Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Trọn bộ lớp 11 môn văn ban cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.63 KB, 90 trang )

Ngữ văn
ĐỌC VĂN: VÀO PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích Thượng kinh ký sự)
- Lê Hữu Trác -
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Tác giả:
- Lê Hữu Trác (1720-1791)
- Hiệu là Hải Thượng Lãn Ông
- Quê : Làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương
- Ông vừa là một danh y xuất sắc nhất trong thời trung đại, vừa là một nhà văn,
nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho văn hóa nước nhà.
2/ Tác phẩm:
- Thượng kinh ký sự: Tập ký sự bằng chữ Hán.
- Viết nam 1782, khắc in năm 1885, xếp ở cuối bộ “Hải thượng y tông tâm lónh”
- Nội dung: Miêu tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa
Trònh và quyền uy thế lực của nhà chúa và thái độ coi thường danh lợi của tác giả.
II. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN:
1/ Cảnh sống xa hoa đầy quyền uy của phủ chúa Trònh:
a) Quang cảnh của phủ chúa:
* Cảnh bên ngoài:
- Những dãy hành lang co nối nhau liên tiếp.
- Hậu mã quân túc trực
- Cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm
- Người có việc quan qua lại như mắc cửi.
=> Chúa giữ vò trí trọng yếu và có quyền uy tối thượng trong triều đình lúc bấy
giờ.
* Cảnh bên trong: được miêu tả cụ thể. Mọi sự vật, con người trong đoạn trích
đều được thả trong dòng trôi cảm xúc của tác giả:
- Các bài trí trong phủ chúa: “Đồ nghò trượng đều sơn son thếp vàng... Trên sập
mắc một cái võng điều ...” (Tr.5)
- Cách ăn uống, sinh hoạt: “Quan chánh đường san mâm cơm cho tôi. Mâm


vàng, chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết phong vò của các
nhà đại gia.” (Tr.6)
=> Quang cảnh trong phủ chúa cực kỳ xa hoa, tráng lệ, xa lạ với cuộc sống bình
thường của dân chúng bên ngoài. Thái độ của nhà căn rất ngạc nhiên, có pha chút
mỉa mai và sự coi thường danh lợi trước lối sinh hoạt trong phủ chúa.
1
Ngữ văn
b) Cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa:
- Lời lẽ cung kính, lễ độ: “Thánh thượng đang ngự ở đấy, xung quanh có phi tần
chầu chực, nên chưa thể yết kiến”. (Tr.6)
- Luôn có phi tần chầu chực xung quanh Chúa Trònh => không khí ngột ngạt,
trang nghiêm khiến tác giả phải nín thở chờ ở xa.
- Xem mạch cho thế tử phải thông qua vò quan Chánh đường truyền đạt. => tác
giả không được trực tiếp xem mạch cho thế tử, không được phép trao đổi với Chúa.
* Sơ kết: Bằng những chi tiết miêu tả cụ thể và thái độ mỉa mai, tác giả đã làm
nổi bật quang cảnh bên ngoài và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa cực kỳ trang
nghiêm, uy quyền và giàu sang hết mực.
2/ Thái độ của tác giả:
a) Thái độ đối với cuộc sống xa hoa
- Tác giả nghó: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa... những việc
trong phủ mới chỉ nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của
vua chúa thực khác hẳn người thường.
- Thái độ của tác giả qua bài thơ Tự vònh (Tr.4) => “Cả trời Nam sang nhất là
đây!”
=> Thái độ dửng dưng trước những quyến rũ của vật chất, quyền uy.
b) Thái độ khi khám bệnh cho thế tử
Hai tâm trạng trái ngược nhau:
- Ông đoán được bệnh của thế tử và chúa Trònh “ăn quá no, mặc quá ấm nên
phủ tạng yếu đi”. Nhưng ông sợ chữa hết bệnh sẽ được chúa tin dùng, bò công danh
trói buộc nên chữa bệnh cầm chừng, cho thuốc vô thưởng vô phạt.

=> Chữa hết bệnh cho thế tử đồng nghóa với việc ở lại phủ.
- Không chữa là trái với y đức của người thầy thuốc, trái với lương tâm, phụ
lòng ông cha.
=> Lương tâm và phẩm chất trung thực của người thầy thuốc đã thắng.
* Sơ kết: Qua thái độ của tác giả, ta thấy ông là một thầy thuốc tài năng, có
nhân cách đẹp coi thường danh lợi, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh
đạm nơi quê nhà.
3/ Đặc sắc bút pháp ký sự của tác giả:
- Khả năng quan sát tỉ mỉ
- Ghi chép trung thực, giúp người đọc hiểu được nhiều hơn về cuộc sống của
Chúa Trònh.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn.
2
Ngữ văn
PHẦN TRẮC NGHIỆM
Trả lời các câu hỏi sau bằng cách khoanh tròn chữ cái đứng đầu phương án trả
lời đúng.
1/ Những đóng góp của Lê Hữu Trác cho nhà nước thể hiện trong các việc làm cụ
thể nào?
A. Chữa bệnh, viết văn, vẽ tranh B. Soạn sách, mở trường, truyền bá y học
C. Soạn sách, chữa bệnh, ngao du D. Viết văn, làm quan, chữa bệnh
2/ Giá trò hiện thực của tác phẩm “Thượng kinh ký sự” là gì?
A. Tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống trong phủ chúa Trònh.
B. Tả cảnh quyền uy và thế lực trong phủ chúa Trònh.
C. Thái độ khinh thường danh lợi của tác giả.
D. Tả cuộc sống xa hoa, uy quyền trong phủ chúa Trònh và thái độ khinh thường
danh lợi của tác giả.
3/ Thái độ của Lê Hữu Trác thể hiện trong đoạn trích “Vào phủ chúa Trònh” là gì?
A. Khinh thường danh lợi, yêu thích tự do
B. Không đồng tình với cuộc sống xa hoa và lộng quyền của chúa Trònh

C. Coi thường danh lợi, có lương tâm và trách nhiệm với nghề nghiệp
D. Yêu thích cuộc sống tự do, không bò trói buộc
4/ Bút pháp ký sự của tác giả được thể hiện qua đoạn trích đặc sắc như thế nào?
A. Kể chuyện hấp dẫn, ghi chép chân thực
B. Quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, kể chuyện hấp dẫn
C. Quan sát tỉ mỉ, nghệ thuật dựng cảnh điêu luyện
D. Miêu tả chân thực về cảnh và diễn biến nội tâm sâu sắc.
ĐÁP ÁN:
Câu hỏi
1 2 3 4
Đáp án
A B C D
3
Ngữ văn
TỪ NGÔN NGỮ CHUNG ĐẾN LỜI NÓI CÁ NHÂN
I. NGÔN NGỮ – TÀI SẢN CHUNG CỦA XÃ HỘI:
1/ Những yếu tố chung trong ngôn ngữ của cộng đồng:
- Các âm thanh và các thanh (nguyên âm, phụ âm, thanh điệu...)
- Các tiếng (âm tiết) là sự kết hợp của các âm và thanh.
- Các từ (từ đơn, từ ghép)
- Các ngữ cố đònh (thành ngữ, quán ngữ...)
2/ Các quy tắc và phương thức chung:
- Quy tắc chung: Quy tắc cấu tạo từ, ngữ (cụm từ, câu, đoạn...
- Phương thức chuyển nghóa từ (nghóa gốc sang nghóa phát sinh)
II. LỜI NÓI – SẢN PHẨM RIÊNG CỦA CÁ NHÂN:
1/ Giọng nói cá nhân: Khi nói chúng ta vẫn dùng các âm, các thanh chung của
ngôn ngữ cộng đồng, nhưng mỗi người có một nét riêng, không ai giống ai.
2/ Vốn từ ngữ cá nhân:
- Từ vựng là tài sản chung của toàn dân.
- Vốn từ ngữ cá nhân: là sự ưa chuộng và quen dùng một số từ ngữ nhất đònh.

Vốn từ cá nhân tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau: lứa tuổi, giới tính, cá tính
nghề nghiệp, vốn sống, trình độ hiểu biết, quan hệ xã hội, đòa phương sinh sống...
VD: “Bác nói, giọng nó khang khác thế nào ấy. Trời bác nói là giời. Sợ bác nói
là hãi...” (Ma Văn Kháng)
3/ Sự chuyển đổi, sáng tạo khi sử dụng từ ngữ chung, quen thuộc:
- Từ ngữ là vốn từ chung của toàn xã hội.
- Lời nói cá nhân có sự chuyển đổi, sáng tạo trong việc sử dụng từ ngữ kết hợp
từ, tách từ, chuyển loại từ hoặc mang sắc thái phong cách... tạo nên những biểu
hiện mới.
VD: Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi.
4/ Việc tạo ra các từ mới: Cá nhân có thể tạo ra các từ mới từ kho vốn từ chung và
các phương thức chung.
VD: SGK (Tr.12)
5/ Việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo quy tắc chung, phương thức chung: Khi nói
hay viết, cá nhân có thể tạo ra các sản phẩm như từ mới, câu ngữ, đoạn, bài... có sự
chuyển hóa linh hoạt so với những quy tắc và phương thức chung.
VD: SGK (Tr.12+13)
=> Ở VD Tr1.12, tác giả NT đã đảo trật tự cú pháp.
=> Tr.13, tác giả Tô Hoài lại sử dụng phương thức tính lược thành phần CN và
VN của câu.
4
Ngữ văn
KẾT LUẬN:
Biểu hiện của nét riêng trong lời nói cá nhân là PHONG CÁCH CÁ NHÂN.
PHẦN LUYỆN TẬP:
1. Bài tập 1: Trong hai câu thơ dưới đây, từ “thôi” in đậm đã được tác giả sử dụng
với nghóa như thế nào?
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngụi lòng ta.
(Nguyễn Khuyến - Khóc Dương Khê)

=> Từ “thôi” vốn có nghóa chung là chấm dứt, kết thúc một hoạt động nào đó
nhưng trong bài thơ này, NK đã sáng tạo, “thôi” có nghóa: sự mất mát, sự đau đớn.
“Thôi” là hư từ được NK dùng trong câu thơ để diễn tả nỗi đau của mình khi nghe
tin bạn mất, đồng thời cũng là cách nói giảm để giảm bớt nỗi mất mát quá lớn
không gì bù đắp nỗi.
2. Bài tập 2: Nhận xét về cách sắp đặt từ ngữ trong 2 câu thơ sau. Cách sắp đặt ấy
tạo được hiệu quả giao tiếp như thế nào?
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
(Hồ Xuân Hương - “Tự tình” II)
- Hai câu thơ của HXH được sắp xếp theo lối đối : “xiên ngang - đâm toạc; mặt
đất - chân mây; rêu từng đám - đá mấy hòn. Kết hợp với hình thức đảo ngữ.
- Thiên nhiên trong 2 câu thơ cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Rêu
là một sinh vật nhỏ yếu nhưng không khuất phục mà phải “xiên ngang mặt đất”. Đá
vốn rắn chắc nhưng giờ đây lại nhọn hoắt hơn để “đâm toạc chân mây”.
- Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đảo ngữ để làm nổi bật sự phẫn uất của thiên
nhiên mà cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người. Các động từ mạnh “xiên”,
“đâm” kết hợp với các bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện sự bướng bỉnh, ngang
ngạnh của thi só.
=> Cách sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như : đối lập, đảo ngữ, cách dùng từ
ngữ tạo hình đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, làm nên cá tính sáng tạo của HXH.
Cách miêu tả thiên nhiên của bà bao giờ cũng cựa quậy, căng đầy sức sống ngay
cả trong những tình huống bi đát nhất.
5
Ngữ văn
TỪ NGÔN NGỮ CHUNG ĐẾN LỜI NÓI CÁ NHÂN
(Tiết 2)
III. QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ CHUNG VÀ LỜI NÓI CÁ NHÂN:
- Ngôn ngữ chung là cơ sở để mỗi cá nhân sản sinh ra những lời nói cụ thể của
mình, đồng thời lónh hội được lời nói của cá nhân khác.

- Lời nói cá nhân vừa có phần biểu hiện của ngôn ngữ chung, vừa có nét riêng.
Hơn nữa, cá nhân có thể sáng tạo, góp phần làm biến đổi và phát triển ngôn ngữ
chung.
LUYỆN TẬP:
1/ Bài tập 1:
- Nghóa từ nách trong câu thơ: Phần giao nhau giữa hai bức tường tạo thành một
góc.
- Nhận xét: Nguyễn du tạo nên nghóa chuyển theo phương thức ẩn dụ.
2/ Bài tập 2: Ý nhóa từ xuân trong lời thơ mỗi tác giả
- Xuân trong lời thơ Hồ Xuân Hương: vừa là mùa xuân; vừa là sức sống tuổi trẻ
- Xuân trong lời thơ Nguyễn Du: người con gái trẻđẹp
- Xuân trong lời thơ Nguyễn Khuyến: vừa là rượu ngon; vừa là tình cảm bạn bè
dạt dào
- Xuân trong lời thơ Hồ Chí Minh: vừa là mùa đầu tiên trong năm; vừa là sức
sống mới, tươi đẹp
3/ Bài tập 3: Ý nghóa từ mặt trời trong lời thơ mỗi tác giả
- Huy Cận mặt trời được dùng với nghóa gốc
- Tố Hữu mặt trời là lý tưởng cộng sản (nghóa ẩn dụ)
- Nguyễn Khoa Điềm mặt trời được dùng với nghóa gốc; và mặt trời là đứa con
(nghóa ẩn dụ)
4/ Bài tập 4: Những từ mới và quy tắc cấu tạo:
a. - mọn mằn: nhỏ bé, tầm thường, không đáng kể.
- Được tạo ra từ tiếng mọn; theo phương thức láy phụ âm đầu.
b. - giỏi giắn: rất giỏi (mang sắc thái thiện cảm, ngợi khen)
- Được tạo ra từ giỏi; theo phương thức láy phụ âm đầu.
c. - nội soi: ở bên trong
- Được tạo ra hai từ nội, soi; theo phương thức từ ghép chính phụ.
6
Ngữ văn
ĐỌC VĂN: TỰ TÌNH

Hồ Xuân Hương
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Tác giả: Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh, năm mất), quê ở làng Quỳnh Đôi,
huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long.
Bà là người có cuộc đời và tình duyên ngang trái, éo le.
2/ Nội dung thơ văn HXH: Thể hiện lòng thương cảm đối với người phụ nữ, khẳng
đònh vẻ đẹp và khát vọng của họ.
3/ Xuất xứ: “Tự tình” II nằm trong chùm thơ “Tự tình” của HXH (gồm 3 bài), tập
trung thể hiện sự cảm thức về thời gian và tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước
duyên phận éo leo và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: Bài thơ là sự cảm thức về thời gian
1/ Bốn câu thơ đầu: Hoàn cảnh và tâm trạng của nhà thơ
* Hai câu đề:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
- Thời gian hiện lên với âm thanh “văng vẳng trống canh dồn” => Nghe âm
thanh văng vẳng của trống canh, không chỉ là sự cảm nhận bằng thính giác mà còn
là sự cảm nhận sự trôi đi của thời gian. Thời gian không ngừng trôi, cuộc đời con
người có giới hạn vì thế tiếng trống càng thôi thúc, tâm trạng con người càng rối
bời.
- Từ “trơ” : có nhiều nghóe:
+ tủi hỗ, bẽ bàng
+ với XH từ “trơ” còn kết hợp với từ “nước non” là sự thách thức với thời
gian, với tạo hóa
=> Từ “trơ” đặt ở đầu câu với nghệ thuật đảo ngữ, vừa nói được bản lónh
nhưng cũng vừa thể hiện nỗi đau của nhà thơ. Nó đồng nghóa với từ “trơ”
trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan (Đá
vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt)
- Từ “hồng nhan” chỉ dung nhan của người thiếu nữ nhưng lại kết hợp với từ
“cái” gợi lên sự rẻ rúng, mỉa mai, chua chát.

=> Câu thơ thứ hai chỉ đề cập đến một vế “hồng nhan” nhưng lại gợi lên sự
bạc phận, vì vậy nỗi xót xa cay đắng càng thấm thía, càng bẽ bàng. Nhòp
thơ 1 / 3 / 3 cũng nhấn mạnh sự bẽ bàng ấy.
7
Ngữ văn
* Hai câu thực:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
- Cay đắng về thân phận của mình, nhà thơ đã mượn chén tiêu sầu nhưng càng
uống càng tỉnh, càng bẽ bàng, chua chát.
=> Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng quẩn quanh, tình duyên đã trở thành
trò đùa của con tạo, càng say càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau của thân phận. Câu
thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, đó là sự đồng điệu giữa trăng và người.
Cảnh tình của HXH được thể hiện qua hình tượng thơ chứa đựng sự éo le: Trăng
sắp tàn (bóng xế) mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân trôi qua mà tình duyên
không trọn vẹn. Hương rượu để lại vò đắng chua chát, hương tình thoáng qua chỉ để
lại phận hẩm duyên ôi.
=> Bốn câu đầu là sự cảm nhận về thời gian. Ngồi một mình trong đêm khuya,
đối diện với hoàn cảnh, nhà thơ cảm nhận về nỗi đau đớn, xót xa của bản thân một
cách thấm thía.
2/ Hai câu luận: Tâm trạng phẩn uất trước duyên phận
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mây hòn
* Hình thức đối: “xiên ngang - đâm toạc”; “mặt đất - chân mây”; “rêu từng
đám - đá mấy hòn”, kết hợp với hình thức đảo ngữ => Thiên nhiên mang nỗi niềm
phẩn uất của con người.
* “Rêu” là một sinh vật nhỏ yếu, hèn mọn nhưng cũng không chòu khuất phục.
Nó phải “xiên ngang mặt đất” thành từng đám, thể hiện sự mạnh mẽ. Đá vốn rắn
chắc nhưng cũng phải “nhọn hoắt” để “đâm toạc chân mây”.
* Nhà thơ đã sử dụng hình thức đảo ngữ để làm nổi bật sự phẫn uất của thiên

nhiên mà cũng là tâm trạng phẫn uất của con người.
Các động từ mạnh: “xiên”, “đâm” kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” thể hiện
sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, khẳng đònh bản lónh Xuân Hương.
=> Cách sử dụng lối đối, lối đảo ngữ, cách dùng từ ngữ tạo hình gây ấn tượng
mạnh mẽ, làm nên cá tính sáng tạo của XH. Cách miêu tả thiên nhiên trong thơ
XH bao giờ cũng cựa quậy, căng đầy sức sống ngay cả trong những tình huống bi
thảm nhất.
3/ Hai câu kết: Tâm trạng bi kòch, chán chường
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
8
Ngữ văn
- “ngán” => chán ngán, ngán ngẩm
- Cụm từ “xuân đi xuân lại lại” => cái vòng lẩn của tạo hóa. “xuân” vừa là mùa
xuân, vừa là tuổi xuân. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghóa với sự ra đi của tuổi
xuân. Từ “lại”thứ nhất có nghóa là thêm một lần nữa. Nhưng “lại” thứ hai lại là sự
trở lại. Vì vậy 2 từ lại giống nhau về âm nhưng lại khác nhau về nghóa, về cấp đỗ
nghóa.
- Câu cuối “Mảnh tình / san sẻ / tí / con con” đây là cách nói giảm dần. Tình
duyên không được trọn vẹn là một khối tình mà là “mảnh tình” quá bé mọn.
“Mảnh tình” ấy lại còn phải san sẻ đến từng “tí” lại thêm “con con”. Đó là tâm
trạng của kẻ làm lẽ nhưng cũng là nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội PK xưa,
khi hạnh phúc của họ luôn là chiếc khăn quá hẹp.
=> Bằng hình thức nói giảm, nhà thơ đã thể hiện khát vọng sống, khát vọng
hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội PK xưa.
9
Ngữ văn
ĐỌC VĂN: CÂU CÁ MÙA THU
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Tác giả: Nguyễn Khuyến (1935-1909) hiệu là Quế Sơn, quê hương ở làng Yên

Đỗ, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho
nghèo và đỗ đầu ba kỳ thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình.
2/ Nội dung thơ văn Nguyễn Khuyến: Nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia
đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất
phác; châm biếm đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trò, đồng thời bộc lộ
tấm lòng ưu ái với dân với nước.
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1/ Cảnh thu:
a) Điểm nhìn để cảm nhận mùa thu của tác giả:
Cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trở lại gần:
Từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc, rồi trở
về với ao thu, với thuyền câu.
=> Không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
b) Cảnh thu trong “Thu điếu” là “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh
Việt Nam”: không khí mùa thu được gợi lên từ sự dòu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật:
- Màu sắc: Nước trong veo, sóng biếc, trời xanh ngắt.
- Đường nét, chuyển động: Sóng hơi gợn tí, lá vàng khẽ đưa vèo, tầng mây lơ
lửng.
- Hòa sắc tạo hình: “Cái thú vò của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao,
xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang
của chiếc lá thu rơi”. (Xuân Diệu)
- Ao thu nhỏ, chiếc thuyền câu theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng như
thu lại.
=> Nét riêng của làng quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã đã được gợi lên từ khung ao
hẹp, từ cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co.
c) Cảnh trong Thu điếu là cảnh đẹp nhưng tónh lặng và đượm buồn”
- Không gian tónh, vắng người, vắng tiếng : “Ngõ trúc quanh co khách văng
teo”.
- Các chuyển động rất nhẽ, rất khẽ, không đủ tạo âm thanh: Sóng hơi gợn, mây
lơ lững, lá khẻ đưa.

10
Ngữ văn
- Tiếng cá đớp mồi càng làm tăng sự yên ắng, tónh mòch của cảnh vật: “Cá đâu
đớp động dưới chân bèo”
+ Đâu có cá => phủ đònh
+ Cá đớp mồi ở đâu đó => khẳng đònh
⇒ Nét đặc trưng của mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ: Cảnh thu vừa
trong vừa tónh.
2/ Tình thu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
- Nói chuyện câu cá nhưng thực ra không chú ý đến việc câu cá. Nói câu cá
nhưng thực ra để đón nhận trời thu, cảnh thi vào cõi lòng => tâm hồn tónh lặng.
- Dáng ngồi như cố thu mình cho nhỏ lại để hòa lẫn vào cảnh vật.
- Tiếng lá “khẽ đưa vèo” ở câu 4 và tiếng “cá đớp động” ở câu 8 => nghệ thuật
lấy động tả tónh để nhấn mạnh cái tónh lặng của mùa thu ở nông thôn Việt Nam =>
Tâm trạng u hoài man mác, nỗi ưu tư thời thế của một con người muốn giữ được
tiết sạch giá trong giữa cuộc đời rối ren nghiêng ngửa.
⇒ Qua bài Câu cá mùa thu, người đọc cảm nhận ở Nguyễn Khuyến một tâm
hồn tha thiết gắn bó với thiên nhiên, đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín
nhưng không kém phần sâu sắc.
3/ Thành công nghệ thuật:
- Ngôn ngữ giản dò, trong sáng đến kỳ lạ, có khả năng diễn đạt những biển hiện
rất tinh tế của sự vật, những biểu hiện rất tinh tế của sự vật, những uẩn khúc thầm
kín khó giải bày của tâm trạng.
- Vần “eo”, oái ăm, khó làm được NK sử dụng một cách tài tình. Đây không
đơn thuần là dùng hình thức chơi chữ mà chính là dùng vần để biểu đạt nội dung.
Vần “eo” góp phần diễn tả một không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, phù hợp với
tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ.
- Câu cá mùa thu thể hiện một trong những đặc sắc nghệ thuật phương Đông:

Lấy động tả tónh.
11
Ngữ văn
PHÂN TÍCH ĐỀ, LẬP DÀN Ý BÀI VĂN NGHỊ LUẬN
I. PHÂN TÍCH ĐỀ:
- Trước khi phân tích đề:
+ Đọc kỹ đề bài
+ Gạch chân các từ then chốt
- Các thao tác phân tích đề:
+ Xác yêu cầu nội dung của đề (luận đề)
+ Xác đònh yêu cầu hình thức (thể loại)
+ Xác đònh phạm vi tư liệu, dẫn chứng
II. LẬP DÀN Ý:
1. Xác lập luận điểm
2. Xác lập luận cứ
3. Sắp xếp luận điểm, luận cứ
12
Ngữ văn
LUYỆN TẬP THAO TÁC TÍCH ĐỀ
1. BÀI TẬP 1: SGK/43
a) Những biểu hiện và tác hại của thái độ tự ti:
* Giải thích thế nào là tự ti:
Tự ti : tự đánh giá mình kém, thiếu tự tin về những khả năng của mình.
* Biểu hiện của thái độ tự ti:
- Không dám tin tưởng vào năng lực, sở trường, sự hiểu biết của mình.
- Nhút nhát, tránh những chỗ đông người.
- Không dám đảm nhận công việc được giao.
* Tác hại của thái độ tự ti: Xa lánh mọi người nên không có cơ hội để học tập,
vươn lên...
b) Những biểu hiện và tác hại của thái độ tự phụ:

* Giải thích : Thế nào là tự phụ?
Tự phụ: Tự đánh giá quá cao về thành tích, khả năng của bản thân, tự cho mình
là tài giỏi hơn người.
* Biểu hiện của thái độ tự phụ:
- Huênh hoang, kiêu ngạo
- Đề cao bản thân
- Coi thường người khác
* Tác hại của thái độ tự phụ: Dễ bò cô lập do lối sống ích kỷ không hòa hợp với
cộng đồng, không có điều kiện để học hỏi tiến bộ...
c) Thái độ sống hợp lý:
- Đánh giá đúng bản thân để phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu
- Tự tin, khiêm tốn, luôn biết lắng nghe, tích cực học tập v.v..
2. BÀI TẬP 2: SGK/43
* Từ ngữ giàu sức gợi tả, gợi cảm
- “Lôi thôi”: từ láy tượng hình, miêu tả dáng vẻ luộm thuộc của só tử (vai đeo
lọ)
- “Ậm ọe”: từ láy tượng thanh, mô phỏng tiếng nói qua loa, to nhưng không
rõ, tiếng được, tiếng mất do luồng hơi phát ra bò cản, bò tắc nghẹn.
=> Cả hai từ “Lôi thôi” và “Ậm ọe” đều gợi sự không nghiêm túc, mất tư thế
và gây cười.
* Biện pháp đảo ngữ:
Hai từ “Lôi thôi” và “Ậm ọe” được đặt ở đầu hai câu thơ bình đối làm nổi bật
sự mất tư thế của só tử và quan trường.
13
Ngữ văn
* Hình ảnh đối:
Só tử vai đeo lọ >< quan trường miệng thét loa:
- “Só tử vai đeo lọ”: Só tử thì vai đeo lọ (bằng sành hoặc sứ, dùng để đựng
nước) trông lôi thôi lếch thếch, đâu còn cái vẻ nho nhã, lòch sử của kẻ thư sinh, nho
só ngày xưa.

- “Quan trường miệng thét loa”: Quan trường thì hách dòch, cố làm ra vẻ oai
nghiêm, “thét” lên nhưng miện thì ậm à ậm ọe.
* Cảm nhận về cảnh thi cử:
Bằng những nét tả thực rất sinh động, tác giả tái hiện lại cảnh tượng vừa khôi
hài vừa thảm hại ở chốn trường thi “cuối mùa” (Khoa thi Hương năm Đinh Dậu
1897 ở Nam Đònh). Sau hình ảnh đó là nụ cười chua xót của Tú Xương: Hán học đã
đi xuống mà các só tử vẫn cố bám lấy đi tìm công danh.
14
Ngữ văn
THƯƠNG V
Trần Tế Xương
I. TÌM HIỂU VĂN BẢN:
1/ Tác giả: Trần Tế Xương (1870-1907)
- Quê : Làng Vò Xuyên, huyện Mó Lộc, Nam Đònh
- Tú Xương có cá tính phóng túng, không chòu gò mình vào khuôn sáo trường
quy. Thi nhiều lần chỉ đậu tú tài.
- Tú Xương sống ở thời đại xã hội Việt Nam đang chuyển mình theo hướng tư
sản chế độ thuộc đòa nửa PK, nhiều cảnh chướng tai gai mắt.
* Sáng tác: trên 100 bài thơ Nôm, thể loại thất ngôn bát cú, Tứ tuyệt, song thất
lục bát, phú
- Sở trường : thơ trào phúng, tiếng cười cất lên từ nền tảng trữ tình mang nội
dung nhân đạo thiết tha.
- Tiếng cười nhiều cung bậc, có khi châm biếm sâu cay, có khi đả kích quyết
liệt, hoặc tiếng cười tự trào ân hận ngậm ngùi.
- Tú Xương là nhà thơ lớn cuối cùng của văn học trung đại.
* TPTB: Năm mới chúc nhau, Mồng hai tết viếng cô Kí, Vònh khoa thi Hương
2/ Bài thơ “Thương vợ”:
a) Đề tài: viết về bà Tú
b) Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường Luật
c) Chủ đề: Qua hình ảnh bà Tú chòu thương chòu khó nuôi chồng nuôi con, giàu

đức hy sinh, đảm đang, tần tảo và ân tình sâu nặng của bà Tú. Tác giả thể hiện tình
cảm yêu thương, cảm phục, lòng biết ơn vợ xen lẫn chút ăn năn của ông Tú
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1/ Hai câu đề: Hoàn cảnh buôn bán của bà Tú
- Thời gian → quanh năm, triền miên suốt bốn mùa không ngơi nghỉ
- Không gian → mom sông là nơi chỗ đất nhô ra bờ sông, rất nguy hiểm
- Bà Tú làm nghề buôn bán → nghề khó khăn cực nhọc, phải lo liệu, phải tính
toán
- Tác giả giới thiệu thời gian, đòa điểm, công việc của bà Tú phải buôn bán gạo
trên một đòa điểm chênh vênh, nguy hiểm → nhưng bà Tú không nền hà, tảo tần vì
chồng con.
- Hình ảnh bà Tú nhỏ bé cô đơn, một mình nơi đầu sông bến bãi để nuôi chồng
con
15
Ngữ văn
- Nuôi đủ → đủ ăn, đủ mặc → không dư cũng không thiếu → nuôi đủ cả chồng
và con, không ai phải thiếu ăn không ai thiếu mặc.
- Nuôi 5 con 1 chồng → số từ, so sánh, nhòp thơ 4/3 → cách nói hòm hỉnh của
nhà thơ mẹ muôi con là lẻ thường tình, nhưng bà Tú phải nuôi cả ông chồng vô tích
sự. Ông tự hạ mình đứng sau con → như một người ăn ké ăn theo sau con, đằntg
sau nụ cười hóm hỉnh ấy là tấm lòng tri ân của Tú Xương đối với vợ mình
2/ Hai câu thực: Hình ảnh bà Tú lặn lội nuôi chồng con
- “Lặn lội” → đảo ngữ, nhấn mạnh nỗi cơ cực của bà Tú
- “Thân cò” vận dụng dáng tạo ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi
chồng tiếng khóc nỉ non”
- “Quãng vắng” không gian vắng lặng hiu quạnh, bà Tú vẫn lặn lội vất vả một
mình thui thủi, bươn chải, lam lũ vì chồng con
- Phép đối câu 3 và câu 4 nhấn mạnh nỗi cơ cực bà Tú. Từ láy “Eo sèo” từ gợi
thanh từ gợi hình → âm thanh tranh mua tranh bán trả giá nơi đầu sông bến chợ.
- Buổi đò đông → là lúc đông người đông đò → tranh mua tranh bán → nguy

hiểm đến tính mạng con người nhưng bà Tú không ngại gian khổ vất vả và mưu
sinh để nuôi chồng nuôi con → Ông Tú rất hiểu nỗi vất vả lam lũ của vợ vì vậy
vần thơ chan chứa ân tình sâu nặng của ông đối với bà Tú.
3/ Hai câu luận: Đức hạnh của bà Tú
- “Một duyên hai nợ” số từ tăng cấp → bà Tú xuất thân là dòng dõi khuê các,
bà lấy ông Tú do duyên phận. Duyên chỉ có 1 mà nợ đến những 2 → vì chồng vì
con, cho nên bà Tú “âu đành phận”, dám quản công chấp nhận số phận không hề
hà, không kể âm thầm một đời hy sinh vì chồng vì con → một đức tính đáng quý
- “Năm nắng mười mưa” → thành ngữ bà Tú vì chồng von mà dầm mưa dãi
nắng là trụ cột chính của gia đình → một vẻ đẹp của người phụ nữ một lòng hy sinh
vì chồng con, bà Tú tiêu biểu cho người phụ nữa Việt Nam đảm đang tháo vát chòu
thương chòu khó thảo hiền, giàu lòng vò tha. Đằng sau vần thơ trữ tình ấy là tấm
lòng tri ơn của ông đối với vợ.
4/ Hai câu kết: Giọng thơ chuyển sang trào lộng
- Tiếng chửi đổng của Tú Xương “Cha mẹ thói đời” → để tự trách mình, “ăn ở
bạc” biết vợ vất vả nhưng không giúp gì cho vợ cho nên ông nhập vai bà Tú để
than thở giùm vợ → Tâm trạng chua xót, nhưng đành bất lực trước nhân tình thế
thái.
- “Có chồng hờ hững cũng như không” → so sánh, từ láy → một ông chồng vô
tích sự. Qua bài thơ ta thấy được tình cảm biết ơn, quý trọng của ông Tú dành cho
bà Tú và ông cũng tự trách bản thân mình.
16
Ngữ văn
ĐỌC THÊM: KHÓC DƯƠNG KHÊ
Nguyễn Khuyến
A. BƯỚC l:
GV hướng dẫn cho HS đọc diễn cảm văn bản, sau đó hướng dẫn cho HS tìm
hiểu hoàn cảnh sáng tác bài thơ.
B. BƯỚC 2:
GV hướng dẫn HS thảo luận và trả lời câu hỏi trong SGK.

1. Câu 1: Theo anh (chò), bài thơ này có thể chia làm mấy đoan? Nội dung của mỗi
đoan là gì?
Trả lời: Bài thơ được viết theo dòng cảm xúc của tác giả. Vì vậy, bài thơ có thể
chia thành 4 đoạn:
- 2 câu dầu: Tin bạn mất đến đột ngột.
- 12 câu tiếp theo: Sự hồi tưởng về những kỷ niệm gắn bó 2 người thành tri kỉ.
- 8 câu tiếp theo: ấn tượng về lần gặp gỡ cuối cùng khi cả hai đều đã mãn
chiều, xế bóng.
- 16 câu còn lại: Nỗi đau đớn, tiếc thương khi bạn mất.
2. Câu 2: Tình bạn thắm thiết, thủy chung...... (SGK. Tr.32).
Trả lời: Tình bạn thắm thiết, thủy chung giữa hai người được tác giả diễn đạt
qua sự vận động của cảm xúc thơ. Đầu tiên là nỗi đau khi nghe tin bạn qua đời.
Câu thơ “Bác Dương thôi đã thôi rồi!” là tiếng kêu thương đột ngột, thất vọng.
Cụm từ “thôi đã thôi rồi” chỉ gồm những hư từ nhằm nhấn mạnh sự mất mát không
gì bù đắp nổi. Câu thơ thứ hai dàn trải diễn tả sự mất mát, cả không gian như cũng
nhuộm màu tang tóc.
Tình bạn thắm thiết ấy được cụ thể hóa qua đoan thơ thứ hai. Đó là những kỉ
niệm về một thời đèn sách, những thú vui nơi dặm khách, nơi gác hẹp đắm say
trong lời ca, tiếng đàn, nhòp cách...
Tình bạn ấy còn được thể hiện trong đoàn kết, diễn tả nỗi đau của tác giả khi
bạn không còn nữa. Nỗi đau dược diễn tả ở nhiều cung bậc: lúc đột ngột, lúc ngậm
ngùi, luyến tiếc, lúc lắng đọng, thấm sâu chi phối tuổi già của tác giả. Hai câu kết
là nỗi đau không nước mắt, nỗi đau đã dồn vào trong lòng.
3. Câu 3: Đây là một bài thơ có nghệ thuật tu từ đặc sắc. . . ( SGK. Tr.32)
Trả lời: Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ:
- Cách nói giảm: “Bác Dương thôi dã thôi rồi!”
- Biện pháp nhân hóa: “nước mây man mác ...”
- Cách so sánh: “Tuổi già hạt lệ như sương”
- Cách liệt kê: Có lúc, có khi, cũng có khi ... nhằm tái hiện những kỷ niệm về
tình bạn thân thiết và lòng của nhà thơ với bạn.

17
Ngữ văn
ĐỌC THÊM: VỊNH KHOA THI HƯƠNG
Trần Tế Xương
A. BƯỚC 1 : GV cho HS đọc diễn cảm văn bản.
B. BƯỚC 2: GV hướng dẫn HS trả lời câu hỏi trong SGK.
Câu 1: Hai câu thơ đầu cho thấy kì thì có gì khác thường? (chú ý phân tích kỹ từ
“lẫn”).
Trả lời: Hai câu đầu có tính tự sự, kể lại cuộc thi Hương năm Đinh Dậu. Kì thi
mở đúng thông lệ, ba năm mở một khoa. Nhưng đến câu thơ thứ 2 thì bộc lộ rõ sự
bất bình thường trong cách tổ chức: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Từ “lẫn”
đã bộc lộ rõ sự ô hợp, nhộn nhạo trong thi cử.
Câu 2: Anh (chò) có nhận xét gì về hình ảnh só tử và quan trường?...(SGK/Tr.34. ).
Trả lời: Hai câu thực đã thể hiện rõ sự ô hợp của kì thi. Tác giả chú ý miêu tả
được hai đối tượng chủ yếu nhất trong các kì thi: só tử và quan trường. Biện pháp
đảo ngữ “lôi thôi só tử” vừa nhấn mạnh sự luộm thuộm không gọn gàng, vừa khái
quát được những hình ảnh só tử trong kì thi ấy. Đó là hình ảnh khái quát dược sự sa
sút về “nho phong só khí” do sự ô hợp, nhốn nháo của xã hội đưa lại.
Hình ảnh quan trường “ậm ọe miệng thét loa” gợi lên sự oai phong nhưng là cái
oai cố tạo ra. Tù “ậm ọe” diễn tả âm thanh ngọng nghòu của quan trường. Biện
pháp đảo ngữ “ậm ọe quan trường” cũng nhấn mạnh tính chất lộn xộn của kì thi.
Câu 3. Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm. . . . (SGK Tr.34).
Trả Lời: Đối lập với hình ảnh só tuyệt quan trường là hình ảnh quan sứ và bà
đầm. Hai nhân vật này được đón tiếp rất linh đình, “cờ cắm rợp trời". Biện pháp
đảo ngữ kết hợp với nghệ thuật đối đã được vận dụng một cách triệt để, tạo nên
sức mạnh đả kích, châm biếm dữ dội, sâu cay: cờ trước, người sau, váy trước, người
sau. Tú Xương đã đem “cờ” che đầu quan sứ đối với “váy” bà đầm tạo nên tiếng
cười nhưng ẩn sau tiếng cười là sự xót xa.
Câu 4: Phân tích tâm trạng, thái độ của tác giả trước cảnh quan trường... (SGK.
Tr.34).

Trả lời: Hai câu kết chuyển từ giọng diệu mỉa mai, châm biếm sang trữ tình. Đó
là lời kêu gọi, đánh thức lương tri. Câu hỏi phiếm chỉ “nhân tài đất Bắc nào ai đó”
không chỉ hướng đến các só tử thi năm đó mà còn là những người được xem là
“nhân tài đất Bắc”, hãy “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. Từ một khoa thi,
những bức tranh hiện thực của xã hội năm Đinh Dậu được hiện lên. Bên cạnh đó
còn là nỗi nhục mất nước, là sự tác động đến tâm linh người đọc.
18
Ngữ văn
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
Nguyễn Công Trứ
I. TÁC GIẢ:
1/ Cuộc đời:
- Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn.
Xuất thân trong một gia đình nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tónh. Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống trong nghèo khó và chính trong thời
gian này, Nguyễn Công Trứ có điều kiện tham gia sinh hoạt hát ca trù và vốn khá
phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông.
- Năm 1819, ông thi đỗ Giải Nguyên và được bổ làm quan. Bằng cuộc đời của
chính bản thân, ông đã chứng tỏ mình là người có tài năng và nhiệt huyết trên
nhiều lónh vực xã hội từ văn hóa, kinh tế đến quân sự. Nhưng con đường làm quan
của Nguyễn Công Trứ gặp nhiều thăng trầm.
2/ Sự nghiệp sáng tác: rất phong phú gồm:
- Chữ Nôm: 50 bài thơ, 61 bài ca trù, một số câu đối, một bài phú nổi tiếng là
“Hàn nho phong vò phú”
- Một số bài thơ chữ Hán
→ Sáng tác chữ Nôm là chủ yếu, thể loại ưa thích của ông là hát nói (còn gọi là
ca trù), thể loại phong phú tính nhạc. Nguyễn Công Trứ là người có công đem đến
cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.
3/ Hoàn cảnh sáng tác:
“Bài ca ngất ngưởng” được sáng tác vào năm 1848 khi Nguyễn Công Trứ cáo

quan về hưu.
4/ Thể loại: Hát nói
Là thể loại tổng hợp giữa ca nhạc và thơ, có tính chất tự do phóng khoáng.
Thích hợp với việc thể hiện con người cá nhân.
5/ Bố cục: 3 phần
a) 6 câu đầu: Ngất ngưởng khi làm quan
b) 12 câu tiếp theo: Ngất ngưởng khi về hưu
c) 3 câu cuối: Ngất ngưởng giữa đám quan lại đương triều
6/ Chủ đề:
“Bài ca ngất ngưởng” thể hiện triết lý sống, khát vọng tự do, thái độ khinh đời
ngạo thế, tự ý thức về tài năng và phẩm chất của một bậc danh só phong lưu, tài tử
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1/ Ý nghóa từ “Ngất ngưởng”
19
Ngữ văn
- Nghóa đen: Là tư thế ngả nghiêng, không vững chắc
- Nghóa trong bài thơ là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lónh cá nhân trong
cuộc sống.
- Cảm hứng chủ đạo của bài ca được thể hiện tập trung qua từ “Ngất ngưởng”,
từ này xuất hiện 4 lần trong tác phẩm (không kể tiêu đề của bài).
+ “Ngất ngưởng”
(1)
Khi làm quan → Thái độ tự hào của một con người ý thức
được tài năng và phẩm chất của bản thân.
+ “Ngất ngưởng”
(2, 3)
Khi về hưu → Thái độ tinh thần của một con người biết
vượt lên trên thực tế, sống an nhiên tự tại.
+ “Ngất ngưởng”
(4)

:
 Lời tự bạch của tác giả
 Lời bình giá của người đời về ông
2/ Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi làm quan (6 câu đầu)
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
- Nguyễn Công Trứ quan niệm: Mọi việc trong trời đất không có việc nào là
không có phận sự của ta.
- Câu thơ chữ Hán trang trọng + Hình thức phủ đònh để khẳng đònh trách nhiệm
của kẻ làm trai đối với đời.
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
- Tác giả xưng danh một cách kiêu hãnh “Ông Hi Văn tài bộ” khẳng đònh tài
năng của mình. Cách nói hài hước bằng hình ảnh so sánh “vào lồng” diễn tả sự gò
bó, mất tự do khi làm quan triều đình.
→ Hai câu thơ đầu: Nguyễn Công trứ xác đònh người thanh niên sống phải có
mục đích, có trách nhiệm với đời.
“Khi thủ khoa, khi tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm theo lược đã nên tay Ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”
- Điệp từ “khi” + phép liệt kê “Thủ khoa”, “Thám tán” “Tổng đốc Đông”,
“bình Tây”, “Phủ doãn Thừa Thiên” + Đại từ “tay” kết hợp với từ “ngất ngưởng” +
cách ngắt nhòp linh hoạt: Câu 3 nhòp 3/4.
Câu 4 nhòp 3/2/3
Câu 5 nhòp 3/3
Câu 6 nhòp 3/4
→ Bộc lộ cảm xúc kiêu hãnh tự hào về tài văn, võ của mình.
3/ Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng khi về hưu: (10 câu tiếp theo)
* Sống tự do phóng khoáng:
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”

20
Ngữ văn
- Khi về hưu, nhàn rỗi, ông đi ngao du sơn thủy. Ông thường cưỡi bò vàng đeo
nhạc ngựa rất khác người.
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
- Vốn là một tướng võ nhưng phong thái của ông cũng có vẻ từ bi. Đi vãn cảnh
chùa mà bên cạnh còn có vài giai nhân. → Lối sống “ngất ngưởng” vượt lên trên
thế tục, thoát khỏi sự ràng buộc của lễ giáo gia phong kiến hà khắc khiến “bụt
cũng nực cười”.
* Sống an nhiên tự tại:
“Được mất dương đương người thế thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”
- Hình ảnh so sánh thể hiện quan niệm sống : chuyện “được mất” ở đời chỉ như
chuyện “Tái ông thất mã”. Chuyện “khen, chê” của dư luận bỏ ngoài tai, cứ vui
phơi phới như đi trong gió xuân ấm áp.
- Hàng loạt các từ xuất hiện trong đoạn thơ “phau phau”, “đủng đỉnh”, “dương
dương”, “phơi phới” → trạng thái tinh thần hết sức thoải mái của nhà thơ khi thoát
vòng cương hỏa.
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục”
- Nhòp thơ: 2 / 2 / 2 / 2; 2 / 2 / 3 + Điệp từ “khi” + nghệ thuật liệt kê → kể rõ
những thú vui của nhà thơ: Ngâm thơ, uống rượu, nghe hát ả đào.
- Điệp từ “không” → phủ đònh những lề thói cổ hủ trong cuộc đời trần tục.
⇒ Tất cả thể hiện bản lónh vững vàng của một nhà nho chân chính.
4/ Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng giữa đám quan lại đương triều:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn Phú
Nghóa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
- Tác giả so sánh mình với những bậc danh só trong lòch sử như Trái Tuân, Nhạc
Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật (Trung Quốc)
- Từ “ngất ngưởng” → khẳng đònh ông khác hẳn đám quan lại đương thời từ tào
năng đến phẩm cách, nhất là trước sau vẹn đạo vua tôi.
- Đại từ “Ông” khép lại bài thơ vang lên một cách kiêu hãnh tự hào.
III. KẾT LUẬN:
- “Ngất ngưởng” là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lónh cá nhân trong
cuộc sống.
- Hát nói là thể loại có tính chất tự do phóng khoáng phù hợp với việc thể hiện
con người cá nhân.
21
Ngữ văn
BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN BÃI CÁT
(SA HÀNH ĐOẢN CA)
Cao Bá Quát
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Tác giả: Cao Bá quát (1809-1855)
- Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, Mẫn Hiên, người Phú Thò, Gia Lâm, Bắc Ninh
- Văn võ toàn tài - 1854 khởi nghóa chống lại phong kiến nhà Nguyễn.
- Ông là nhà thơ tài năng - bản lónh bộc lộ chí khí thanh cao, hoài bão lớn phê
phán chế độ phong kiến nhà Nguyễn bảo thủ, trì trệ.
2/ Tác phẩm: “Bài ca ngắn trên bãi cát” (Sa hành đoản ca)
a) Hoàn cảnh ra đời bài thơ:
Cao Bá Quát đã nhiều lần vào Huế để thi Hội (nhưng không đậu tiến só). Hành
trình từ Hà Nội vào Huế đi qua nhiều tỉnh miền Trung có những bãi cát trắng mênh
mông. Hình ảnh này đã gợi cảm hứng cho nhà thơ sáng tác bài “Bài ca ngắn trên
bãi cát”
b) Thể loại: Bài thơ viết theo thể ca hành thuộc loại cổ thể phần tự do về kết
cấu, vần, nhòp điệu.

c) Bố cục: 2 đoạn
- Đoạn 1 : 4 câu đầu: Ý nghóa hình tượng “bãi cát’
- Đoạn 2: 6 câu tiếp theo: Sự cám dỗ của danh lợi
- Đoạn 3 : còn lại: Kết luận của tác giả
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN:
1/ Ý nghóa hình tượng: “Bãi cát” (4 câu đầu)
a) Ý nghóa tả thực
* Không gian: “Bãi cát dài”
“Bãi cát dài lại bãi cát dài
Đi một bước lại lùi một bước”
- Điệp ngữ “Bãi cát dài” + điệp từ “bước” + phụ từ “lại” + động từ “đi” và
“lùi” → miêu tả bãi cát mênh mông vô tận, con người đi trên một bước lại thụt lùi
một bước, dường như không thể vượt qua.
* Thời gian: “mặt trời lặn”
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
- Hình ảnh thơ giàu sức gợi tả, gợi cảm
→ Con người tất tả đi khi bóng chiều đã tắt, cô đơn, mệt mỏi và ngao ngán.
=> Hình ảnh con người cô đơn bé nhỏ giữa mò tòt của cát khi mặt trời đã lặn mà
không biết đi về đâu.
22
Ngữ văn
b. Ý nghóa tượng trưng.
- Hình tượng “bãi cát” tượng trưng cho con đường danh lợi lắm gian nan, nhọc
nhằn.
- Hình ảnh người đi trên bãi cát đến lúc mặt trời lặn vẫn còn đi tượng trưng cho
người đời tất tả vì danh lợi (thi cử - đỗ đạt - làm quan)
- Không thể cứ đi mãi trên “bãi cát” danh lợi
2/ Sự cám dỗ của danh lợi (6 câu tiếp theo)
“Không học được tiên ông phép ngủ

Trèo non, lội suối giận không vơi!”
- Sử dụng điển cổ “ông tiên ngũ kó” → nỗi chán nản vì tự mình hành hạ thân
xác theo đuổi bả công danh → mâu thuẫn giữa khát vọng công danh với bả vinh
hoa.
“Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu giỏ hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?”
- Từ láy ‘tất tả” + hình ảnh so sánh độc đáo + câu hỏi tu từ -> diễn tả sự cám dỗ
của danh lợi đối với người đời cũng giống như sự cám giỗ của men rượu mấy ai
thoát khỏi, đồng thời tác giả bày thái độ kinh bỉ phường danh lợi.
3/ Kết luận của tác giả (phần còn lại).
“Bài cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường băng mờ mòt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít ?
- Điệp ngữ “bãi cát dài” + câu cảm thán + câu hỏi tu từ + từ láy “mờ mòt”
→ nhấn mạnh tâm trạng: ngao ngán, mất phương hướng.
“Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt”
+ Phép điệp + NT đối + Tính từ
→ Nhấn mạnh đường đời không lối thoát và sự bế tắc của người tri thức thời ấy.
“Anh đứng làm chi trên bãi cát ?”
- Câu nghi vấn khép lại bài thơ → nhận ra tính chất vô nghóa của lối học khoa
cử, theo lối cũ → khát khao sự thay đổi.
Tổng kết: “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” biểu lộ sự chán ghét của một con người
trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khao khát thay
đổi cuộc sống. Nhòp điệu bài thơ góp phần diễn tả thành công những cảm xúc, suy
tư của nhân vật trữ tình về con đường danh lợi gập ghềnh, trắc trở.
23

Ngữ văn
LẼ GHÉT THƯƠNG
(Trích truyện “Lục Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu)
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1/ Truyện “Lục Vân Tiên”:
- Truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu có lẽ được sáng tác vào
khoảng những năm 90 của thế kỷ XIX khi ông bò mù, về dạy học và chữa bệnh cho
nhân dân ở Gia Đònh.
- Cốt truyện xoay quanh cuộc xung đột thiện, ác, đề cao tinh thần nhân nghóa,
thể hiện khát vọng về một xã hội tốt đẹp.
- Tác phẩm thuộc loại truyện Nôm bác học nhưng đậm chất dân gian gồm 2082
câu thơ.
2/ Đoạn trích:
a) Vò trí:
- Trích từ câu 473 → 504 (32 câu) trong tác phẩm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn
Đình Chiểu.
- Đoạn thơ kể lại cuộc đời đối thoại giữa ông Quán và 4 só tử : Vân Tiên, Tử
Trực, Trònh Hâm, Bùi Kiệm, khi họ đang uống rượu, làm thơ trong quán của ông
(trước lúc vào trường thi)
b) Bố cục: 4 phần
- Câu 1→ 6 : Lời đối đáp giữa ông Quán với Tử Trực và Vân Tiên
- Câu 7 → 16 : Lẽ ghét
- Câu 16 → 30 : Lẽ thương
- Hai câu kết
II. ĐỌC, HIỂU VĂN BẢN:
1/ Câu 1 → 6 : Thái độ ghét thương qua lời đối đáp giữa ông Quán với Vân Tiên
- Nhân vật ông Quán (chủ quán rượu) thuộc lực lượng chính nghóa hỗ trợ nhân
vật chính (trên đường tìm chính nghóa).
- Ông Quán có phong thái một nhà nho ở ẩn, am tường kinh sử và quặn lòng với
những đối tượng làm băng hoại xã hội, đau khổ dân lành.

“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”
→ Vì vậy, ông Quán bày tỏ thái độ ghét thương rất phân minh.
2/ Mối quan hệ giữa ghét - thương trong thái độ ông Quán:
a) Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn - thương dân lầm than: (Câu 7

16)
“đời Kiệt, Trụ mê dâm” >< dân sa lầm sẩy hang
“đời U, Lệ đa đoan” >< dân lầm than
Ghét “đời Ngũ bá phân vân” >< dân nhọc nhằn
“đời thúc quý phân băng” >< rối dân
24
Ngữ văn
- Điệp từ “ghét”, “đời” + liệt kê hàng loạt các điển cố: “Kiệt, Trụ”, “U, Lệ”,
“Ngũ bá”, “thúc quý” + Nghệ thuật đối lập giữa vua quan với dân + điệp từ “dân”
+ động từ “sa, sẩy” + tính từ “lầm than”, “nhọc nhằn”, “rỗi” → Tác giả căm ghét
mãnh liệt những tên vua dâm ác, tham tàn, bạo ngược, những kẻ bề tôi tiếm nghòch
gây khổ lụy chiến tranh, loạn lạc và bộc lộ lòng xót thương sâu s8ác đối với người
dân vô tội phải gánh chòu mọi tai ách, khổ sở trăm chiều.
⇒ Như vậy, tác giả đứng về phía nhân dân mà bày tỏ thái độ yêu ghét rạch ròi,
đúng mực.
b) Ghét thế lực cầm quyền bạo tàn - thương hiền tài không được trọng dụng
(câu 17

30)
- Liệt kê các danh só trong sử sách
+ Khổng tử : Lận đận
+ Gia Cát : Tài đức mà mệnh yểu
+ Nham Tử : Mưu lược tài ba, nhưng không gặp thời
+ Đổng Tử : Tài cao học rộng nhưng không được tin dùng
+ Nguyên Lượng : Thơ văn lỗi lạc, học rộng, từ quan ở ẩn

+ Hàn Dũ : Ngay thẳng mà mang họa
+ Liêm, Trạc : Triết gia không được trọng dụng, lui về dạy học
→ Điểm chung của các nhân vật này: Họ đều là những người có tài, có chí
muốn hành đạo, giúp đời, giúp dân nhưng vì thời cuộc đều không đạt sở nguyện
- Họ là những người đồng cảnh ngộ với Nguyễn Đình Chiểu: ông muốn giúp
đồi, lập nên nhiều công danh nhưng cuộc đời đầy bất hạnh, lại thêm thời thế đầy
nhiễu nhương. Bởi thế, đoạn thơ chính là niềm cảm thông sâu sắc tận đáy lòng của
cụ Đồ Chiểu.
3/ Hai câu kết:
“Xem qua kinh mấy lần thi cử
Nửa phần lại ghét nửa phần thương”
- Nghệ thuật tiểu đối → Nỗi “thương” và “ghét” ở đây, tuy nói chuyện sử sách
nhưng ít nhiều đều phù hợp với chế độ thối nát của nhà Nguyễn và tâm sự của
Nguyễn Đình Chiểu lúc bấy giờ.
* Đánh giá:
- Nội dung:
+ Căm ghét thế lực cường quyền bạo ngược
+ Xót thương nhân dân, hiền tài bò hãm hại
+ Bộc lộ thái độ của tác giả trước thời cuộc.
- Nghệ thuật:
+ Bút pháp trữ tình nồng hậu
25

×