Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

báo cáo thực hành công tác xã hội cá nhân tại làng Hữu nghị Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (434.91 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
******

BÁO CÁO THỰC HÀNH
CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN

Sinh viên: PHAN THỊ NGỌC
Lớp: K65B
GV hướng dẫn: Đặng Thị Huyền Oanh
Cơ sở thực hành: Làng Hữu nghị Việt Nam

1


2


Hà Nội, tháng 5 năm 2017LỜI

NÓI ĐẦU

“Chất độc màu da cam” – cụm từ mang tính hoá học đơn thuần này đã và
đang gây đau khổ cho biết bao thế hệ người Việt Nam. Mặc dù cuộc chiến tranh
tàn khốc mà Mỹ gây ra ở Việt Nam đã chấm dứt cách đây hơn 30 năm nhưng nỗi
đau dai dẳng mà chất độc màu da cam gây nên vẫn từng ngày từng giờ huỷ hoại
cuộc sống của nhiều người Việt Nam. Trong những con người đó có cả những thế
hệ con, cháu của những người đã từng tham gia chiến đấu bảo vệ đất nước. Đây là
nhóm đối tượng được nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan tâm bởi lẽ hơn ai hết
các em đã phải gánh chịu nhiều tổn thương về cả vật chất lẫn tinh thần. Chúng tôi
hi vọng, trong đợt thực hành công tác xã hội cá nhân này, chúng tôi sẽ có cơ hội


tìm hiểu về tâm lý của các em để có thể giúp các em một phần nào đó phát huy
được tiềm năng của mình. Đồng thời, đây cũng là cơ hội cho chúng tôi được học
hỏi, tích luỹ kinh nghiệm để hoàn thiện bản thân.
Trong quá trình thực hành, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa
Công tác xã hội, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi được
tham gia đợt thực hành bổ ích này. Tôi xin cảm ơn Kiểm huấn viên Nguyễn Thị
Loan đã nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể
cán bộ, giáo viên, các mẹ và các em tại làng trẻ Hữu Nghị Việt Nam đã giúp đỡ tôi
rất nhiều trong quá trình thực hành tại cơ sở. Đồng thời tôi cũng xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới cô Đặng Thị Huyền Oanh, giảng viên môn Thực hành công tác
xã hội 1 đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ và liên hệ cơ sở thực hành cho chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hành

Phan Thị Ngọc
3


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT

Từ, cụm từ

Viết tắt

1

Công tác xã hội


CTXH

2

Nhân viên xã hội

NVXH

3

Thân chủ

TC

4

Sinh viên thực hành

SVTH

5

Cựu chiến binh

CCB

6

Trung tâm giáo dục, hướng nghiệp
và dạy nghề


TT GD, HN và DN

7

Giáo dục đặc biệt

GDĐB

8

Thực hành kỹ năng 2

THKN2

9

Thu thập thông tin

TTTT

PHẦN 1. KHÁI QUÁT VỀ CƠ SỞ THỰC HÀNH
I. TỔNG QUAN VỀ LÀNG HỮU NGHỊ VIỆT NAM
Làng Hữu nghị Việt nam trực thuộc Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt
Nam; được thành lập theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là
4


chính phủ). Tại Thông báo số 4475-NC ngày 29 tháng 12 năm 1991 của Văn
phòng Hội đồng Bộ trưởng; là đơn vị sự nghiệp xã hội (phi lợi nhuận), hoạt động

xã hội nhân đạo, tình nghĩa và hữu nghị với sự hỗ trợ của Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ, các cá
nhân có lòng từ thiện và CCB một số nước( Đức, Mỹ, Pháp, Nhật, Canađa, Anh…)
Địa chỉ: Thôn An Trai, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Điện thoại: 04. 3837.4527; 04. 33861.329; Fax : (84 – 4) 3765.0213
E-mail:
1. Lịch sử thành lập và cơ sở pháp lý
Làng Hữu Nghị Việt Nam được thành lập theo nguyện vọng của những người trước đây
đã từng có những suy nghĩ và việc làm sai trái đối với Việt Nam, đã thức tỉnh lương tâm, ân hận
và muốn được hợp tác góp phần xoa dịu nỗi đau của những nạn nhân trong chiến tranh trước đây.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam là khép lại quá khứ,
xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai.
Nguyện vọng đó đã được sự ủng hộ của những người thành tâm từ các nước khác nhau.
Sự hợp tác của họ trong lĩnh vực nhân đạo là một đóng góp vào việc khắc phục hậu quả chiến
tranh ở Việt Nam và tăng cường mối quan hệ đoàn kết Hữu Nghị giữa các dân tộc.
Sự hợp tác này thể hiện bằng cách thông qua sự tham gia của mỗi cá nhân có thể tác động
và góp phần làm thay đổi được điều gì đó. Đúng như ông George Mizo một trong những người
có sáng kiến lập ra dự án này đã nói “you can make a difference”. – Bạn có thể làm thay đổi
được điều gì đó.
Vào năm 1988, lần đầu tiên trở lại Việt Nam sau 13 năm kết thúc chiến tranh, ông George
Mizo, một CCB Mỹ tham gia chiến tranh ở Việt Nam có nguyện vọng xây dựng một biểu tượng
của sự hàn gắn, hợp tác và hoà giải. Trong những lần trao đổi đầu tiên với Uỷ ban hoà bình
Việt Nam, sáng kiến này được nhiệt liệt hoan nghênh.
Năm 1989, tại Sứ quán Việt Nam ở Pari, ông George Mizo đã gặp ông Phạm Bình - đặc
sứ Việt Nam tại Pháp và ông George Doussin (ARAC) Hội CCB và nạn nhân chiến tranh của

5


Pháp. Họ đã cùng nhau bàn việc thành lập một dự án để giúp trẻ em và CCB Việt Nam – ý tưởng

thành lập “Làng Hữu Nghị Việt Nam” được hình thành từ đó.
Tháng 10/1990 nhóm ủng hộ quốc tế được thành lập tại Pari (Pháp) bao gồm ông George
Mizo, ông George Doussin (ARAC), ông Len Aldis (Hội Việt - Anh) và ông Takeo Yamanchi
(Hội hoà bình Nhật).
Tháng 11/1990 nhóm này đã quyết định kế hoạch xây dựng một ngôi Làng ở Việt Nam.
Ông George Mizo được bầu làm chủ tịch, Ông George Doussin làm Phó làm Phó chủ tịch và ông
Nguyễn Phúc kỳ làm thủ quỹ.
Tháng 4/1992 dự án đó được lấy tên là “Làng Hữu Nghị Việt Nam”.
Năm 1993, một số CCB và những người thành tâm ở các nước Đức, Anh, Pháp, Nhật,
Mỹ và Việt Nam cùng bàn bạc ra quyết định thành lập Uỷ ban Quốc tế về Làng Hữu Nghị Việt
Nam, mỗi nước có một uỷ ban quốc gia và Ông George Mizo là chủ tịch Uỷ ban quốc tế đầu tiên
của Làng Hữu Nghị và vào năm 2004, có thêm 1 nhóm ủng hộ Làng ở Canađa, từ đó Uỷ ban
Quốc gia Canađa được thành lập và trở thành thành viên thứ 7 của Uỷ ban Quốc tế về Làng Hữu
Nghị.
Chức năng nhiệm vụ của Uỷ ban Quốc tế về Làng Hữu Nghị Việt Nam là soạn thảo nội
dung xây dựng Làng theo bản thoả thuận của dự án và vận động sự ủng hộ về tài chính để xây
dựng cũng như bảo đảm, duy trì, phát triển các hoạt động của Làng Hữu Nghị. Uỷ ban quốc gia
Việt Nam thuộc hội CCB Việt Nam có trách nhiệm chỉ đạo và quản lý mọi hoạt động của Làng
Hữu Nghị.
Cũng trong năm 1993, được phép của Chính phủ Việt Nam, Làng Hữu Nghị Việt Nam đã
được khởi công xây dựng trên đất của cánh đồng thuộc xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà
Tây nằm bên cạnh trục đường 70 (đường thị xã Hà Đông đi Nhổn). Cách Trung tâm Hà Nội
khoảng 15km.
Ngày 18/3/1998, 6 CCB và 9 trẻ em đầu tiên đã được đưa đến Làng. Từ đó đến nay đã
được 19 năm và ngày 18/3 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của Làng.

Từ mảnh đất trũng của cánh đồng Lấm gần 3 ha thuộc xã Vân Canh, huyện
Hoài Đức, thành phố Hà Nội qua nhiều năm xây dựng và nâng cấp đã trở thành
ngôi Làng có đầy đủ nhà ở, nhà làm việc, nhà ăn, thư viện, hội trường, trung tâm
6



Giáo dục và Dạy nghề, trung tâm Y tế… cho hơn 250 người trong một quần thể
xanh, sạch, đẹp, thoáng đãng tương đối đầy đủ tiện nghi trong việc chăm sóc các
đối tượng chính sách. Từ lúc ban đầu mới đón được 6 cựu chiến binh và 9 trẻ em,
đến nay (từ năm 1998 đến năm 2012) Làng đã đón nhận được hơn 3.500 lượt cựu
chiến binh, thanh niên xung phong – nạn nhân chất độc da cam của các tỉnh từ
Quảng Bình trở ra phía Bắc về chăm sóc sức khỏe. Hàng tháng từ chỗ duy trì
thường xuyên 40 cựu chiến binh đã đưa lên 60 đến 80 cựu chiến binh nhằm đưa
được nhiều lượt cựu chiến binh về điều dưỡng, vì đa phần cựu chiến binh tuổi ngày
càng cao, sức ngày một yếu. Sau 1 tháng điều trị bệnh tật dần được ổn định không
phát triển thêm, trung bình mỗi người tăng từ 1 – 3 kg, cá biệt có người tăng 6 kg.
Đời sống văn hóa tinh thần của cựu chiến binh cũng được cải thiện. Họ được tận
mắt thấy cảnh đổi mới không ngừng của thủ đô, đất nước, được vào Lăng viếng
Bác, tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng lịch sử quân đội, đi nghỉ mát tại
Đồ Sơn và Hạ Long vào mùa hè…làm tăng niềm tin tưởng, kéo dài tuổi thọ…
Cũng trong 15 năm, số lượng các cháu được đón về Làng gần 600 cháu (thời
gian mỗi cháu ở Làng từ 2 – 3 năm) của 34 tỉnh – thành phố từ Quảng Nam - Đà
Nẵng trở ra phía Bắc do ảnh hưởng của chất độc da cam/điôxin, các cháu bị nhiều
loại bệnh tật khác nhau như dị tật vận động, teo cơ, mù, câm điếc… nhưng đa phần
là thiểu năng trí tuệ. Các cháu được chăm sóc giáo dục, phục hồi chức năng và học
nghề tùy theo khả năng từng cháu như: Tin học văn phòng, thêu tranh, học may
công nghiệp, làm hoa lụa. Từ 1 lớp giáo dục đặc biệt, đến nay đã có 5 lớp và 1 lớp
thực hành kỹ năng sống với đầy đủ trang bị cơ sở vật chất, đồ dùng học tập riêng
phục vụ cho việc dạy và học cùng với đội ngũ giáo viên có trình độ cao đẳng và
đại học – giúp các em phát triển dần về mặt trí tuệ, trước hết là tạo thói quen tự
phục vụ được bản thân. Đối với một số cháu có khả năng học văn hóa, Làng đã tổ
chức xin cho học ở các trường phổ thông ngoài Làng. Hiện tại có 10 cháu đang
theo học từ lớp 1 đến lớp 8. Năm 2012 có 1 cháu thi đỗ vào ĐH Khoa học xã hội
7



và nhân văn, 1 cháu thi đỗ vào trường cao đẳng công nghiệp, 1 cháu thi đỗ vào
trường Trung cấp Y Nghệ An, 1cháu hoàn thành khóa học lập trình viên quốc tế ở
Trung tâm Aptech - đại học bách khoa và đang làm trợ giảng ở lớp vi tính. Số cháu
trở về đa phần tự phục vụ được bản thân giúp gia đình được các công việc lặt vặt
trong nhà, nhiều cháu đã và đang làm việc ở một số cơ sở may, thêu, làm hoa lụa tự
nuôi sống được bản thân. Điều quan trọng là các trẻ có khả năng hòa nhập với cộng
đồng, xóa đi những mặc cảm làm dịu đi nỗi đau da cam. Bên cạnh đó, công tác
chăm sóc điều trị y tế ở Làng cũng được quan tâm đặc biệt, nhất là phục hồi chức
năng. Từ 1 trạm xá nhỏ đến nay Làng đã có 1 Trung tâm y tế với đầy đủ thiết bị
tương đối hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả của việc khám, điều trị bệnh tật cho
cựu chiến binh và các cháu. Làng đã gửi đi bệnh viện tuyến trên phẫu thuật chỉnh
hình chân, tay cho 50 cháu. Từ chỗ không vận động được hoặc vận động khó khăn,
các cháu đã có thể tự mình vận động được. Cùng với sự hỗ trợ của chuyên gia Đức,
Làng đã mở văn phòng tư vấn miễn phí, chẩn đoán sớm, điều trị phục hồi chức
năng cho trẻ sơ sinh, trẻ bị chậm phát triển cho hơn 100 cháu ở khu vực ngoài
Làng.
Bằng những việc làm thực tế có hiệu quả trong việc chăm sóc cựu chiến
binh và các cháu, Làng Hữu Nghị VN đã tạo được lòng tin cũng như sự tín nhiệm
của Ủy ban quốc tế Làng Hữu Nghị. Hàng năm Ủy ban quốc tế vẫn quyên góp ủng
hộ gần 50% kinh phí dành cho việc nuôi dưỡng các đối tượng đến Làng. Làng Hữu
Nghị dần dần đã trở thành điểm hẹn đến thăm, giao lưu của bạn bè quốc tế trên thế
giới đủ thành phần, lứa tuổi, học sinh, sinh viên, công chức, phóng viên, nhà khoa
học, doanh nghiệp, cựu chiến binh… Từ năm 2007 trở lại đây hàng năm có khoảng
1000 khách nước ngoài từ 50 nước đến thăm. Làng đã đón ông Darrell Steiberg,
chủ tịch thượng viện bang Califoocnia - Mỹ và Tiến sĩ Philips Rosler, Phó thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Kinh tế và Công nghệ Cộng hòa Liên bang Đức đến thăm,
các ông đều rất ấn tượng về những công việc của Làng đang làm trong việc hàn
8



gắn vết thương chiến tranh và cầu chúc cho hòa bình hạnh phúc. Ở trong nước,
ngoài các cơ quan, đoàn thể tổ chức xã hội còn có hàng nghìn tình nguyện viên của
các câu lạc bộ, đội tình nguyện, sinh viên, học sinh đến giao lưu tham gia các hoạt
động của Làng. Đặc biệt Làng luôn được sự quan tâm trực tiếp của lãnh đạo Đảng,
Nhà nước.
2. Cơ sở vật chất của trung tâm
Làng hữu nghị có diện tích là 2,7ha được quy hoạch, xây dựng hợp lý.
Bao gồm:
-

01: Nhà điều hành

-

01: Trung tâm y tế

-

01: Biệt thự

-

01: Trạm xá

-

01: Nhà ăn cho cán bộ công nhân viên nghỉ trưa (G2)


-

02: Nhà cựu chiến binh (G6, G7 )

-

01: Nhà ăn cho cựu chiến binh

-

06: Nhà ở cho các cháu (T1 - T6)

-

01: Thư viện

-

01: Khu lớp học và trung tâm dạy nghề
Ngoài ra trong khuôn viên của làng còn có sân vui chơi cho trẻ em, sân thể
dục thể thao và có vườn rau sạch. Các trang thiết bị tương đối đầy đủ đảm bảo hoạt
dộng của làng.

9


Đội ngũ cán bộ tại làng gồm 62 người trong đó trình độ đào tạo Đại học,
Cao đẳng chiếm 45%, trung cấp chiếm 30%, lao động phổ thông là 25%. Làm việc
tại các bộ phận:
-


Ban giám đốc
Trung tâm y tế
Trung tâm giáo dục, hướng nghiệp
Phòng tài chính
Phòng hành chính
Quản trị
Phòng hậu cần
Tổ bảo mẫu 1
Tổ bảo mẫu 2
Nguồn ngân kinh phí hoạt động của làng từ ngân sách nhà nước chiếm 50%,
nguồn ngân sách tài trợ của các nước thành viên của ủy ban quốc tế làng hữu nghị
chiếm 50% ( Đức, Anh, Pháp, Nhật, Mỹ, Canada). Ngoài ra làng còn nhận sự hỗ
trợ, giúp đỡ của các nhà hảo tâm, các cá nhân tổ chức trong và ngoài nước. quy chế
và mô hình quản lý tài chính thực hiện đúng quy chế quản lý của nhà nước.
3. Mục tiêu và chức năng
3.1. Mục tiêu:
Giúp các em nhiễm chất độc da cam, trẻ khuyết tật và những cựu chiến binh
đến làng được nuôi dưỡng, chăm sóc và điều trị y tế . Đồng thời đẩy mạnh hướng
nghiệp, dạy nghề cho trẻ em khuyết tật và cựu chiến binh nhằm tạo điều kiện cho
họ có thể tái hòa nhập cộng đồng .
3.2. Chức năng :

- Đón các em nhiễm chất độc da cam, trẻ em khuyết tật được nuôi dưỡng, chăm sóc
và điều trị y tế, có các lớp hướng nghiệp, dạy nghề giúp các em có thể nuôi sống
bản thân .

10



- Đón các đoàn cựu chiến binh trên cả nước về đây nghỉ ngơi, tham quan và điều
dưỡng sức khỏe .
4. Cơ cấu tổ chức và hoạt động
4.1. Cơ cấu tổ chức
Làng Hữu nghị Việt Nam trực thuộc Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
BAN GIÁM ĐỐC

CÁC BỘ PHẬN CHỨC NĂNG
PHÒNG TÀI CHÍNH
PHÒNG HÀNH CHÍNH
TRUNG TÂM GD, HN VÀ DN
TRUNG TÂM Y-TẾ
4
LỚP GDĐB
2
LỚP KN
CÁC LỚP NGHỀ

Sơ đồ 1: Cơ cấu bộ máy tổ chức của làng Hữu Nghị


Ban giám đốc:
- 1 Giám đốc: Đại tá, Kỹ sư Đinh Văn Tuyên
- 1 Phó Giám đốc: Đại tá Nguyễn Cao Cử



Phòng ban chức năng

- Chịu trách nhiệm trước thường trực trung ương Hội quản lý, điều hành, tổ chức

xây dựng, quản lý và hoạt động thực hiện nhiệm vụ của Làng.
- Làm tham mưu cho Thường trực trung ương Hội về chủ trương Hội, kế hoạch tổ chức
xây dựng và hoạt động của Làng, về các chế độ, chính sách đối với các cán bộ công
chức, viên chức, các đối tượng nuôi dưỡng và chữa trị tại Làng.

11


- Giữ mối quan hệ của Làng với các Ban của cơ quan Trung ương Hội, với địa
phương và các cơ quan đoàn thể, các tổ chức và các cá nhân có liên quan đến
Làng.
- Có 2 Trung tâm và 3 phòng chuyên môn nghiệp vụ, 3 đội nuôi dưỡng.
 Trung tâm giáo dục, dạy nghề và hướng nghiệp có nhiệm vụ:

+ Chăm sóc quản lý các cháu.
+ Tổ chức dạy văn, giáo dục hoà nhập cộng đồng.
+ Giáo dục chuyên biệt và dạy nghề.
 Trung tâm y tế: (có 1 trung tâm trưởng và 1 phó trung tâm) có nhiệm vụ:

+ Khám và điều trị phục hồi chức năng cho các đối tượng về Làng theo
tiêu chuẩn quy định.
+ Khám, tư vấn sức khoẻ ban đầu ch Cựu chiến binh và đối tượng chính
sách, cán bộ nhân viên ở Làng.
+ Tuyên truyền đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng dịch, công tác dân số
kế hoạch hoá gia đình và trẻ em trong cơ quan; ngăn chặn, bao vây dập tắt dịch
bệnh kịp thời (nếu có); tích cực tham gia hoạt động y tế cộng đồng.
+ Thực hiện công tác an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường.
+ Quản lý, phát huy hiệu quả các trang thiết bị, dụng cụ y tế hiện có.
+ Quan hệ với các bệnh viện, Trung tâm y tế khu vực, tranh thủ sự giúp
đỡ về chuyên môn và trang thiết bị y tế.

+ Quản lý theo dõi hồ sơ bệnh án chặt chẽ và khoa học.
+ Tích cực tham gia nghiên cứu khoa học và huấn luyện chuyên môn
trong ngành.
12




Phòng Hành chính - Quản trị
- Có 1 Trưởng phòng
- Nhiệm vụ:
+ Đối ngoại, lễ tân, tiếp khách, phiên dịch.
+ Thư viện, truyền thống câu lạc bộ.
+ Văn thư, lưu trữ, bảo mật, bảo vệ, lái xe.
+ Tổ chức, Lao động



Phòng Hậu cần - Đời sống
- Có 1 Trưởng phòng
- Nhiệm vụ:
+ Quản lý và đảm bảo ăn, ở, nuôi dưỡng, sinh hoạt làm việc của Làng.
+ Tổ chức tăng gia, lao động sản xuất, cải thiện đời sống cho cán bộ, công chức, viên

chức và đối tượng nuôi dưỡng.
+ Quản lý công tác xây dựng cơ bản, cải tạo sửa chữa các hạng mục công trình của

Làng.
+ Đảm bảo điện nước và quản lý các tài sản, vật tư, trang thiết bị về công tác hậu cần


của Làng.


Phòng Tài chính:
- Có 1 Trưởng phòng
- Nhiệm vụ:
+ Xây dựng kế hoạch dự toán công tác Tài chính hàng năm, quý.
+ Quản ký cơ sở vật chất của Làng.

13


+ Kiểm tra giám sát chi tiêu, kế toán tài chính.


3 đội nuôi dưỡng
- 1 đội CCB, 2 đội các cháu.
+ Mỗi đội phân công 1 đồng chí đội trưởng: Đội Cựu chiến binh do Cựu chiến binh

luân phiên nhau làm đội trưởng, 2 đội các cháu mỗi đội có 1 đồng chí đội trưởng
kiêm bảo mẫu có nhiệm vụ:
+ Trực tiếp quản lý tổ chức sinh hoạt, tham gia xây dựng đội, Làng về mọi mặt.
+ Duy trì, thực hiện các chế độ quy định của Làng.
+ Báo cáo phản ánh với Ban giám đốc những nội dung do Ban giám đốc quy định.

4.2. Các hoạt động và dịch vụ chăm sóc tại làng
- Đối tượng tiếp nhận:
+ Trẻ là con , cháu của cựu chiến binh ảnh hưởng bởi chất độc da cam.
+ Trẻ em bị khuyết tật, chậm phát triển trí tuệ.
+ Đoàn cựu chiến binh ở độ tuổi 60 trở lên từ các tỉnh trên cả nước.

- Làng hữu nghị là nơi nuôi dưỡng đón nhận những trẻ em bị nhiễm chất độc màu da
cam. Hằng năm thông qua Hội Cựu Chiến Binh ở các tỉnh Quảng Ngãi trở ra làng
tiến hành xuống từng tỉnh để đón các cháu về nuôi.
- Mỗi ngày trẻ được nhân chế độ ăn uống là 50.000 đồng chia làm 4 bữa sáng, trưa,
chiều, tối. Làng có bộ phận hậu cần để lo ăn uống cho các trẻ em, mỗi nhà có 2 mẹ
nuôi trông coi và chăm sóc các em. Bữa sáng và tối các em được phát đồ ăn như
xôi, bánh mỳ, sữa…Bữa trưa và chiều các em được ăn cơm tại nhà ăn của làng.

14


- Làng có các lớp dạy văn hóa cho trẻ, lớp giáo dục đặc biệt từ 1 tới 4, những trẻ
thuộc từ lớp 5 trở đi sẽ được làng gửi đi học bên ngoài và có những chính sách đưa
đón đi học.
- Nếu các em bị ốm đau nặng thì sẽ được làng đưa đi khám tại các bệnh viện quân
đội mà không phải chi trả viện phí và các khoản chi phí khác.
- Tại đây các em còn được học nghề với 4 lớp nghề là: làm hoa, may, thêu và học vi
tính. Nếu các sản phẩm các em làm ra tiêu thụ được thì các em được hưởng.
- Các em thường xuyên được làng tổ chức đi chơi, thăm quan cũng như xem và tham
gia các trương trình giải trí.
- Các em được thanh toán tiền tàu xe mỗi khi về các dịp lễ tết.
- Các em được hưởng đầy đủ các hoạt động giải trí như xem phim, chơi thể thao…
- Các em được làng hô trợ hoàn toàn về quần áo và đồ dung sinh hoạt hàn ngày.
- Các em thường xuyên nhận được quà từ các đoàng tình nguyện và các tổ chức tình
nguyện vào thăm.
- Ngoài ra các em còn được hưởng rất nhiều chính sách khác.
5. Vai trò của cơ sở trong bối cảnh của cộng đồng
Làng Hữu Nghị Việt Nam đã góp một phần lớn cùng với Đảng, Nhà nước và
các tổ chức xã hội khác xoa dịu nỗi đau thương, mất mát của CCB và trẻ em nhiễm
chất độc da cam. Đưa những số phận kém may mắn hòa nhập với cộng đồng xã

hội, giúp cho những người là nạn nhân của chiến tranh có một cuộc sống tốt hơn,
đào tạo nghề, phục hồi chức năng để họ có thể tự chăm sóc bản thân, lao động
giảm bớt gánh nặng gia đình. Bên cạnh đó, kêu gọi tinh thần đoàn kết, tương thân
tương ái trong cộng đồng thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

15


Đây là nơi được biết đến như một kiểu mẫu về sự hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực nhân đạo nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh. Những hoạt động có hiệu quả
đã cho thấy, nơi này thực sự là một ngôi làng sống động, ở đó, các CCB và trẻ em
bị nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin được nuôi dưỡng, chăm sóc, chia sẻ cuộc sống
với nhau.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng được sự chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời của Hội
cựu chiến binh Việt Nam và sự động viên, giúp đỡ tích cực về tài chính của Ủy ban
Quốc tế Làng Hữu Nghị Việt Nam, các bộ, ban, ngành T.Ư và các địa phương, đặc
biệt là Bộ Quốc phòng đã tặng Làng 120 giường, 60 tủ bằng Inox, thay thế cho số
giường tủ bị hư hỏng do trận mưa lụt lịch sử năm 2008 gây ra; tặng một xe ô tô 29
chỗ và hàng năm tiếp tục hỗ trợ xăng dầu, thuốc chữa bệnh phục vụ cho các đối
tượng ở Làng. Bên cạnh đó là sự quan tâm chia sẻ, giúp đỡ của các tổ chức và cá
nhân trong và ngoài nước, sự cộng tác tích cực của các tình nguyện viên, sự tận
tâm phục vụ của cán bộ, nhân viên của Làng, nên các hoạt động ở đây đã phát triển
tốt đẹp với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, gây được ấn tượng sâu sắc ở
trong nước và quốc tế.
Hàng chục nghìn lượt người từ các quốc gia trên thế giới và trong nước đã
đến thăm, tặng quà và chia sẻ mọi khó khăn. Nhờ đó, Làng Hữu Nghị đã làm tốt
nhiệm vụ chăm sóc, nuôi dưỡng các đối tượng là nạn nhân chất độc da cam/đi-ôxin được đưa đến Làng, góp phần xoa dịu nỗ đau da cam.
Trong nuôi dưỡng và phục hồi chức năng, Làng Hữu Nghị luôn chú trong
việc điều chỉnh mức ăn do biến động của giá cả thị trường, đồng thời duy trì vườn
rau hữu cơ vừa tạo cảnh quan môi trường, vừa có rau sạch cung cấp cho bếp ăn,

mỗi năm thu được từ 3 đến 3,5 tấn rau.
Chăm sóc, chữa trị bệnh tật là vấn đề luôn được chú trọng bằng phương
pháp đông tây y kết hợp, đã góp phần phục hồi chức năng cho cựu chiến binh và
các cháu bước đầu đạt kết quả tốt. Bên cạnh đó, Làng Hữu Nghị đã khám, điều trị
16


tại Làng cho đối tượng CCB gần 600 lượt người; đưa đi khám và điều trị ở các
bệnh viện quân đội hơn 50 lượt người; cấp thuốc điều trị hàng ngày cho hơn
10.000 lượt người. Đối với trẻ em, đã khám và điều trị cấp tỉnh cho hơn 1.000 trẻ
em, đưa đi chỉnh hình cho 4 em…
Công tác giáo dục dạy nghề luôn được xác định là một nhiệm vụ trung tâm của
Làng Hữu Nghị, bởi nơi đây sẽ giúp các cháu xóa đi những mặc cảm về tật nguyền,
vươn lên trong học tập để sớm trở về hòa nhập với cộng đồng. Để duy trì được 5 lớp
giáo dục đặc biệt và 4 lớp tin học, may thêu, làm hoa lụa, mỗi lớp từ 12 đến 15 cháu,
đòi hỏi các giáo viên ở đây phải có lòng kiên trì, giàu lòng yêu trẻ, coi các cháu như
con mình. Các lớp thêu, may, làm hoa đã tạo ra được gần 20.000 sản phẩm các loại
với nhiều mẫu mã mới… Những cháu có khả năng học tập đã được gửi học ở các
trường phổ thông. Hiện có 3 cháu khiếm thính theo học ở Trường câm điếc Xã Đàn, 2
cháu học tiểu học, 5 cháu học phổ thông cơ sở, 4 cháu học phổ thông trung học, một
cháu học năm cuối Trường đại học Khoa học xã hội nhân văn. Những kết quả đạt
được trong mấy năm qua đã góp phần cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho các
CCB và các cháu tại Làng Hữu Nghị.
Những ảnh hưởng của Làng Hữu Nghị đã vang xa và ngày càng có nhiều tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước đến thăm, tìm hiểu, giúp đỡ về nhiều mặt. Trong
3 năm, có gần 2.000 lượt khách của 250 đoàn từ 35 quốc gia trên thế giới đã đến
thăm Làng. Nhiều tổ chức và cá nhân bày tỏ nguyện vọng mở rộng các dịch vụ,
ủng hộ dự án này trong tương lai và đóng góp cho sự phát triển của Làng thông
qua việc hợp tác, xây dựng cơ sở vững chắc, khắc phục những khó khăn trong quá
trình thực hiện trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe, giáo dục đặc biệt, dạy

nghề, tương lai của vườn rau hữu cơ, xử lý nước thải, an toàn về điện… Đồng thời
hoàn thành việc xuất bản cuốn lịch sử về quá trình hình thành và phát triển của
Làng Hữu Nghị.

17


Những hoạt động thành công của Làng Hữu Nghị những năm qua đã gây
được những ấn tượng sâu sắc đối với dư luận trong nước và quốc tế về một biểu
tượng của sự hợp tác quốc tế vì hòa bình, nhân ái nhằm khắc phục hậu quả chiến
tranh, đặc biệt đối với nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin. Xây dựng Làng Hữu
Nghị thành một làng kiểu mẫu trong hoạt động từ thiện, biểu tượng của tình hữu
nghị hợp tác và hòa giải để biến giấc mơ của ông Gióoc-giơ Mai-dô thành hiện
thực về “Một tượng đài sống để minh chứng những gì mà con người trên thế giới
có thể thực hiện khi họ cùng làm việc trong tư thế bạn bè”.
6. Ý kiến đánh giá và nhận xét của sinh viên về cơ sở thực hành
Làng Hữu nghị Việt Nam luôn luôn đặt lên hàng đầu việc chăm sóc sức
khỏe, phục hồi chức năng cho các em và các bác CCB. Làng tổ chức cho các em
được vui chơi, được học tập, được chăm sóc. Với thái độ làm việc chuyên nghiệp,
nghiêm túc và tận tình trong công việc thì Làng thực sự là một trung tâm có môi
trường làm việc hết sức tiến bộ và là địa chỉ tin cậy của các phụ huynh và cộng
đồng.
Các nhân viên cùng với đội ngũ giáo viên có chuyên môn cao, có lòng yêu
nghề và yêu trẻ, luôn mong muốn làm việc lâu dài với trẻ em để có thể giúp cải
thiện tình trạng sức khỏe, giúp trẻ phục hồi chức năng, bỏ qua mặc cảm phát huy
năng lực của các trẻ.
Đặc biệt là các mẹ nuôi của trẻ luôn yêu thương và chăm sóc các em như
con cháu của mình. Các mẹ đã hi sinh hạnh phúc cá nhân, dành tất cả thời gian ở
bên, chăm sóc cho trẻ cảm nhận được mái ấm gia đình khi được đưa vào Làng
sống.

Về cơ sở, vật chất được trang bị đầy đủ và không ngừng nâng cao đảm bảo
cho việc học tập, vui chơi và sức khỏe cho các em cũng như của các bác cựu chiến

18


binh. Nhất là hệ thống y tế, đội ngũ cán bộ y bác sĩ và các công cụ máy móc hiện
đại luôn túc trực và làm việc tận tình.
Làng còn có các câu lạc bộ, khu vui chơi…cho đời sống tinh thần thêm
phong phú hơn. Đó là những điều mà bản thân cảm nhận được khi tìm hiểu về
Làng, với những chiến lược, mô hình và điều kiện cơ sở vật chất hiện đại…đó là
những điều kiện tốt phục vụ các trẻ và các đoàn CCB khi đến với Làng, những
con người nơi đây vẫn hàng ngày, hàng giờ cống hiến hết mình vì sự phát triển bền
vững, lâu dài của các trẻ và niềm vui của các phụ huynh, người thân của họ. Đây
thật sự là một ngôi nhà mang đến niềm tin hạnh phúc cho gia đình và cộng đồng,
xã hội. Một điểm đặc biệt đó là Làng kết hợp việc nhận nuôi, chăm sóc giáo dục
không chỉ đối với trẻ ảnh hưởng bởi chất độc da cam mà còn hàng năm còn đón
các đoàn cựu chiến binh ở các tỉnh thành về đây nghỉ ngơi, điều trị.
Qua các kênh thông tin đại chúng, sự chia sẻ của ban giám đốc trung tâm và
đặc biệt là thông qua quá trình thực hành trong vòng 4 tuần tại trung tâm thì bản
thân tôi nhận thấy trung tâm có những thuận lợi và khó khăn như sau:
6.1. Về thuận lợi
- Trung tâm có bộ máy lãnh đạo và quản lý chặt chẽ, khoa học. Công tác quản lý
được thực hiện tốt.
- Trung tâm có sự quan tâm và hỗ trợ nguồn kinh phí của nhà nước và các tổ chức cá
nhân trong và ngoài nước. Tạo điều kiện tốt để trung tâm có thể hoạt động và phát
triển.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật tại trung tâm được quan tâm đầu tư, cơ sở vật chất tốt góp
phần tạo điều kiện cho việc phục vụ sinh hoạt và đời sống của các thành viên trong
trung tâm.


19


- Ngay tại trong trung tâm có sẵn một trung tâm y tế, điều này tạo thuận lợi cho việc
khám chữa bệnh kịp thời, đảm bảo tất cả mọi người có cơ hội tiếp cận với dịch vụ
y tế tốt nhất.
- Trung tâm giáo dục có đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm. Có
nhiệt huyết và lòng yêu nghề góp phần chăm sóc và dạy dỗ tốt cho các em tại trung
tâm.
- Trung tâm giáo dục ngoài các lớp GDĐB ra thì còn có các lớp nghề, các lớp tự lực
và lớp nấu ăn. Tạo điều kện tốt cho các em ngoài công việc học kiến thức cơ bản
thì còn được học những kỹ năng cần thiết để có thể thự phục vụ cho bản thân và
gia đình khi tái hòa nhập cộng đồng,
- Là một trung tâm hiện đại với những chuyên gia giàu kinh nghiệm, đội ngũ các bộ
giảng viên có trình độ chuyên môn, nhiệt tình và tâm huyết với nghề.
- Phong cách làm việc của các cán bộ trong trung tâm vô cùng chuyên nghiệp nhưng
cũng rất gần gũi, thân thiện.
- Không gian sống, học tập và làm việc tại làng rất trong lành, bình yên tạo cho mỗi
vị khách khi đến với Làng có cảm giác thoải mái và dễ chịu.
6.2. Về khó khăn:
- Nguồn ngân sách của trung tâm còn hạn chế, do đó gây khó khăn cho cả quá trình
đánh giá, can thiệp cũng như chế độ dành cho cán bộ giảng viên của trung tâm.
Ngân sách hạn chế cũng gây khó khăn cho việc đầu tư trang thiết bị, đồ dùng cho
việc đánh giá và can thiệp cho trẻ.
- Thiếu nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực nam (trung tâm giáo dục).
- Thiếu nhân viên công tác xã hội, các chuyên viên tâm lý và các giáo viên chuyên
ngành giáo dục đặc biệt. Đặc biệt là thiếu mất vai trò của Tham vấn viên trong việc

20



hỗ trợ cho bản thân những em nhỏ và những CCB ở đây, những thân nhân, người
nhà của những đối tượng đó.
- Thiếu giáo viên, tình trạng 1 lớp 1 giáo viên trong khi đó số lượng học sinh có lớp
lại lên tới hơn 10 em, không có thời gian chỉ dạy các em một cách chi tiết. Trong
khi đó đối tượng trẻ ở tại trung tâm thì rất đặc biệt, hầu hết các em đều có nhiều
vấn đề.

21


PHẦN 2. BÁO CÁO THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
CÁ NHÂN
I.

BỐI CẢNH CHỌN THÂN CHỦ
TT GD, HN và DN của làng Hữu Nghị có 4 lớp GDĐB và các lớp nghề,
trong đợt thực hành này NVXH làm việc với các em tại lớp THKN2. Trong lớp có
10 em, các em trong lớp là những em lớn và mức độ nhận thức của các em là hơn
so với mặt bằng chung trong 4 lớp GDĐB. Tuy nhiên cũng có rất nhiều khó khăn
trong quá trình lựa chọn thân chủ của NVXH. Tuần đầu tiên, NVXH đã dành thời
gian để quan sát, làm quen và trò chuyện với các em trong lớp. Trong lớp có 3 em
khuyết tật câm điếc, còn lại các em đều có ngôn ngữ, có thể nghe và nói. Sau một
tuần tìm hiểu về các em, chia sẻ khó khăn và được sự giúp đỡ của Kiểm huấn viên,
NVXH đã quyết định giúp đỡ 1 em tại lớp, quá trình chọn thân chủ cụ thể như sau:
- Ngày đầu tiên đến cơ sở thực hành, tâm trạng của NVXH có chút lo lắng, hồi hộp.
Sau khi họp với Lãnh đạo Làng, trưởng nhóm Kiểm huấn viên và Giáo viên hướng
dẫn xong, NVXH được phân vào lớp THKN2 cùng với 2 bạn khác. NVXH bước
vào lớp lúc gần 10h sáng, lúc đó các em đang chuẩn bị thưởng thức món ăn mà

mình vừa cùng làm với giáo viên. Trái ngược với sự lo lắng của NVXH, các em
trong lớp rất thân thiện, cười nói với NVXH, hơn nữa Kiểm huấn viên cũng rất
nhiệt tình giới thiệu chung về lớp cho NVXH, làm vơi đi sự hồi hộp, lo lắng của
NVXH. Trong lúc đó, một em nữ thấp, gầy tỏ vẻ rất vui khi NVXH trò chuyện với
em, cứ cách một lúc, em lại hỏi: “Chị, chị đến một mình à?” trong khi NVXH đi
cùng 2 bạn khác vào lớp. Từ đó, NVXH đã chú ý đến em.
- Những ngày tiếp theo, em nữ kia vẫn thường xuyên hỏi lại câu “Chị đến một mình
à?”. Trong quá trình quan sát, NVXH nhận thấy em ấy rất nghe lời giáo viên và cả

22


NVXH, tuy nhiên em lại rất dễ mất tập trung, trí nhớ rất kém. Kỹ năng tự phục vụ
của em không tốt, nhận thức kém so với các bạn trong lớp.
- Qua 1 tuần quan sát, tiếp xúc trò chuyện cùng các em, được sự giúp đỡ của Kiểm
huấn viên, tôi đã quyết định lựa chọn em L. M làm thân chủ của mình. Trong lớp
THKN2, có thể nói tất cả các em đều có những vấn đề cần giải quyết, đều cần tới
sự giúp đỡ của NVXH, nhưng M là em nhỏ đặc biệt và để lại ấn tượng sâu sắc đối
với tôi, bản thân em gặp những khó khăn cũng hết sức đặc biệt và cần tới sự giúp
đỡ kịp thời của nhân viên xã hội.
II. HỒ SƠ XÃ HỘI CỦA THÂN CHỦ


Thông tin cá nhân thân chủ:
Họ và tên: Nguyễn Thị L. M
Giới tính: Nữ
Ngày tháng năm sinh: 10/6/1996
Nơi sinh: Trực Nội – Trực Ninh – Nam Định
Năm vào làng: 2009
Dạng tật chính: Chậm phát triển tâm thần, thiếu tập trung chú ý




Thông tin về gia đình:
Họ và tên bố: Nguyễn Văn H
Dân tộc: Kinh
Nghề nghiêp: Làm ruộng
Địa chỉ : Trực Nội – Trực Ninh – Nam Định
Điện Thoại: 0350.394.6640
Gia đình có 4 anh chị em: Có 3 người thiểu năng trí tuệ (1 người đã chết), 1 người
bình thường.
23




Các thông tin khác về thân chủ:

- Tình trạng sức khỏe thể chất của TC: sức khỏe tốt, tuy nhiên tay hơi yếu không vận
chuyển được đồ nặng.
-

Tình trạng sức khỏe tâm thần: TC chậm phát triển trí tuệ, thiếu tập trung chú ý,
nhanh quên dù được nhắc lại nhiều lần.

- Tình trạng mối quan hệ tại trung tâm: TC ở tại nhà T2 của khu nhà dành cho các
em. TC do mẹ Hiền chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý. Trong ngôi nhà chung, TC
ngủ cùng phòng với Tiềm và Liên. Trên lớp, TC có mối quan hệ tốt với các bạn.



Thông tin về môi trường của TC:

- Gia đình TC: bố, mẹ đã lớn tuổi, sức lao động hạn chế. TC là con thứ 3 trong gia đình
có 4 anh chị em: Có 3 người thiểu năng trí tuệ ( 1 người đã chết), 1 người bình thường là anh trai
TC. Mỗi năm, TC được anh trai đón về 1 lần là vào dịp Tết Nguyên Đán, bố mẹ gọi điện hỏi
thăm 1 đến 2 lần mỗi năm.

- Tại Làng, TC ở nhà T2, được mẹ nuôi, giáo viên, cán bộ Làng quan tâm chăm sóc, được vui chơi
với bạn bè.


Vấn đề của TC:

- Từ những thông tin ban đầu thu được, có thể khái quát vấn đề mà thân chủ đang
gặp phải hiện tại:
+ Tay yếu, không mang được đồ nặng.
+ Tư duy chậm phát triển, thiếu tập trung chú ý, nhanh quên.
+ Đôi khi còn nói ngọng.
+ Kiến thức còn hạn chế: chưa biết nhận biết màu sắc, không biết bảng
chữ cái và số đếm từ 1 đến 10, không viết và đánh vần được tên của mình dù giáo
viên đã dạy rất nhiều.
24


III.

KẾ HOẠCH TÁC NGHIỆP

Thời gian


Hoạt động

-

Mục đích

Kỹ năng

Buổi đầu đến cơ sở thực hành:

+ Chào hỏi, làm quen với ban lãnh
đạo, các cán bộ, kiểm huấn viên
và các em tại Làng.

- Đưa ra cái nhìn tổng

-

hợp

- Bước đầu tiếp cận với thân chủ-

Tiếp cận thân chủ.

quát về cơ sở thực
hành để nhận định
- Kĩ năng giao tiếp để làm quen
những thuận lợi và và tạo ấn tượng ban đầu với cơ
+ Tìm hiểu về trung tâm (lịch sử khó khăn với bản
sở.

hình thành, cơ sở vật chất, cơ cấu thân.
tổ chức,…)
- Kỹ năng quan sát, lắng nghe để
Tuần 1
- Tạo dựng mối quan có cái nhìn tổng quát về cơ sở
(từ ngày - Tìm hiểu thông tin cụ thể hơn hệ thân thiết với cơ thực hành và đặc thù các đối
17/4 đến về cơ sở thực hành.
sở.
tượng.
21/4)
- Trò chuyện, tiếp xúc với các - Học hỏi kinh nghiệm
- Kỹ năng thu thập thông tin để
em, đem lại cho các em sự an từ kiểm huấn viên để
có những thông tin đầy đủ và
toàn và thân thiện.
chủ động hơn trong chính xác nhất về cơ sở thực
- Hỗ trợ kiểm huấn viên trong thời gian tới.
hành.
việc dạy và quản lý lớp học.
- Chọn thân chủ thích
Quan sát các em để chọn thân
chủ.

Tuần 2 (từ
ngày 24/4
đến 28/4)

thông qua trò chuyện.
- Tìm hiểu thông tin cơ bản củathân chủ (tên, tuổi, quê quán,
hoạt động thường ngày,…)

- Trò chuyện, trao đổi, tâm sựvới thân chủ để hiểu được tâm lý
cũng như mong muốn của thân
chủ.
- Nghiên cứu sâu về hồ sơ cánhân của thân chủ, bên cạnh đó
trao đổi, xác nhận thông tin của
thân chủ với người phụ trách và
kiểm huấn viên.

-

Nhận biết được tâm
lý, thái độ của thân
chủ.

Kĩ năng tổ chức các hoạt động
ngoại khóa tạo mối quan hệ tốt
với các đối tượng tại cơ sở thực
hành.

Xác định các vấn đề
thân chủ đang gặp
phải.
- Kĩ năng quan sát, lắng nghe,
tóm lược thông tin để tóm tắt
Xác định vấn đề ưu những thông tin ban đầu về
tiên của thân chủ để thân chủ.
giải quyết trong thời
- Kĩ năng đặt câu hỏi nhằm khai
gian thực hành.
thác những thông tin cần thiết

cho tiến trình trợ giúp sau này.

-

Giai đoạn trọng tâm trong tiến
trình trợ giúp giải quyết vấn đề

Kỹ năng giao tiếp để làm quen
với thân chủ.

Kĩ năng xây dựng kế hoạch phù
hợp với hoàn cảnh của thân
chủ và năng lực bản thân.
- Đưa ra những - Tuân thủ các nguyên tắc
trong công tác xã hội cá nhân
phương án trợ giúp

25


×