay: cán
bộ nghiệp vụ, kiểm soát viên, phụ trách phòng và ban giám đốc.
- Chú trọng công tác đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ: để
hoạt động bảo lãnh đạt được hiệu quả cao thì tất yếu phải đòi hỏi phải có một
cơ cấu tổ chức và quản lý nhân sự chặt chẽ, hợp lý. Cán bộ nhân viên phải đi
sâu, đi sát thực tế, cùng đoàn kết xây dựng tập thể vững mạnh trong đó cán bộ
lãnh đạo phải là những người có năng lực, khả năng tổ chức và tinh thần trách
nhiệm cao. Đối với riêng ngành ngân hàng, nhân viên trực tiếp giao dịch với


Nguyễn Thị Hồng Hiên

21

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

khách hàng được coi là hình ảnh của ngân hàng. Tác phong làm việc, trình độ
chuyên môn và thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng luôn là những yếu tố
quan trọng tác động đến sự tin tưởng và trung thành của khách hàng đối với
ngân hàng. Sự chính xác trong công việc của các cán bộ ngân hàng sẽ làm
giảm bớt những rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải.
- Đầu tư công nghệ, hiện đại hóa hoạt động ngân hàng: Việc đầu tư
vào công nghệ thông tin không những tạo ra chất lượng tốt đối với hoạt động
bảo lãnh mà còn giúp ngân hàng nắm bắt thông tin với khách hàng, với thị
trường một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Tránh rủi ro cho ngân
hàng.
- Thực hiện phân tán rủi ro: ngân hàng có thể phân tán rủi ro thông qua
việc đa dạng hóa danh mục sản phẩm, phát triển nhiều loài hình bảo lãnh khác
nhau, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào chỉ một loại hình bảo lãnh nào đó.
- Thực hiện đảm bảo tín dụng trắc chắn: Các khoản bảo lãnh phải có tài
sản đảm bảo: có thể phải đủ 100% trị giá bảo lãnh hoặc một phần giá trị bảo
lãnh.
- Thực hiện tốt việc giám sát tín dụng và xếp hạng khách hàng: Cán bộ
tín dụng phải theo dõi tình hình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của khách hàng,
đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng kinh tế với bên thụ hưởng dựa trên

thông tin về tình hình tài chính của khách hàng. Còn sau khi doanh nghiệp đã
hoàn tất các nghĩa vụ theo hợp đồng bảo lãnh, ngân hàng lập biên bản thanh
lý hợp đồng bảo lãnh cho khách hàng và thu lại hợp đồng bảo lãnh, phong tỏa
tài khoản kí quỹ, giao lại tài sản đảm bảo và xử lý các vấn đề liên quan khác
nếu có. Sau đó tiến hành lưu trữ hồ sơ và tổ chức đánh giá lại hiệu quả đồng
thời rút ra bài học kinh nghiệm về những sai sót nếu có.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng:
Nghiệp vụ BLNH chịu tác động của nhiều nhân tố, từ nhân tố khách
quan tới nhân tố chủ quan thuộc về ngân hàng. Các nhân tố này có tác động

Nguyễn Thị Hồng Hiên

22

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

trực tiếp tới việc nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. Do đó các ngân hàng cần
nhận diện rõ các nhân tố ảnh hưởng để xây dựng chiến lược kinh doanh cho
mình. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu tác động tới nghiệp vụ bảo lãnh
trong các NHTM :
1.4.3.1. Nhân tố chủ quan:
- Những nhân tố thuộc về ngân hàng:
Về chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng: nó không chỉ ảnh
hưởng tới sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh mà còn ảnh hưởng tới tất cả
các hoạt động khác của ngân hàng. Để phát triển tốt, chiến lược của ngân

hàng sẽ đề ra được những phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trong
từng thời kì ngắn hạn và dài hạn. Trong ngân hàng cần phải xác định rõ sản
phẩm dịch vụ nào cần tập trung phát triển, sản phẩm nào chưa cần phát triển.
Từ đó tập trung nguồn vốn, nhân lực, vật lực để phát triển sản phẩm. Nếu
chiến lược phát triển của ngân hàng có mục tiêu phát triển nghiệp vụ bảo lãnh
điều đó có nghĩa là có nhiều điều kiện về nhân lực, nguồn lực, vật lực tập
trung để có thể phát triển nghiệp vụ bảo lãnh sao cho có kết quả tốt nhất.
Chất lượng công tác thẩm định: Dù là hoạt động ngoại bảng, nhưng
cũng như hoạt động cho vay, nghiệp vụ BLNH luôn chứa đựng nhiều rủi ro.
Do đó, khi quyết định tài trợ bằng hình thức bảo lãnh, ngân hàng cần làm tốt
khâu thẩm định khách hàng nhằm hạn chế rủi ro có thể gặp phải. Trong khâu
này, ngân hàng cần xem xét khả năng tài chính của khách hàng, khả năng tự
tài trợ và phương án kinh doanh khả thi cũng như quan hệ truyền thống với
ngân hàng. Công tác thẩm định khách hàng có thể nói là cơ sở quan trọng để
đi đến quyết định bảo lãnh đúng đắn. Công tác thẩm định giúp cho ngân hàng
đánh giá chính xác những rủi ro trong một thương vụ bảo lãnh, mức kí quỹ
hay mức bảo lãnh phù hợp. Chất lượng thẩm định được nâng cao thể hiện
nghiệp vụ bảo lãnh đang được phát triển đúng hướng.

Nguyễn Thị Hồng Hiên

23

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô


Trình độ nghiệp vụ ngân hàng: Con người là nhân tố quyết định đến sự
thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của hoạt
động bảo lãnh nói riêng. Chất lượng nhân sự ngày càng được đòi hỏi cao để
có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả, thích ứng với sự thay đổi nhanh của môi
trường kinh doanh. Trong môi trường kinh doanh quyết liệt Giữa các NHTM
hiện nay thì yếu tố con người, trình độ của các bộ ngân hàng chính là một
trong nhứng công cụ cạnh tranh hữu hiệu. Đội ngũ cán bộ có đạo đức, nghề
nghiệp tốt và chuyên môn giỏi sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được
những sai phạm trong hoạt động bảo lãnh. Hơn thế nữa, việc ngân hàng đào
tạo nghiệp vụ, nâng cao tay nghề, thực hiện chuyên môn hóa cho đội ngũ cán
bộ ngân hàng sẽ giảm được chi phí nghiệp vụ và thẩm định. Do đó, ngân hàng
có thể đưa ra được biểu phí hấp dẫn, mang tính cạnh tranh cao nhưng vẫn
đảm bảo được lợi ích của ngân hàng để thu hút khách hàng.
- Một số các nguyên nhân khác như:
Công nghệ ngân hàng áp dụng ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian phân
tích, xử lý thông tin bảo lãnh cũng như để hạn chế rủi ro.
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh: Quy trình đơn giản, giảm thiểu những
thủ tục rườm rà sẽ tiết kiệm thời gian cho khách hàng trong việc yêu cầu bảo
lãnh.
1.4.3.2: Những nhân tố khách quan:
Một là: Những nhân tố thuộc về khách hàng:
Trước khi có quyết định bảo lãnh, ngân hàng cần xem xét, đánh giá
khách hàng kĩ lưỡng. Khi thẩm định khách hàng, ngân hàng phải xem xét kĩ
các nội dung sau: Khả năng tài chính của khách hàng, phương án sản xuất
kinh doanh khả thi, khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo. Các ngân hàng
cần xem xét các nội dung trên vì chúng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
hoàn thành nghĩa vụ đối với bên thụ hưởng hoặc trong trường hợp xấu nhất
sảy ra khi ngân hàng phải xuất quỹ trả tiền thay khách hàng của mình thì ngân

Nguyễn Thị Hồng Hiên


24

Lớp: TC – 13B


Khóa luận tốt nghiệp

Đại học Đông Đô

hàng vẫn có khả năng truy đòi từ người được bảo lãnh hoặc bán TSĐB để bù
đắp.
Năng lực tài chính của khách hàng:
Năng lực tài chính của khách hàng thể hiện ở khả năng tự tài trợ, khối
lượng vốn tự có, tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp,
tính lỏng của tài sản và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Khả năng tài
chính của doanh nghiệp càng cao thì khả năng đáp ứng yêu cầu của đối tác
càng lớn. Việc đánh giá năng lực tài chính của khách hàng là cần thiết vì nó
hạn chế được rủi ro có thể sảy ra.
Khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo:
Vì bảo lãnh luôn chứa đựng nhiều rủi ro, do đó ngân hàng thường yêu
cầu có TSĐB cho BLNH với hình thức cầm cố, thế chấp giấy tờ có giá, tài
sản, kí quỹ. Nếu khả năng đáp ứng các điều kiện về TSĐB của doanh nghiệp
càng lớn thì mức độ tin tưởng của ngân hàng càng cao, chất lượng hoạt động
bảo lãnh càng tốt.
Phương án sản xuất kinh doanh khả thi:
Mặc dù hợp đồng bảo lãnh độc lập với hợp đồng kinh tế. Song, khi
nhận được đơn xin bảo lãnh, các ngân hàng đều xem xét phương án kinh
doanh của doanh nghiệp. Điều đó là vì doanh nghiệp chỉ cam kết thực hiện
được cam kết với bên đối tác khi có phương án kinh doanh khả thi, có khả

năng sinh lời. Năng lực sản xuất kinh doanh được thể hiện ở: quy mô, năng
suất, quy trình sản xuất… của doanh nghiệp. Một dự án có tính khả thi cao có
thể giảm thiểu tối đa rủi ro có thể sảy ra trong suốt quá trình thực hiện dự án,
thúc đẩy nghiệp vụ bảo lãnh phát triển.
Hai là: Môi trường kinh tế xã hội là nhân tố mang tính vĩ mô tác động
tổng hòa đến mọi hoạt động kinh tế trong đó có hoạt động ngân hàng. Sự phát
triển của nghiệp vụ bảo lãnh không thể đặt ra ngoài sự phát triển chung của
toàn xã hội. Hay nói cách khác, xã hội càng phát triển càng kéo theo hoạt

Nguyễn Thị Hồng Hiên

25

Lớp: TC – 13B


×