Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.97 KB, 58 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Phạm Quỳnh Như Ý – sinh viên Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
Khoa Luật Thương Mại, Khóa 35 (2010 – 2014), là tác giả của Khóa luận tốt nghiệp
Cử nhân Luật – Chuyên ngành Luật Thương Mại – Đề tài: “Mối quan hệ pháp lý giữa
cổ đông và người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam” được trình bày trong tài
liệu này (sau đây gọi là “Khóa luận”).
Tôi xin cam đoan rằng các nội dung được trình bày trong Khóa luận này là công
trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sỹ Bùi
Thị Thanh Thảo – Giảng viên Khoa Luật Thương Mại, Trường Đại học Luật TP. Hồ
Chí Minh. Mọi kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học khác được sử dụng
trong luận văn này đều được giữ nguyên ý tưởng và được trích dẫn phù hợp.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
TP. Hồ Chí Minh, ngày…tháng…năm 2014.
Sinh viên thực hiện

Đinh Thị Xuân Ý


LỜI CẢM ƠN
-----Lời đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh đã dạy dỗ, truyền đạt kiến thức cho tác giả trong thời gian
qua.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ths. Bùi Thị Thanh Thảo đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Do hạn chế về trình độ nghiên cứu nên chắc chắn khóa luận còn rất nhiều thiếu
sót, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô và các bạn. Tác giả xin
chân thành cảm ơn.


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


Chữ viết tắt

Viết đầy đủ

1. BKS

Ban kiểm soát

2. CTCP

Công ty cổ phần

3. CTĐC

Công ty đại chúng

4. ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

5. GĐ/TGĐ

Giám đốc/Tổng giám đốc

6. HĐTV

Hội đồng thành viên

7. HĐQT


Hội đồng quản trị

8. LDN 2005

Luật Doanh nghiệp năm 2005

9. Người QLCT

Người quản lý công ty

10. TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài..............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu..................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................................3
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn..................................................3
7. Bố cục của đề tài.........................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CỔ ĐÔNG VÀ
NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.................................................5
1.1 Khái quát chung về người quản lý trong công ty cổ phần................................5
1.1.1. Khái niệm người quản lý công ty......................................................................5
1.1.1.1. Định nghĩa.......................................................................................................5
1.1.1.2. Đặc điểm của người quản lý trong công ty cổ phần.....................................10

1.1.1.3. Phân loại người quản lý công ty...................................................................13
1.1.2. Cơ sở hình thành người quản lý công ty..........................................................16
1.2. Khái quát về mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý trong công
ty cổ phần............................................................................................................... 18
1.2.1. Đặc điểm của mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý trong công ty cổ
phần............................................................................................................................19
1.2.1.1. Mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty là mối quan hệ đại diện
....................................................................................................................................19
1.2.1.2. Có sự tách bạch giữa người chủ sở hữu và người quản lý trong công ty cổ
phần............................................................................................................................21
1.2.2. Cơ sở pháp lý và nguyên tắc áp dụng các quy định về mối quan hệ giữa cổ
đông và người quản lý trong công ty cổ phần...........................................................24
Kết luận Chương 1...................................................................................................25


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CỔ
ĐÔNG VÀ NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN – THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN NGHỊ..........................................................................................................26
2.1. Các quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong mối quan hệ với người quản lý
công ty....................................................................................................................... 26
2.1.1. Quyền của cổ đông trong quan hệ hình thành người quản lý công ty............26
2.1.2 Quyền của cổ đông trong quan hệ giám sát người quản lý công ty................29
2.1.2.1. Quyền kiểm soát các giao dịch tư lợi...........................................................29
2.1.2.2. Quyền tiếp cận thông tin...............................................................................32
2.1.3. Quyền của cổ đông trong việc khởi kiện người quản lý công ty....................36
2.1.4. Nghĩa vụ của cổ đông trong mối quan hệ với người quản lý công ty.............41
2.2. Các quyền và nghĩa vụ của người quản lý công ty trong mối quan hệ với cổ
đông........................................................................................................................... 41
2.2.1. Quyền của người quản lý công ty trong mối quan hệ với cổ đông.................41
2.2.2. Nghĩa vụ của người quản lý công ty trong mối quan hệ với cổ đông.............44

2.3. Một số kiến nghị về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty theo
Luật doanh nghiệp...................................................................................................48
Kết luận Chương 2...................................................................................................51
KẾT LUẬN.................................................................................................................52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình toàn cầu hóa thì Việt Nam cũng đang dần chuyển mình từ
nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế thị trường đầy tiềm năng như hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam chính thức
gia nhập WTO thì các chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư ngày càng được chú
trọng, số lượng các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không ngừng tăng lên cùng
với đó là sự quan tâm đến hoạt động đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các nhà đầu
tư trong nước.
Để đáp ứng được với nhu cầu cấp thiết của thị trường cũng như của các nhà đầu
tư thì nhiều công ty với đa dạng về loại hình được thành lập, trong đó công ty cổ phần
có lẽ là loại hình phổ biến nhất. Các nhà đầu tư luôn mong muốn số tiền của mình ngày
càng tăng lên nên họ thường phải cân nhắc suy nghĩ cẩn thận trước khi muốn đầu tư
vào một lĩnh vực nào đó, vì đôi khi hoạt động đầu tư chứa đựng những rủi ro mà nhà
đầu tư không lường trước được. Lựa chọn hàng đầu của nhà đầu tư thường là các công
ty đã có vị thế trên thị trường, có hoạt động kinh doanh hiệu quả. Tuy nhiên, hầu hết
các nhà đầu tư chỉ mong muốn tìm kiếm lợi nhuận từ việc đầu tư mà không quan tâm
đến hoạt động quản lý, điều hành của công ty. Trong khi đó, công ty có hoạt động kinh
doanh hiệu quả hay không thường phụ thuộc vào tài năng của người quản lý công ty.
Mặc dù vậy, các nhà đầu tư thường bỏ qua điều này, không quan tâm và cũng không
biết có mối quan hệ gì với những người quản lý công ty, những người sử dụng đồng
tiền của họ để thực hiện hoạt động kinh doanh, như vậy, các nhà đầu tư sẽ khó có thể
bảo vệ tài sản của mình khi không biết rõ những quyền lợi mà họ có đối với người tạo

ra lợi ích cho họ là những người quản lý công ty. Bên cạnh đó, trong công ty cổ phần,
số lượng nhà đầu tư rất lớn và đa dạng từ mọi thành phần kinh tế, các nhà đầu tư góp
vốn vào công ty cổ phần để trở thành cổ đông với tư cách là chủ sở hữu của công ty. Vì
người quản lý công ty thường nắm trong tay quyền quản lý, điều hành nên họ có lợi thế
hơn cổ đông về nhiều phương diện cũng như có khả năng gây thiệt hại cho cổ đông nên
để có thể bảo vệ lợi ích tốt nhất của mình, đòi hỏi các cổ đông phải hiểu rõ được mối
quan hệ giữa họ với các nhà quản lý trong công ty cổ phần.
Hiểu biết được mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty là điều rất
cần thiết và quan trọng đối với cổ đông, bởi nếu hiểu rõ về vấn đề này không những
giúp cổ đông có thể tự bảo vệ mình mà còn tránh được những thiệt hại cho công ty do
người quản lý công ty gây ra trong tương lai. Nhưng để có thể hiểu rõ được mối quan
hệ pháp lý giữa các cổ đông và người quản lý công ty là một việc không dễ dàng đối
1


với các cổ đông cũng như các nhà đầu tư trong tương lai. Trên thực tế cũng không có
bao nhiêu cổ đông hiểu rõ được mối quan hệ giữa họ với người quản lý công ty cổ
phần. Hơn nữa, Luật Doanh nghiệp 2005 hiện nay còn nhiều quy định bất cập, không
rõ ràng liên quan đến việc điều chỉnh mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công
ty cho nên vấn đề này cần thiết phải được nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao tính
hiệu quả cũng như hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật doanh nghiệp khi Luật doanh
nghiệp 2005 chuẩn bị được sửa đổi. Do đó, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề
trên, tác giả thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Mối quan hệ pháp lý giữa cổ
đông và người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Khi khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài, người viết nhận thấy rằng: khóa luận
này không phải là đề tài đầu tiên nghiên cứu về mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và
người quản lý công ty cổ phần. Trước đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề
này, như:
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần So sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật Vương quốc Anh” của tác giả Nguyễn

Hoàng Thùy Trang.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật
Doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Thái
Vân.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Kiểm soát giao dịch tư lợi của người quản lý
công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005” của tác giả Lý Đặng Thư.
- Luận văn Cử nhân Luật học “Pháp luật về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần” của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng.
- Luận văn Cử nhân Luật học “Pháp luật bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần ở Việt Nam” của tác giả Trương Thị Hồng Hoa.
- “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, bài
viết trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2007 của tác giả Bùi Xuân Hải.
- “Trách nhiệm “người quản lý” theo luật công ty Việt Nam” bài viết trên tạp
chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2014 của tác giả Lê Đức Nghĩa.
Ngoài ra, còn nhiều bài viết đăng trên các bài báo, tạp chí và các websites liên
quan đến việc điều chỉnh mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty.

2


Tuy nhiên, các công trình này chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một khía cạnh nào
đó trong mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty mà chưa đi sâu vào phân
tích tổng thể các mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty. Do đó, người viết
muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống cơ sở pháp lý, những vấn đề lý luận và
thực tiễn về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty trong công ty cổ phần.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài này là nhằm nghiên cứu, tìm hiểu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến người quản lý công ty cũng như mối quan
hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật và

những tồn tại trong thực tiễn về mối quan hệ này. Từ đó đưa ra những kiến nghị để
hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung vào việc nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về mối quan hệ giữa cổ đông và người
quản lý công ty trong pháp luật doanh nghiệp Việt Nam để từ đó đưa ra một số kiến
nghị để góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng của các
quy định pháp luật trong thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu dựa trên nền tảng tư duy
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của khoa học Mác – Lê
Nin.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
a. Ý nghĩa khoa học:
Luận văn đã nghiên cứu tương đối đầy đủ cơ sở lý luận và thực trạng áp dụng
pháp luật về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty trong pháp luật doanh
nghiệp Việt Nam, bên cạnh đó, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật liên quan đến việc điều chỉnh mối quan hệ giữa cổ đông và người
quản lý công ty cổ phần.
b. Ý nghĩa thực tiễn:
Những nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho những ai quan tâm, đó có thể là những người làm công tác khoa
3


học, các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư tương lai trong công ty cổ phần và
đặc biệt là sinh viên các trường có chuyên ngành luật.
Ngoài ra, một số kiến nghị được nêu ra trong luận văn có ý nghĩa nhất định
trong việc hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý

công ty cổ phần khi Luật Doanh nghiệp 2005 chuẩn bị được sửa đổi.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2
chương:
Chương 1: Khái quát chung về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý
trong công ty cổ phần.
Chương 2: Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa cổ đông và người quản
lý trong công ty cổ phần – Thực trạng và kiến nghị.

4


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CỔ ĐÔNG VÀ
NGƯỜI QUẢN LÝ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1 Khái quát chung về người quản lý trong công ty cổ phần
1.1.1 Khái niệm người quản lý công ty
1.1.1.1 Định nghĩa
Quản lý là một hoạt động quan trọng diễn ra trong nhiều lĩnh vực của đời sống
xã hội. Quản lý chính là việc tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu
nhất định trong từng lĩnh vực khác nhau. Trong trường phái quản trị học cũng như
trong các lĩnh vực khác, khái niệm quản lý được giải thích theo nhiều góc độ khác
nhau, do đó, để có thể hiểu rõ được khái niệm quản lý thì tùy vào mỗi lĩnh vực khác
nhau mà hướng tiếp cận cũng khác nhau.
Mặc dù khái niệm quản lý vẫn chưa có sự thống nhất nhưng nhìn chung hoạt
động quản lý được cấu thành từ nhiều yếu tố, đó là chủ thể quản lý, khách thể quản lý,
mục đích quản lý, môi trường và điều kiện tổ chức 1. Trong đó, chủ thể quản lý là một
nhân tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả của hoạt động quản lý, đặc biệt
là trong các tổ chức kinh tế nói chung và các công ty nói riêng. Hoạt động quản lý của
công ty chỉ có thể được thực hiện thông qua người quản lý công ty (người QLCT).

Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố hàng đầu giúp cho các công ty đứng vững,
có khả năng cạnh tranh với các công ty khác đó chính là hoạt động của người QLCT.
Do đó, khái niệm người QLCT là một trong những nội dung quan trọng và được quy
định trong pháp luật về công ty của hầu hết các quốc gia. Trong pháp luật Việt Nam,
người QLCT được quy định tại Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 (LDN
2005): “Người quản lý công ty là chủ sở hữu, giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành
viên hợp danh của công ty hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty,
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các chức danh quản lý
khác do Điều lệ công ty quy định”.
Cách quy định trên cho thấy, pháp luật Việt Nam xác định người QLCT dựa vào
chức danh mà người đó nắm giữ. Theo đó, người quản lý của doanh nghiệp tư nhân là
chủ sở hữu, giám đốc; trong công ty hợp danh thì người quản lý là tất cả các thành viên
hợp danh; trong công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) thì người QLCT là Chủ tịch Hội
1

Nguồn Doanh nhân 360, “Lý thuyết quản lý- Quản lý là gì? Sự thống nhất hoàn hảo giữa lí luận và thực tiễn”.
Nguồn từ: o/vn/Tin-tuc/Ly-thuyet-quan-ly/34-Quan-ly-la-gi-Su-thong-nhat-hoan-haogiua-li-luan-va-thuc-tien.aspx. Truy cập lúc 16h ngày 3/5/2014.

5


đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc (GĐ/TGĐ) và các
chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định; trong công ty cổ phần (CTCP) thì
người QLCT là thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT), GĐ/TGĐ và các chức danh
quản lý khác do Điều lệ công ty quy định. Riêng đối với các công ty đại chúng
(CTĐC), Điều 28 Điều lệ mẫu áp dụng cho các CTĐC được ban hành kèm theo Thông
tư số 121/2012/TT-BTC còn quy định ngoài các thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ, cơ cấu
nội bộ của công ty cần phải có thêm các Phó giám đốc (Phó tổng giám đốc) điều hành
và một Kế toán trưởng.
Ngoài các chức danh quản lý được quy định rõ ràng thì LDN 2005 còn quy định

theo hướng mở rộng các chức danh quản lý của công ty. Theo đó, người QLCT còn
bao gồm những người có chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định. Tùy
theo từng loại hình công ty, Điều lệ công ty có thể quy định thêm các chức danh quản
lý khác như: Phó GĐ (Phó TGĐ), kế toán trưởng, các trưởng phòng như: phòng kế
hoạch – kinh doanh, phòng kế toán – tài chính, phòng kỹ thuật, phòng tổ chức – hành
chính2. Các chủ thể này không được pháp luật doanh nghiệp quy định một cách rõ ràng
mà phải tùy thuộc vào điều lệ của mỗi công ty quyết định, trong khi đó, mỗi công ty
khác nhau thì các chức danh quản lý này cũng có thể khác nhau. Đối với công ty này,
chức danh trưởng phòng tổ chức – hành chính có thể được thừa nhận là người QLCT
nhưng ở công ty khác chức danh này lại không được thừa nhận. Do đó, pháp luật
doanh nghiệp cần đưa ra những tiêu chí nhất định để công ty có thể xác định rõ ràng
“người quản lý khác” khi xây dựng Điều lệ công ty.
Khác với quy định về người QLCT của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam, trong
luật công ty của các nước theo truyền thống common law chịu ảnh hưởng của luật Anh
như Mỹ, Úc, New Zealand, Canada và kể cả Hong Kong, Singapore, Malaisia, pháp
luật công ty của họ xác định người QLCT không phải đơn thuần chỉ là dựa vào chức
danh mà người đó nắm giữ mà căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của những người ở vị
trí của người quản lý.
Theo quy định tại Điều 8.01 của Luật mẫu Công ty kinh doanh Mỹ (the Model
Business Corporation Act, MBCA, bản sửa đổi năm 2002) thì: hoạt động kinh doanh
của công ty được quản lý bởi hay dưới sự chỉ đạo của the Board of Directors (tức Hội
đồng giám đốc) hay theo Điều 282 của Đạo luật công ty Anh (the Companies Act
1985) thì hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành theo sự quản lý bởi hay
dưới sự chỉ đạo của các directors (tức các giám đốc)3. Như vậy, có thể nói rằng, theo
2

Nguyễn Thị Thái Vân (2010), Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp 2005 – Thực trạng
và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 11.
3
Bùi Xuân Hải (2005), “Người quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so sánh”,

Tạp chí khoa học pháp lý, (04), tr. 15.

6


pháp luật công ty Mỹ thì người QLCT chính là Hội đồng giám đốc và theo pháp luật
công ty Anh thì các Giám đốc chính là người QLCT. Tuy nhiên, theo pháp luật của
các nước theo mô hình Anh - Mỹ thì giám đốc công ty được hiểu là tất cả những ai (i)
là thành viên của Hội đồng giám đốc hay (ii) là người mà giữ vị trí hoặc thực hiện vai
trò trong vị trí của một giám đốc bất luận chức danh của họ gọi là gì hoặc (iii) là người
đưa ra các chỉ đạo để các giám đốc làm theo 4. Qua đó có thể thấy rằng, người QLCT
không chỉ là những người giữ vị trí giám đốc mà còn bao gồm những người tuy không
được chỉ định chính thức nhưng họ thực hiện những công việc ở vị trí, vai trò của giám
đốc thì họ vẫn được xem là người QLCT.
LDN 2005 xác định người QLCT theo chức danh mà người đó nắm giữ, trong
khi đó pháp luật nước ngoài lại xác định người QLCT theo chức năng, công việc mà
người đó làm. Qua đó, có thể thấy rằng, khái niệm người QLCT của Việt Nam không
đồng nhất với khái niệm người QLCT của pháp luật nước ngoài hay người được gọi là
director (giám đốc) trong luật công ty của các nước theo mô hình Anh – Mỹ khác với
chức danh GĐ/TGĐ trong các công ty theo LDN 2005 của nước ta 5. Như vậy, pháp
luật doanh nghiệp Việt Nam không thừa nhận những người không mang các chức danh
mà LDN 2005 hoặc Điều lệ công ty đã quy định là người QLCT. Do đó, với cách xác
định tư cách của người quản lý theo pháp luật Việt Nam hiện nay thì trên thực tế pháp
luật doanh nghiệp sẽ “bỏ sót” một số trường hợp những người có những ảnh hưởng
nhất định trong hoạt động quản lý, điều hành công ty. Những người này tuy không giữ
bất kỳ một chức danh nào trong bộ máy quản lý của công ty nhưng họ lại có những
hoạt động quản lý, điều hành như vị trí của một người QLCT và trong trường hợp, nếu
những người này vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của công ty thì sẽ rất khó xác định
trách nhiệm của những người này. Vì vậy, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam cần sửa
đổi khái niệm người QLCT theo hướng thừa nhận cả những người không mang chức

danh quản lý nhưng lại hành xử như người QLCT hay nói cách khác, pháp luật nên
thừa nhận người QLCT theo các chức năng, nhiệm vụ mà họ thực hiện chứ không nên
chỉ căn cứ vào chức danh mà họ nắm giữ như hiện nay.
Ngoài ra, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện hành không hề có quy định nào
về giám đốc thực tế và giám đốc giấu mặt, trong khi luật công ty Anh, Mỹ, Úc và các
nước theo truyền thống common law, khái niệm defactor director (GĐ thực tế) và
shadow director (GĐ giấu mặt) đã xuất hiện từ lâu6.

4

Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 15.
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 16.
6
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 18.
5

7


Giám đốc thực tế được hiểu là người hành xử với vị trí, chức năng của giám đốc
nhưng họ đã không được bổ nhiệm giữ vị trí này một cách hợp pháp với nhiều lý do
như: không đủ tiêu chuẩn theo quy định, đã hết thời hạn làm giám đốc theo quyết định
bổ nhiệm, hợp đồng lao động… nhưng vẫn tiếp tục hành xử với vị trí của một giám đốc
hợp pháp7. Ví dụ như giám đốc A đã hết thời hạn làm giám đốc theo hợp đồng lao
động đã ký với công ty nhưng trong thời gian chờ đợi giám đốc mới được bổ nhiệm thì
giám đốc A vẫn thực hiện các hoạt động quản lý, điều hành công ty.
Trong khi đó, giám đốc giấu mặt được hiểu là người tuy không được chính thức
bổ nhiệm vào chức vụ giám đốc trong công ty, nhưng họ lại có khả năng chỉ đạo và
điều khiển giám đốc hợp pháp hành động theo ý chí của mình 8. Giám đốc giấu mặt
thường là những người có quyền lực lớn hoặc một số cổ phần lớn trong tay, họ có thể

chỉ đạo, điều khiển giám đốc hợp pháp thực hiện theo ý chí mà họ mong muốn, bằng
cách khích lệ giám đốc hợp pháp với một lợi ích nào đó hoặc đe dọa các giám đốc hợp
pháp. Trong trường hợp này, các giám đốc hợp pháp được xem như là “bù nhìn” của
công ty bởi vì quyền lực không thuộc về họ mặc dù họ là những người mang chức danh
quản lý của công ty. Điều này không chỉ gây ra thiệt hại cho công ty, cho các chủ sở
hữu khác, cho chủ nợ, mà còn làm cho việc phân định trách nhiệm pháp lý trở nên
không dễ dàng. Trong trường hợp này, sẽ thật vô lý nếu chỉ áp đặt trách nhiệm đối với
giám đốc trên danh nghĩa mà không xác định nghĩa vụ của những người điều khiển, chỉ
đạo đằng sau9. Tuy nhiên, trên thực tế để có thể xác định được trách nhiệm của các
giám đốc giấu mặt là một điều không phải dễ dàng.
Để giải quyết vấn đề này, pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã quy định rất
rõ ràng. Trong pháp luật công ty của Anh, Mỹ, Úc, New Zealand, Canada, Singapore…
thì giám đốc giấu mặt vẫn được coi là giám đốc của công ty mặc dù họ chỉ đứng “trong
bóng tối” để chỉ đạo, điều hành. Các giám đốc giấu mặt này vẫn phải chịu các nghĩa vụ
như giám đốc hợp pháp, bởi lẽ các thẩm phán của họ sẽ xác định họ là ai trong thực tế
đối với công ty chứ không phải chỉ căn cứ vào chức danh ghi trên giấy tờ 10. Quy định
này không những đã giúp cho các giám đốc hợp pháp có thể tự bảo vệ mình mà còn
giúp cho công ty tránh được những thiệt hại do giám đốc giấu mặt gây ra. Song không
phải tất cả những ai đưa ra lời khuyên có tác động tới hành động của giám đốc đều bị
coi là giám đốc giấu mặt và việc buộc tất cả các giám đốc, cho dù là giám đốc hợp
pháp, giám đốc thực tế hay giám đốc giấu mặt đều có nghĩa vụ như nhau đã đề cao tính
minh bạch, chống sự gian lận để bảo vệ quyền lợi cho công ty11.
7

Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 18.
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 19.
9
Nguyễn Thị Thái Vân (2010), tlđd, tr. 24.
10
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 19.

11
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 19.
8

8


Trong khi đó, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam lại không hề có một quy định
nào có liên quan đến các giám đốc thực tế và giám đốc giấu mặt. Bên cạnh đó các thẩm
phán của Việt Nam là những người không có chức năng sáng tạo luật hay giải thích
pháp luật như các nước common law cho nên trong nhiều trường hợp các thẩm phán đã
lúng túng, không biết xử lý vấn đề này như thế nào và như vậy đã gây khó khăn trong
việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu, chủ nợ cũng như những người có liên quan
của công ty. Vì vậy, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam cần thiết quy định về giám đốc
giấu mặt và giám đốc thực tế, về phạm vi mà họ phải chịu trách nhiệm khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu và những
người có liên quan.
Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 lần ba12 sửa đổi được hi vọng sẽ có sự tiến bộ,
tiếp thu có hiệu quả pháp luật của nước ngoài. Tuy nhiên, khái niệm người quản lý
doanh nghiệp trong các loại hình doanh nghiệp của dự thảo không có gì thay đổi, chỉ
riêng có phần quy định “các chức danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định” 13
được sửa đổi thành “cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh
công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”14.
Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 dường như quy định rõ hơn về điều kiện để
xác định người quản lý khác của công ty, theo đó, người quản lý khác của công ty được
xác định là cá nhân và cá nhân này phải có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết các
giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty. Như vậy, cách xác định “người
quản lý khác” của Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 vừa hẹp hơn mà vừa rộng hơn
LDN 2005 bởi vì theo dự thảo thì Điều lệ công ty dù có ghi rõ vào trong điều lệ là các
chức danh khác là người QLCT thì cũng không được xác định là người quản lý, ngược

lại, bất kỳ người nào dù không giữ chức danh cụ thể trong công ty nhưng có thẩm
quyền nhân danh công ty để ký kết các giao dịch thì đều có thể là người QLCT. Cách
quy định này của dự thảo đã bước đầu quy định về người quản lý thực tế của công ty,
khi một cá nhân nào đó của công ty tuy không giữ chức danh quản lý nhưng lại thực
hiện hoạt động quản lý, điều hành công ty bằng cách ký kết giao dịch của công ty hay
có thể nói rằng họ đã thực hiện hoạt động trong vị trí, vai trò của người QLCT.
Như vậy, mặc dù dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 có sự sửa đổi về khái niệm
người QLCT theo hướng tiến bộ hơn so với LDN 2005 khi đã có một phần đề cập đến
người quản lý thực tế mà không hoàn toàn dựa vào chức danh mà người đó nắm giữ,
12

Nguồn từ: />Truy cập lúc 9h ngày 4/5/2014.
13
Khoản 13 Điều 4 LDN 2005.
14
Khoản 15 Điều 4 Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 lần 3.

9


tuy nhiên khái niệm này vẫn còn nhiều bất cập và cần được sửa đổi về quy định liên
quan đến người quản lý khác của công ty.
1.1.1.2 Đặc điểm của người quản lý trong công ty cổ phần
Dựa trên khái niệm về người QLCT đã được nêu và phân tích như trên, ta có thể
thấy người QLCT có một số đặc điểm sau đây:
a. Người quản lý trong công ty cổ phần phải là cá nhân.
Người quản lý CTCP là thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ và các chức danh quản lý
khác do Điều lệ công ty quy định. Theo quy định tại Điều 110 LDN 2005 về tiêu chuẩn
và điều kiện làm thành viên HĐQT, Điều 116 quy định về GĐ/TGĐ công ty cổ phần
và Điều 57 quy định về điều kiện, tiêu chuẩn làm GĐ/TGĐ thì điều kiện đầu tiên để

được làm người QLCT đó là người đó phải có đủ năng lực hành vi dân sự. Qua đó, có
thể thấy rằng người QLCT chỉ có thể là cá nhân mà không phải là pháp nhân. Đây cũng
là một điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với một số nước khác khi họ thừa nhận
pháp nhân là người quản lý của công ty. Ví dụ, luật của Pháp ngày 15/5/2001 (Luật
NRE) cho phép pháp nhân có thể trở thành thành viên của HĐQT tương tự như đối với
thể nhân, nhưng chỉ với một điều kiện: pháp nhân này phải cử một đại diện thường trực
tại trụ sở của công ty và người này phải tuân thủ các điều kiện và chịu trách nhiệm
tương tự như một thành viên HĐQT là thể nhân15.
Theo tác giả, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam cần thiết quy định bổ sung
người QLCT có thể là pháp nhân hay pháp nhân có thể là thành viên của HĐQT công
ty cổ phần xuất phát từ những lý do sau: nếu pháp nhân là người QLCT thì chủ thể
tham gia quản lý công ty sẽ đa dạng hơn, các cổ đông sẽ có nhiều lựa chọn hơn khi
giao công ty cho người mà họ tin tưởng. Không những thế, pháp nhân thực hiện quyền
quản lý CTCP thông qua người đại diện của họ thường trực tại trụ sở của công ty, như
vậy pháp nhân đó sẽ lựa chọn ra người có đủ tài năng, kinh nghiệm chuyên môn để làm
người đại diện cho họ, giúp pháp nhân quản lý công ty hiệu quả và nếu pháp nhân đó là
cổ đông của công ty thì pháp nhân này sẽ có thể kiểm soát được hoạt động của công ty
một cách tốt nhất thông qua hoạt động của người đại diện.
b. Người quản lý công ty phải đáp ứng các điều kiện và tiêu chuẩn theo quy
định của Pháp luật và Điều lệ công ty
Để có thể trở thành người QLCT thì người QLCT phải đáp ứng các điều kiện và
tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty. Theo quy định tại Điều 110
và Điều 57 LDN 2005 thì điều kiện và tiêu chuẩn chung của người QLCT cổ phần là
15

Lê Minh Hiếu (2006), “Các loại hình doanh nghiệp phổ biến ở Pháp”, Tạp chí khoa học pháp lý, (5), tr. 46-55.

10



phải có đủ năng lực hành vi dân sự, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh
nghiệp. Đối với công ty con là công ty mà Nhà nước sở hữu số cổ phần trên 50% vốn
điều lệ thì thành viên HĐQT không được là người liên quan của người quản lý, người
có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý công ty mẹ.
Theo quy định của LDN 2005 thì người QLCT cổ phần có thể là cổ đông công
ty hoặc là người không phải là cổ đông của công ty. Trong đó, tiêu chí để làm người
quản lý ngoài các điều kiện chung như đã phân tích ở trên thì có hai tiêu chí quan trọng
để xác định người QLCT đó là sở hữu vốn và trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong
hoạt động quản lý công ty.
Theo Điều 15 Nghị định 102/2010/NĐ-CP thì cổ đông là cá nhân sở hữu ít nhất
5% tổng số cổ phần phổ thông là có thể trở thành GĐ/TGĐ hoặc thành viên HĐQT.
Trong trường hợp, người QLCT không phải là cổ đông của công ty hoặc là cổ
đông mà sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần phổ thông của công ty thì ngoài việc phải
đáp ứng các điều kiện chung như đã phân tích ở trên thì họ còn phải đáp ứng được điều
kiện là phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh
doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty.
Tuy nhiên, có sự không nhất quán về từ ngữ được sử dụng giữa Điều 110 LDN
2005 và Điểm b Khoản 3 Điều 15 Nghị định 102/2010/NĐ-CP về tiêu chuẩn, điều kiện
làm thành viên HĐQT. Theo đó, Điểm b Khoản 3 Điều 15 Nghị định 102/2010/NĐ-CP
quy định cổ đông sở hữu ít hơn 5% tổng số cổ phần nếu có trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm quản lý thì có thể trở thành thành viên HĐQT. Trong khi đó, theo LDN 2005
thì cổ đông sở hữu dưới 5% cổ phần phổ thông nếu có trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm quản lý thì có thể trở thành thành viên HĐQT. Tổng số cổ phần và tổng số cổ
phần phổ thông là hoàn toàn khác nhau. Để có thể hiểu rõ hơn, tác giả minh họa bằng
một ví dụ đó là CTCP A có 1000 cổ phần, trong đó có 500 cổ phần phổ thông và 500
cổ phần ưu đãi. Theo quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều 15 Nghị định 102/2010/NĐCP thì cổ đông công ty sở hữu dưới 50 cổ phần (có thể là cổ phần phổ thông hoặc cổ
phần ưu đãi) là có thể trở thành thành viên HĐQT nếu họ có trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm quản lý. Trong khi đó, theo quy định của LDN 2005 thì cổ đông của công ty A
chỉ cần sở hữu dưới 25 cổ phần phổ thông là đã có thể trở thành thành viên HĐQT nếu
người đó có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý. Như vậy, có thể thấy rằng, chỉ

cần cổ đông của công ty sở hữu dưới 5% cổ phần phổ thông là đã có thể trở thành
thành viên HĐQT mà không nhất thiết phải sở hữu dưới 5% tổng số cổ phần của công
ty. Do đó quy định của nghị định cần được bổ sung thêm vào cụm từ “tổng số cổ phần”

11


thành “tổng số cổ phần phổ thông” để có sự nhất quán giữa quy định của luật và nghị
định, tránh gây ra hiểu nhầm và dễ áp dụng trên thực tế.
Ngoài ra, tiêu chuẩn và điều kiện của người QLCT còn phụ thuộc vào điều lệ
của mỗi công ty. Các điều kiện trên của pháp luật chỉ mới là những điều kiện tối thiểu,
trong Điều lệ công ty có thể quy định thêm những điều kiện khác mà người QLCT phải
đáp ứng và những quy định này phải phù hợp với LDN 2005.
c. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý công ty được ghi nhận trong nhiều cơ
sở pháp lý khác nhau.
Để xác định quyền và nghĩa vụ của người QLCT, trước hết phải xem trong LDN
2005 (luật chung của các công ty) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó, quyền
của người QLCT được quy định tại Khoản 2 Điều 111 (đối với Chủ tịch HĐQT),
Khoản 3 Điều 116 (đối với GĐ/TGĐ CTCP) và nghĩa vụ của người QLCT cổ phần
được quy định tại Điều 119 LDN 2005. Đây là những quy định chung mà các chủ thể
khi tham gia quản lý công ty phải tuân thủ, chấp hành.
Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của người QLCT còn được ghi nhận trong các văn
bản khác như Điều lệ công ty, hợp đồng (trong trường hợp thuê giám đốc) hoặc quyết
định bổ nhiệm, thậm chí trong hợp đồng thành lập công ty giữa những chủ sở hữu
trước khi công ty ra đời.
Điều lệ công ty được xem như kim chỉ nam, là luật dùng cho nội bộ của công ty.
Những quy định về quyền và nghĩa vụ của người QLCT trong điều lệ không được trái
với những quy định của pháp luật trong LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Điều lệ công ty là văn bản mà ở đó quy định rõ ràng người QLCT có các quyền và
nghĩa vụ nào, được thực hiện ra sao với cách thức như thế nào. Qua đó người QLCT có

thể nhận thức được họ phải hành động như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của vị trí
mà họ đang nắm giữ.
Trên thực tế trong trường hợp người QLCT được thuê hoặc được bổ nhiệm thì
những quy định chủ yếu trong hợp đồng hoặc quyết định bổ nhiệm là quyền và nghĩa
vụ của công ty với người được thuê với tư cách là người lao động và người sử dụng lao
động. Những quy định trong hợp đồng thuê hoặc quyết định bổ nhiệm này không được
trái với quy định của LDN 2005, các văn bản hướng dẫn thi hành và điều lệ của công
ty. Trong hợp đồng thuê và quyết định bổ nhiệm giữa công ty và người quản lý thì
công ty và người quản lý không có quyền thỏa thuận với nhau để bổ sung thêm một số
quyền cho người quản lý mà những quyền này chưa được quy định trong Điều lệ công
ty bởi vì Điều lệ công ty là văn bản có giá trị cao nhất trong công ty quy định quyền và
nghĩa vụ của người QLCT. Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên, tuy nhiên trong
12


quan hệ lao động và trong trường hợp này là hợp đồng thuê thì người QLCT là bên yếu
thế trong hợp đồng. Do đó, người quản lý nên đọc kĩ và nắm rõ các quyền và nghĩa vụ
mà họ phải thực hiện, để từ đó, hoạt động quản lý sẽ có hiệu quả hơn.
Theo Khoản 1 Điều 14 LDN 2005 thì trước khi công ty được thành lập thì giữa
các cổ đông sáng lập hoặc người đại diện theo ủy quyền sẽ ký các loại hợp đồng phục
vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Trong các hợp đồng đó, tất yếu
sẽ có những nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ của người QLCT vì đây là những
nội dung cơ bản, là những thỏa thuận ban đầu mà các chủ sở hữu quan tâm trước và
sau khi thành lập công ty. Do đó, những quy định về quyền và nghĩa vụ của người
QLCT trong hợp đồng này (không trái với pháp luật doanh nghiệp) sẽ là cơ sở để xây
dựng nên những quy định về quyền và nghĩa vụ của người QLCT trong các văn bản
sau này.
1.1.1.3 Phân loại người quản lý công ty
a. Căn cứ vào vai trò tham gia điều hành công ty thì người QLCT được chia
thành 2 loại: người quản lý điều hành và người quản lý không điều hành.

Ở những nước theo mô hình luật công ty Anh – Mỹ (như Canada, Úc, New
Zealand, Singapore…), cũng như Nhật Bản, trong thành phần của Hội đồng giám đốc
(Board of Directors) gồm có giám đốc điều hành và giám đốc không điều hành16.
Giám đốc điều hành là giám đốc của công ty, là thành viên của công ty (fulltime employee), họ là những người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của
công ty, mỗi giám đốc điều hành quản lý một lĩnh vực cho nên họ sẽ có một chức vụ
nhất định17.
Đối với giám đốc không điều hành, họ cũng là thành viên của HĐGĐ công ty.
Tuy nhiên họ không tham gia vào quá trình quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh
hằng ngày của công ty, đồng thời họ cũng không phải là lao động trong công ty, không
đảm nhiệm một chức vụ quản lý nào trong công ty cả, họ cũng không phải là thành
viên góp vốn, không có quan hệ kinh doanh hay quan hệ gì với công ty hay với các
quan chức của công ty18. Nhiệm vụ cơ bản của họ là có mặt tại cuộc họp của Hội đồng
giám đốc để thảo luận thông qua các quyết định về quản lý công ty, đánh giá công việc
điều hành của bộ phận điều hành19.
So với giám đốc không điều hành thì giám đốc điều hành có vai trò quan trọng
hơn, bởi giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của
16

Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 16.
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 16.
18
Nguyễn Thị Thái Vân (2010), tlđd, tr. 21.
19
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 17.
17

13


công ty, quyết định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh; còn giám đốc không

điều hành nhiệm vụ của họ chỉ là giám sát và đánh giá công việc quản lý, điều hành
của những giám đốc điều hành20. Tuy nhiên, sự có mặt của giám đốc không điều hành
lại góp phần quan trọng trong việc giám sát hoạt động của công ty 21, giúp cho các giám
đốc điều hành thực hiện công việc quản lý một cách tốt nhất, góp phần đảm bảo lợi ích
của công ty.
Theo pháp luật Việt Nam, người quản lý CTCP gồm thành viên HĐQT,
GĐ/TGĐ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 116 LDN 2005 thì GĐ/TGĐ là người điều
hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, mà không đề cập đến những người
quản lý khác cũng có quyền điều hành. Như vậy, có thể hiểu rằng, trong CTCP,
GĐ/TGĐ là người quản lý điều hành công ty, còn các chức danh quản lý khác không
phải là người quản lý điều hành công ty. Mặc dù các thành viên HĐQT được LDN
2005 quy định là người QLCT, họ có quyền biểu quyết thông qua các quyết định về
quản trị công ty, một số họ có thể giữ chức danh quản lý, là người lao động của công ty
nhưng cũng không vì vậy mà cho rằng họ có địa vị pháp lý như GĐ điều hành 22 trong
công ty. Như vậy, các thành viên của HĐQT cùng các chức danh quản lý khác có được
coi là giám đốc không điều hành như pháp luật của Anh – Mỹ nếu họ không phải là
người lao động của công ty? Mặc dù LDN 2005 không quy định nhưng những quy
định liên quan đến CTĐC lại có đề cập đến thành viên quản trị không điều hành. Theo
Khoản 2 Điều 2 TT 121/2012/TT-BTC quy định: “Thành viên HĐQT không điều hành
là thành viên HĐQT không phải là Giám đốc (Tổng giám đốc), Phó giám đốc (Phó
Tổng giám đốc), Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm”
và Khoản 3 Điều 2 TT 121/2012/TT-BTC quy định về điều kiện để trở thành thành
viên HĐQT độc lập. Theo Khoản 1 Điều 24 Điều lệ mẫu áp dụng cho các CTĐC thì
“Tổng số thành viên HĐQT không điều hành hoặc thành viên HĐQT độc lập (đối với
CTĐC quy mô lớn và công ty niêm yết) phải chiếm ít nhất một phần ba (1/3) tổng số
thành viên HĐQT”. Tuy nhiên, trên thực tế, ở đa số các CTCP, thành viên HĐQT hoặc
chưa có hoặc tính độc lập không rõ nét hoặc vai trò rất mờ nhạt23.
Theo Khoản 2 Điều 116 LDN 2005 thì GĐ/TGĐ là người điều hành công việc
kinh doanh hằng ngày của công ty và theo Khoản 1 Điều 108 LDN 2005 thì HĐQT là
cơ quan quản lý công ty. Như vậy, trong CTCP, GĐ/TGĐ là người chuyên điều hành

hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty, còn thành viên HĐQT là những người
chuyên quản lý hoạt động kinh doanh của công ty. Trong đó, GĐ/TGĐ phải chịu sự
20

Nguyễn Thị Thái Vân (2010), tlđd, tr. 21.
Nguyễn Thị Thái Vân (2010), tlđd, tr. 21.
22
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 17.
23
Lê Hoàng Tùng ,“Thành viên HĐQT độc lập: Quy định và thực tiễn”. Nguồn từ: Truy cập lúc 11h ngày 7/5/2014.
21

14


quản lý, giám sát, chỉ đạo từ thành viên của HĐQT và các thành viên HĐQT không can
thiệp vào công việc điều hành của GĐ/TGĐ.
Khác với CTCP, trong cơ cấu hoạt động kinh doanh của công ty TNHH không
có sự phân chia rõ ràng giữa người chuyên quản lý và người chuyên điều hành. HĐTV
là cơ quan đại diện cho chủ sở hữu, không phải là cơ quan quản lý của công ty. Người
QLCT là Chủ tịch hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, GĐ/TGĐ và các chức
danh quản lý khác do Điều lệ công ty quy định. Trong công ty TNHH một thành viên
là cá nhân, Chủ tịch hội đồng thành viên đồng thời là chủ sở hữu và có thể kiêm
GĐ/TGĐ công ty. Với tính chất công ty gia đình, các thành viên của công ty TNHH
thường không thuê những người bên ngoài làm GĐ/TGĐ mà trong nội bộ của công ty,
các vị trí quản trị đôi khi được sắp xếp không phải theo năng lực thực sự mà theo cơ
cấu vốn góp của các thành viên và quan hệ cá nhân 24. Do đó, trong trường hợp này,
Chủ tịch HĐTV hoặc Chủ tịch công ty sẽ kiêm nhiệm chức danh GĐ/TGĐ nên lúc này,
người QLCT là Chủ tịch HĐTV, Chủ tịch công ty không có sự phân chia chuyên biệt
giữa hoạt động quản lý và hoạt động điều hành.

Tương tự như vậy, công ty hợp danh cũng không có sự phân chia chuyên biệt
giữa quản lý và điều hành. Theo Khoản 1 Điều 137 LDN 2005 thì người QLCT hợp
danh là các thành viên hợp danh của công ty hợp danh, tất cả thành viên hợp danh có
quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày
của công ty, trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh
phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty. Như vậy, tất
cả các thành viên hợp danh của công ty hợp danh vừa làm người QLCT đồng thời là
người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty.
b. Căn cứ vào hoạt động góp vốn thì người QLCT được chia thành người quản
lý công ty là cổ đông và người quản lý công ty không phải là cổ đông.
Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam cho phép cổ đông với sở hữu ít nhất 5% tổng
số cổ phần phổ thông của công ty được giữ các chức danh GĐ/TGĐ hoặc làm thành
viên của HĐQT. Những cổ đông này không nhất thiết phải có trình độ chuyên môn kỹ
thuật cao hay kinh nghiệm thực tế trong hoạt động quản lý kinh doanh, trừ khi Điều lệ
công ty quy định thêm các điều kiện khác. Tuy nhiên, đối với cổ đông sở hữu ít hơn
5% tổng số cổ phần thì phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản
trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty. Trên thực
tế, số lượng các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông chiếm số cổ phần lớn của công ty
thường là nắm những chức vụ quản lý quan trọng trong công ty.
24

Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí khoa
học pháp lý, (4), tr. 23.

15


Ngược lại, đối với những người không phải cổ đông của công ty, được thuê
hoặc được bầu vào các chức danh quản lý công ty thì họ phải có trình độ chuyên môn,
kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh

chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty.
Người được công ty thuê là người không góp vốn vào công ty nên họ muốn được làm
việc tại công ty thì phải có một trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm nhất định, đem
lại hiệu quả kinh doanh, lợi ích cho công ty.
1.1.2 Cơ sở hình thành người quản lý công ty
Người quản lý được xem như là một nhân tố quan trọng góp phần không nhỏ
vào hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, vì vậy để lựa chọn người quản lý là
một việc không dễ dàng. Chủ sở hữu công ty phải suy nghĩ, cân nhắc kỹ lưỡng trước
khi lựa chọn người quản lý mà họ tin tưởng để giao tài sản, lợi ích mà họ hướng tới.
Người QLCT được hình thành bằng cách cổ đông sẽ trực tiếp tự mình bầu chọn
thông qua cơ quan đại diện là ĐHĐCĐ hoặc gián tiếp bầu chọn người quản lý thông
qua sự tin tưởng vào những người quản lý mà mình đã bầu chọn. Theo đó, ĐHĐCĐ sẽ
bầu ra cơ quan quan trọng nhất trong công ty là HĐQT. Sau khi HĐQT được hình
thành, HĐQT sẽ bổ nhiệm hoặc thuê GĐ/TGĐ cũng như các chức danh khác của công
ty được quy định trong Điều lệ công ty và khi GĐ/TGĐ được hình thành thì GĐ/TGĐ
sẽ tiếp tục bổ nhiệm hoặc thuê các chức danh quản lý thuộc thẩm quyền của GĐ/TGĐ
được quy định trong Điều lệ công ty.
Theo Điểm c Khoản 2 Điều 96 LDN 2005 thì ĐHĐCĐ sẽ bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm thành viên HĐQT. Theo Điều 109 LDN 2005 thì số lượng thành viên HĐQT từ
3 đến 11 thành viên, thành viên HĐQT được bầu sẽ có nhiệm kì không quá năm năm
và có thể được bầu lại với số nhiệm kì không hạn chế, trường hợp có thành viên được
bầu bổ sung hoặc thay thế thành viên bị miễn nhiệm, bãi nhiệm trong thời hạn nhiệm
kỳ thì nhiệm kỳ của thành viên đó là thời hạn còn lại của nhiệm kỳ HĐQT. Trước đây,
theo Luật Doanh nghiệp 1999 thì thành viên HĐQT được bầu bằng phương thức biểu
quyết, tuy nhiên LDN 2005 đã tiến bộ hơn quy định về bầu thành viên HĐQT của Luật
Doanh nghiệp 1999. Theo đó, ĐHĐCĐ bầu thành viên HĐQT bằng phương thức dồn
phiếu, trong đó mỗi cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ
phần sở hữu nhân với số thành viên được bầu của HĐQT và cổ đông có quyền dồn hết
tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên. Người trúng cử thành
viên HĐQT được xác định theo số phiếu bầu tính từ cao xuống thấp, bắt đầu từ ứng cử

viên có số phiếu bầu cao nhất cho đến khi đủ số thành viên quy định tại Điều lệ công
ty. Trường hợp có từ hai ứng cử viên trở lên đạt cùng số phiếu bầu như nhau cho thành

16


viên cuối cùng của HĐQT thì sẽ tiến hành bầu lại trong số các ứng cử viên có số phiếu
bầu ngang nhau hoặc lựa chọn theo tiêu chí quy chế bầu cử hoặc Điều lệ công ty 25. Với
quy định này, thì so với phương thức biểu quyết trước kia, pháp luật doanh nghiệp đã
bảo vệ được quyền lợi của cổ đông thiểu số bởi vì với phương thức biểu quyết trước
kia, các cổ đông lớn của công ty luôn là người nắm trong tay nhiều phiếu biểu quyết,
do đó có thể dễ dàng bầu chọn người QLCT mà họ muốn với số phiếu biểu quyết rất
cao của mình trong khi đó, các cổ đông thiểu số với số biểu quyết ít ỏi, họ khó có thể
bầu chọn ra một người quản lý mà họ muốn. Như vậy, quy định về phương thức bầu
dồn phiếu đối với thành viên HĐQT đã góp phần bảo vệ quyền lợi của những cổ đông
thiểu số trước những cổ đông lớn trong công ty, họ có thể sử dụng vốn góp ít ỏi của
mình để bầu chọn ra những người QLCT mà họ tin tưởng, qua đó một phần đã tạo ra
sự công bằng giữa các cổ đông trong công ty với nhau.
HĐQT là cơ quan được ĐHĐCĐ bầu ra, thay mặt ĐHĐCĐ quản lý công ty, có
toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công
ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Theo Điểm h Khoản 2 Điều 108 LDN thì
HĐQT có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng
đối với GĐ/TGĐ và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định. Theo
Khoản 1 Điều 116 LDN 2005 thì HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê
người khác làm GĐ/TGĐ công ty.
Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam chỉ cho phép số lượng GĐ/TGĐ trong mỗi
công ty chỉ có thể là một người mà không thể nào cao hơn. Trong khi pháp luật của các
nước Mỹ, Anh, Úc… và nhiều nước khác thì trong một CTCP phải nhiều giám đốc, tất
cả sẽ hợp thành the Board of Directors (tức là Hội đồng giám đốc), ví dụ, một CTCP ở
Úc phải có ít nhất 3 giám đốc, còn ở Anh ít nhất là 2 giám đốc và số lượng giám đốc

thường là 3 đến 15 hoặc thậm chí lên tới 32 như ở Mỹ 26. Do đó, quy định này của pháp
luật doanh nghiệp là không hợp lý và cần thiết phải quy định về việc tăng thêm số
lượng người điều hành công việc của công ty. Bởi vì trong CTCP, đặc biệt là các
CTCP có quy mô lớn, GĐ/TGĐ là người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày
của công ty, do đó các công việc của GĐ/TGĐ cần phải được giải quyết một cách
nhanh chóng, tuy nhiên số lượng công việc của GĐ/TGĐ cần phải giải quyết hằng
ngày thì rất là nhiều mà pháp luật lại chỉ cho phép một người điều hành công ty. Như
vậy trong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh của công ty thì GĐ/TGĐ khó có
thể đáp ứng được hết các nhu cầu của công việc mặc dù họ có thể có được sự hỗ trợ từ
25

Khoản 4 Điều 29 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành
một số điều của Luật Doanh nghiệp 2005.
26
Bùi Xuân Hải (2005), tlđd, tr. 15.

17


những người cấp dưới, vì vậy sẽ làm cho hoạt động của công ty không đạt được hiệu
quả tốt nhất, gây thiệt hại đến lợi ích của công ty cũng như cổ đông của công ty.
HĐQT sẽ bổ nhiệm hoặc thuê người khác làm GĐ/TGĐ khi người đó đáp ứng
được những tiêu chuẩn và điều kiện được quy định tại Điều 57 LDN 2005 và các quy
định khác trong Điều lệ công ty. Trong trường hợp này, theo Khoản 2 Điều 116 LDN
2005 thì nhiệm kỳ của GĐ/TGĐ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với
số nhiệm kỳ không hạn chế. Trong trường hợp HĐQT thuê GĐ/TGĐ thì người này
không phải là cổ đông của công ty và điều kiện để họ có thể trở thành GĐ/TGĐ là họ
phải có trình độ chuyên môn hoặc kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc
trong ngành, nghề kinh doanh chính của công ty.
Tiêu chuẩn và điều kiện đối với những chức danh quản lý khác của công ty do

Điều lệ công ty quy định, HĐQT sẽ bổ nhiệm hoặc thuê các chức danh này trên cơ sở
của Điều lệ công ty.
GĐ/TGĐ công ty sau khi được HĐQT bổ nhiệm hoặc thuê thì theo quy định tại
Điểm đ Khoản 3 Điều 116 LDN 2005, GĐ/TGĐ sẽ là người có quyền bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm
quyền của HĐQT. Cũng giống như các chức danh quản lý khác được HĐQT bổ nhiệm
hoặc thuê, tiêu chuẩn và điều kiện của các chức danh quản lý này không được LDN
2005 quy định mà phụ thuộc vào điều lệ của mỗi công ty hay GĐ/TGĐ khi muốn bổ
nhiệm hay thuê người quản lý khác thuộc thẩm quyền của mình thì phải căn cứ vào
những quy định trong Điều lệ công ty.
1.2

Khái quát về mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người quản lý trong
công ty cổ phần

Trong công ty cổ phần, người QLCT chính là những người được cổ đông hình
thành nên, sau đó người QLCT sẽ được cổ đông trao cho những quyền hạn nhất định
để đại diện cho cổ đông thực hiện hoạt động kinh doanh của công ty với mục đích đem
lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông và công ty. Do đó, để thực hiện tốt hoạt động này, đòi
hỏi cổ đông và người QLCT phải có sự độc lập tương đối với nhau thể hiện qua sự tách
bạch giữa sở hữu và quản lý giữa cổ đông và người QLCT. Bên cạnh đó, để có thể xây
dựng bền vững mối quan hệ pháp lý giữa cổ đông và người QLCT thì đòi hỏi pháp luật
doanh nghiệp phải có các cơ sở pháp lý làm nền tảng để điều chỉnh mối quan hệ này.
Và để có thể hiểu rõ hơn, tác giả sẽ phân tích một số đặc điểm trong mối quan hệ pháp
lý giữa cổ đông và người QLCT và chỉ rõ các cơ sở pháp lý cũng như nguyên tắc áp
dụng các cơ sở pháp lý này.

18



1.2.1 Đặc điểm của mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý trong công ty cổ
phần
1.2.1.1 Mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty là mối quan hệ đại diện
Công ty với tư cách là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập (a separate
legal entity), tự bản thân nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành
động thông qua con người cụ thể - đó là người quản lý công ty 27. Vì công ty tự nó
không thể hành động cho chính mình nên trong mối quan hệ giữa công ty và người
quản lý công ty thực chất chính là mối quan hệ giữa cổ đông – người chủ sở hữu thực
sự của công ty với người quản lý công ty. Bên cạnh đó, CTCP là loại hình doanh
nghiệp có số lượng nhà đầu tư rất lớn và đa dạng từ nhiều thành phần kinh tế, đó có thể
là sinh viên, công chức, công nhân, những người nội trợ hoặc những người thực hiện
hoạt động kinh doanh... cho nên không phải tất cả họ đều muốn tham gia vào việc thực
hiện hoạt động kinh doanh. Do đó, các cổ đông công ty cần thiết phải bầu chọn ra
những người mà họ tin tưởng để thay mặt các cổ đông hay công ty để thực hiện hoạt
động kinh doanh.
Về bản chất, mối quan hệ giữa cổ đông và người quản lý công ty được hiểu như
là quan hệ đại diện – quan hệ ủy thác28. Theo đó, các cổ đông sẽ thành lập nên người
QLCT bằng nhiều cách, đó có thể là bầu, bổ nhiệm các cổ đông của công ty hoặc thuê
những người ngoài làm người QLCT hay các cổ đông thông qua cơ quan đại diện là
ĐHĐCĐ sẽ bầu ra, bổ nhiệm hoặc thuê thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ công ty. Người
QLCT sẽ đại diện cho chủ sở hữu trong mối quan hệ với bên trong và bên ngoài công
ty. Theo đó, trong công ty thì người QLCT sẽ đại diện cho chủ sở hữu trong mối quan
hệ với những người lao động của công ty như tuyển dụng lao động, trả lương thưởng
cho người lao động của công ty, còn bên ngoài công ty, người QLCT sẽ đại diện cho
chủ sở hữu công ty trong mối quan hệ với đối tác, khách hàng cũng như đại diện cho
chủ sở hữu trong hoạt động tố tụng của công ty.
Và để những người QLCT này thực hiện hoạt động kinh doanh một cách có hiệu
quả, tạo ra lợi nhuận thì các cổ đông của công ty sẽ trao cho người QLCT một số
quyền hạn nhất định. Những quyền đó có thể là quyền quản lý, điều hành, thay mặt
công ty thực hiện các hoạt động với bên ngoài và đặc biệt là được quyền định đoạt tài

sản của công ty. Tuy nhiên, không phải người QLCT được định đoạt hết tất cả tài sản
của công ty mà chỉ được quyền định đoạt tài sản của công ty trong một giới hạn cho
phép và giới hạn này phụ thuộc vào điều lệ của mỗi công ty. Vì là người đại diện của
chủ sở hữu công ty nên người QLCT buộc phải thực hiện tất cả các công việc nhằm
27
28

Bùi Xuân Hải (2007), tlđd 29, tr. 41.
Bùi Xuân Hải (2007), tlđd, tr. 22.

19


mục đích tạo ra lợi nhuận cho công ty, giúp các cổ đông tăng giá trị tài sản thông qua
việc tăng giá trị của công ty. Tuy nhiên người QLCT không phải là chủ sở hữu tài sản
của công ty nhưng lại nắm trong tay quyền định đoạt tài sản của công ty nên nhiều khi
người QLCT có xu hướng không quan tâm đến lợi ích của chủ sở hữu mà họ thường
tìm cách tìm kiếm những lợi ích cho riêng bản thân họ hay có thể nói rằng, khi có sự
xung đột lợi ích giữa công ty và người QLCT thì chắc chắn họ sẽ không hi sinh lợi ích
của bản thân để giành lợi ích đó cho công ty. Do đó, trong mối quan hệ với người
QLCT, để có thể bảo vệ tài sản của công ty cũng như các chủ sở hữu đồng thời hạn chế
sự phân hóa lợi ích giữa chủ sở hữu và người QLCT, đòi hỏi các chủ sở hữu phải có
chế độ đãi ngộ một cách thích hợp, tương xứng với năng lực quản lý của người QLCT
như tăng thêm tiền lương, thưởng hoặc khuyến khích người QLCT nhận tiền lương,
thưởng bằng cổ phiếu của công ty, qua đó gắn kết lợi ích trực tiếp của người quản lý
với công ty. Tuy nhiên, không phải người QLCT nào có gắn kết quyền lợi với công ty
thì không thực hiện hành động tư lợi, mà thực chất, dù người QLCT có là cổ đông hay
không là cổ đông, họ đều muốn có thêm lợi ích cho bản thân mình. Do đó, chủ sở hữu
phải khéo léo xây dựng chính sách đãi ngộ cho người QLCT sao cho chính sách đó có
khả năng đủ thỏa mãn được những lợi ích mà người QLCT mong muốn, có như vậy họ

mới có thể toàn tâm toàn ý thực hiện hoạt động kinh doanh, một mặt họ muốn xây
dựng niềm tin cho chủ sở hữu, mặt khác muốn tiếp tục được hưởng chính sách đãi ngộ
đó của công ty. Mặc dù vậy, việc xây dựng chính sách đãi ngộ tốt chưa chắc đảm bảo
được là người QLCT sẽ không nghĩ đến việc tư lợi cho bản thân cho nên chủ sở hữu
công ty cần có cơ chế kiểm soát người QLCT bằng cách thiết lập hệ thống kiểm toán
nội bộ, hệ thống xử phạt minh bạch và nghiêm khắc (thậm chí có thể sa thải hoặc kiện
ra tòa) đối với những nhà quản lý không hoàn thành trách nhiệm 29 khi họ thực hiện các
giao dịch liên quan đến tài sản của công ty cũng như hoạt động quản lý, điều hành công
ty. Có như vậy thì chủ sở hữu mới kiểm soát tốt được người QLCT đồng thời hạn chế
được khả năng tư lợi của người QLCT trong các giao dịch của công ty.
Bên cạnh việc chủ sở hữu công ty trao cho người QLCT một số quyền thì chủ
sở hữu công ty cũng quy định nghĩa vụ cho người QLCT khi họ thực hiện hoạt động
kinh doanh bởi vì quyền phải đi cùng với nghĩa vụ, chủ sở hữu công ty biết rằng nếu
người QLCT chỉ được chủ sở hữu trao quyền mà không trao nghĩa vụ thì người QLCT
nhất định sẽ thực hiện những quyền này một cách tùy tiện mà không quan tâm đến
trách nhiệm với chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, không phải lúc nào người QLCT cũng
tuân thủ các nghĩa vụ mà chủ sở hữu trao cho, do đó, chủ sở hữu phải thường xuyên
kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ của người QLCT.
29

Nguyễn Ngọc Thanh, “Vấn đề chủ sở hữu và người đại diện – Một số gợi ý về chính sách cho Việt Nam”.
Nguồn: Truy cập lúc 17h ngày 29/5/2014.

20


×