Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Quản lý xã hội đối với dân di cư tự do ở huyện krông bông, tỉnh đắk lắk hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU.......................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài....................................7
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn..............................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..................................10
6. Đóng góp mới của luận văn.........................................................10
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.....................................10
8. Kết cấu của luận văn...................................................................11
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI
VỚI DÂN DI CƯ TỰ DO...........................................................12
1.1. Một số khái niệm cơ bản......................................................................12
1.1.1. Khái niệm xã hội, quản lý và quản lý xã hội.................................12
1.1.1.1. Khái niệm xã hội....................................................................12
1.1.1.2. Khái niệm quản lý..................................................................13
1.1.1.3. Khái niệm quản lý xã hội (QLXH).........................................14
1.1.2. Di cư, di cư tự do, quản lý xã hội đối với dân di cư tự do.............17
1.1.2.1. Di cư, di cư tự do....................................................................17
1.1.2.2. Lý luận về di cư tự do.............................................................21
1.1.2.3. Quản lý xã hội đối với dân di cư tự do(DCTD).....................22
1.1.2.4. Vai trò của quản lý xã hội đối với dân di cư tự do.................23
1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý xã hội đối với dân di cư tự do
.....................................................................................................................23
1.2.1. Đặc điểm của quản lý xã hội đối với dân di cư tự do....................23
1.2.2. Nguyên tắc quản lý xã hội đối với dân di cư tự do.......................26
1.2.3. Nội dung quản lý xã hội đối với dân di cư tự do...........................30


1.2.3.1. Xây dựng các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật về
giải quyết trình trạng dân di cư tự do..................................................30


1.2.3.2. Tổ chức hiện các chính sách về giải quyết tình trạng dân di cư
tự do.....................................................................................................32
1.2.3.3. Tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách về giải
quyết tình trạng dân di cư tự do...........................................................34
1.2.3.4. Đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách, pháp luật về giải
quyết tình trạng dân di cư tự do...........................................................35
1.3. Một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề di cư........................................36
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới......36
1.3.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh, huyện trong nước..........................39
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DI DÂN TỰ DO
Ở HUYỆN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY.....44
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý xã hội đối với dân di cư tự do ở
huyện Krông Bông......................................................................................44
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và truyền thống cách mạng của huyện............44
2.1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế..........................................................46
2.1.3. Thành phần dân tộc và trình độ dân trí..........................................48
2.1.4. Hệ thống chính trị cấp cơ sở (thôn, buôn và xã)...........................50
2.2. Tình hình dân di cư tự do ở huyện Krông Bông..................................52
2.2.1. Về quy mô dân số của dân di cư tự do..........................................52
2.2.2. Địa phương xuất cư của dân di cư tự do.......................................55
2.2.3. Về thành phần dân tộc, tôn giáo của dân di cư tự do....................57
2.2.4. Địa bàn cư trú của dân di cư tự do ở huyện Krông Bông..............60
2.3. Thực trạng quản lý xã hội đối với dân di cư tự do ở huyện Krông
Bông............................................................................................................62
2.3.1. Những kết quả đạt được................................................................64


2.3.1.1. Thực hiện các Dự án quy hoạch sắp xếp ổn định dân di cư tự
do.........................................................................................................64
2.3.1.2. quản lý xã hội đối với việc phát triển kinh tế cho dân di cư tự

do ở Krông Bông.................................................................................67
2.3.1.3. QLXH trong việc phát triển giáo dục, y tế, văn hóa vùng dân
di cư tự do............................................................................................73
2.3.1.4. QLXH trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở và bảo đảm an
ninh chính trị trật tự an toàn xã hội vùng dân di cư tự do...................77
2.3.2. Nguyên nhân những kết quả đạt được...........................................79
2.3.3. Một số hạn chế trong quản lý xã hội đối với dân di cư tự do........83
2.3.3.1. QLXH trong quy hoạch sắp xếp ổn định dân di cư tự do.......83
2.3.3.2. Trên lĩnh vự quản lý phát triển kinh tế...................................85
2.3.3.3. Trên lĩnh vực quản lý phát triển giáo dục, y tế, văn hóa........86
2.3.3.4. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở, an ninh
trật tự an toàn xã hội............................................................................88
2.3.4. Nguyên nhân của hạn chế..............................................................89
DỰ BÁO TÌNH HÌNH DÂN DI CƯ VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DÂN DI CƯ TỰ DO Ở
HUYỆN KRÔNG BÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI...............92
3.1. Dự báo tình hình dân di cư tự do và phương hướng tăng cường quản lý
xã hội đối với dân di cư tự do ở huyện Krông Bông...................................92
3.1.1. Dự báo tình hình dân di cư tự do ở huyện Krông Bông................92
3.1.2. Một số mục tiêu chung cho việc tăng cường quản lý xã hội đối với
dân di cư tự do ở huyện Krông Bông......................................................94
3.2. Một số giải pháp tăng cường quản lý xã hội đối với dân di cư tự do ở
huyện Krông Bông......................................................................................95


3.2.1. Nâng cao nhận thức của các cấp quản lý và tuyên truyền sâu rộng
trong Nhân dân về vai trò của công tác quản lý xã hội đối với dân di cư
tự do.........................................................................................................95
3.2.2. Nâng cao hiệu quả phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước và
trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đối với dân di cư tự do

.................................................................................................................97
3.2.3. Huy động các nguồn lực, tăng cường các biện pháp quản lý để
phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
vùng tái định cư.......................................................................................99
3.2.4. Tăng cường phối hợp với chính quyền nơi dân di cư tự do xuất cư
...............................................................................................................103
3.2.5. Quản lý để xây dựng các điểm dân cư mới các điểm dân cư mới
thành những cộng đồng xã hội bền vững và truyền thống....................105

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


ĐắkLắk là tỉnh nằm ở trung tâm khu vực Tây Nguyên, với diện tích
13.125,37 km2, dân số trên 1,8 triệu người (năm 2014 ). Tài nguyên thiên
nhiên phong phú và đa dạng, trong đó nổi bật nhất là tài nguyên rừng với diện
tích lớn có nhiều lâm sản quý; đất đỏ bazan mầu mỡ thuận lợi cho việc hình
thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, hồ
tiêu. Vì điều kiện tự nhiên thuận lợi, mật độ dân số thấp nên Đắk Lắk rất hấp
dẫn thu hút lao động và nhân khẩu từ các tỉnh đến xây dựng kinh tế mới. Sự
gia tăng dân số cơ học một cách nhanh chóng và mạnh mẽ đã tạo nên những
biến động lớn trong cơ cấu dân số của tỉnh. Từ chỗ có 3 dân tộc bản địa là
Êđê, Mnông, Jarai đến nay, Đắk Lắk có 47 dân tộc anh, em cùng chung sống,
người Kinh đến từ khắp các địa phương trong cả nước. Bên cạnh đó, việc đón
nhận một lượng lớn dân di cư nhất là di cư tự do đặt ra cho tỉnh nhiều vấn đề
khó khăn phải giải quyết.
Từ năm 1976 đến nay đã có 59.489 hộ với gần 290.000 khẩu của 60
tỉnh, thành trong cả nước có dân di cư đến và cư trú tại 15 huyện, thị xã, thành
phố của tỉnh. Trong 10 năm trở lại đây (từ năm 2004), toàn tỉnh có gần 2.000
hộ với hơn 8.000 khẩu của 38 tỉnh, thành trong cả nước di cư tự do đến địa bàn,

trong đó chủ yếu là đồng bào các dân tộc phía Bắc, với 1.537 hộ, 7.866 khẩu.
Mặc dù, số lượng dân di cư tự do đến địa bàn tỉnh không lớn như các giai đoạn
trước, nhưng lại tập trung tương đối nhiều hộ trong thời gian ngắn ở một số
huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa như huyện Ea Súp, M Đrắk, Krông Bông.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Krông Bông thuộc căn cứ cách
mạng quan trọng của tỉnh với mật danh H9. Quân và nhân dân các dân tộc
Krông Bông đã anh dũng chiến đấu, lập nên nhiều chiến thắng vẻ vang, là
một trong những địa phương được giải phóng sớm nhất của tỉnh (09/5/1965).
Sau ngày đất nước thống nhất, Krông Bông là một đơn vị hành chính của


huyện Krông Pắk. Ngày 19/9/1981, Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ đã
ký quyết định số 75/HĐBT về việc thành lập huyện Krông Bông.
Dù cơ sở hạ tầng còn khó khăn, đất đai kém màu mỡ nhưng diện tích đất
rừng chưa khai phá còn lớn nên Krông Bông là sự lựa chọn của dân di cư tự
do trong những năm gần đây. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh
miền núi phía Bắc chiếm đa phần. Vì vậy, di cư tự do của người đồng bào dân
tộc thiểu số phía Bắc được xem như đại diện cho dân di cư tự do trên địa bàn
huyện Krông Bông.
Trong những năm qua, Chính phủ, cùng các ngành, các cấp, Trung
ương và địa phương đã ban hành, triển khai nhiều chủ trương, chính sách
nhằm ngăn chặn, hạn chế, giải quyết tình trạng di cư tự do vào khu vực Tây
Nguyên trong đó có tỉnh Đắk Lắk và huyện Krông Bông. Mặc dù vậy, tình
trạng di cư tự do vẫn tiếp tục diễn ra và có những diễn biến phức tạp mà hệ
quả nó gây ra đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của huyện. Đó là nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu đất sản xuất, phá rừng
lấy đất sản xuất làm tổn hại đến môi trường, quá tải cơ sở hạ tầng, phá vỡ
quy hoạch bố trí dân cư, quy hoạch sản xuất, khó khăn trong việc quản lý dân
cư, đảm bảo an ninh trật tự và phòng, chống tệ nạn xã hội, tiềm ẩn nguy cơ
xung đột về lợi ích giữa dân cư mới đến với cộng đồng dân cư bản địa.

Từ thực tiễn nêu trên, đòi hỏi cần có một nghiên cứu toàn diện về thực
trạng, tác động của dân di cư tự do trên địa bàn huyện Krông Bông. Đồng
thời, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa sự quản lý của xã hội
trong việc ngăn chặn và giải quyết vấn đề di dân tự do, tạo ra sự ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Nhiệm vụ này vừa mang tính cấp
bách, vừa mang tính lâu dài. Hơn nữa, bản thân là một cán bộ lãnh đạo của
huyện, tôi rất trăn trở trước thực trạng nêu trên. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Quản


lý xã hội đối với dân di cư tự do ở huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk hiện
nay” làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quản lý xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về di
cư nói chung và di cư tự do của đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi
phía Bắc vào Tây Nguyên nói riêng. Mỗi đề tài tiếp cận vấn đề theo nhiều
cách khác nhau. Khi nghiên cứu vấn đề này, tác giả luận văn đã có điều kiện
tìm hiểu một số công trình, bài báo nghiên cứu liên quan như sau:
Những nghiên cứu ban đầu xuất hiện vào thập niên 1980, đáng chú ý
trong đó là một số bài viết của các nhà khoa học và các nhà quản lý như Đặng
Nghiêm Vạn, Lê Duy Đại, Lê Mạnh Khoa, Nguyễn Đức Hùng, Đỗ Tiến
Dũng, Nguyễn Xuân Du, Nguyễn An Vinh, Hoàng Lê, in trong sách “Tây
Nguyên trên đường phát triển” như là ấn phẩm phản ánh kết quả nghiên cứu
của Chương trình Tây Nguyên II (Chương trình cấp nhà nước, mã số 48 C) do
Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam)
chủ trì, trong đó, bước đầu quan tâm và đưa ra những lo ngại và khuyến cáo
cho tình trạng di dân và tăng dân số cơ học ở Tây Nguyên.
Thập niên 1990, khi tình trạng di dân vào Tây Nguyên diễn ra mạnh mẽ
và trên quy mô lớn, việc nghiên cứu di dân vào Tây Nguyên được chú trọng
và đẩy mạnh hơn. Một số bài nghiên cứu và sách chuyên khảo được ấn hành.
Nhiều đề tài, dự án nghiên cứu được triển khai. Có thể kể ra một số ấn phẩm

và đề tài, dự án tiêu biểu như: sách “Di dân tự do và các biện pháp tác động
của Trung tâm dân số và nguồn lao động (Hà Nội, 1994); sách “Dân số và
dân số tộc người ở Việt Nam” của tác giả Khổng Diễn (Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1995) ; dự án “Điều tra cơ bản và xác định các giải pháp
giải quyết tình trạng di dân tự do đến Tây Nguyên và một số tỉnh khác” của
Cục Định canh, định cư & Kinh tế mới và Viện Kinh tế Nông nghiệp (1996);


dự án “Phân tích đa biến các dự án di dân có tổ chức ở Việt Nam từ năm 1991
đến nay” của nhóm nghiên cứu Nguyễn Tiến Mạnh, Nguyễn Ngọc Quế, Ngụ
Văn Hải, Phạm Minh Trí thuộc Viện Kinh tế Nông nghiệp (1996), trong đó,
đó xác định được mối tương quan tác động của các nhân tố về cơ sở hạ tầng
(giao thông, thủy lợi, đường, điện, trường học, y tế …) đất rừng, đất nông
nghiệp, số lao động, kinh phí và lương thực đầu tư hỗ trợ ảnh hưởng đến kết
quả di chuyển cư dân đến các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên trong giai
đoạn 1991 – 1996; đề tài “Nghiên cứu chính sách đối với di dân tự do trong cả
nước ( 1997 – 1998)” của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế nông nghiệp Nguyễn
Hữu Tiến, Ngô Văn Hải, Phạm Văn Khiên, Nguyễn Đình Chính
Ngoài ra, còn có một số báo cáo khoa học liên quan đến vấn đề di cư tự
do trên địa bàn tỉnh như: Báo cáo “Kết quả điều tra di dân nông thôn tại tỉnh
Đắc Lắc” của Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội (1997) ; Báo cáo
“Một số ý kiến về định hướng chính sách, biện pháp giải quyết vấn đề di dân”
của tác giả Nguyễn Xuân Thảo trong Hội nghị chính sách di dân tự phát tại
thành phố Hồ Chí Minh (1998) ; Báo cáo “Di dân tự do nông thôn – nông
thôn: Thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Quang Huề.
Gần đây nhất có công trình của tác giả Nguyễn Bá Thuỷ về “Di dân tự do
của các dân tộc Tày, Nùng, Hmông, Dao từ Cao Bằng, Lạng Sơn vào Đắc Lắc”
(2004), trong đó, làm sáng tỏ bước đầu một số vấn đề liên quan đến di dân tự do
của các dân tộc phía Bắc vào Đắk Lắk như: đặc điểm kinh tế-xã hội của các dân
tộc di cư và tại chỗ, nguyên nhân di cư, một số tác động của di cư, ...

Những nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu quan trọng, cần thiết cho
việc triển khai đề tài này. Tuy vậy, các nghiên cứu đó chỉ đề cập đến những
vấn đề di dân tự do của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc vào Tây
Nguyên, Đắk Lắk nói chung trong thực tiễn bối cảnh kinh tế - xã hội cách đây


đã hơn 10 năm. Cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về
vấn đề di cư tự do trên địa bàn huyện Krông Bông. Đó cũng là lý do cho thấy
sự cần thiết phải tiến hành đề tài nghiên cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng, tổng kết các chính sách, biện pháp mà
chính quyền huyện Krông Bông tỉnh Đắk Lắk đã triển khai thực hiện để giải
quyết vấn đề dân di cư tự do; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
tăng cường quản lý xã hội trong việc giải quyết vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn cần hoàn thành các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
3.2.1. Hệ thống một số vấn đề lý luận quản lý xã hội về di cư và di cư tự do.
3.2.2. Đánh giá, phân tích thực trạng quản lý xã hội đối với dân di cư tự
do ở huyện Krông Bông trong những năm vừa qua.
3.2.3 Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý xã hội đối với dân di cư
tự do.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý xã hội đối với dân di cư
tự do ở huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
- Hiệu quả của quá trình tổ chức thực hiện những chủ trương, giải pháp
đó trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.

Về không gian:
Luận văn nghiên cứu hoạt động xã hội đối với dân di cư tự do ở huyện
Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk hiện nay.


Về thời gian:
Luận văn tập trung nghiên cứu quản lý xã hội đối với dân di cư tự do ở
huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk hiện nay từ năm 2005 đến năm 2015
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận.
- Lý luận chung về di cư và di cư tự do
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh
- Chủ trương, đường lối quan điểm của Đảng về quản lý di dân, di cư tự
do thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết, các văn bản pháp luật của Nhà
nước về vấn đề này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, luận văn còn sử các phương pháp nghiên
cứu khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điền dã dân tộc học.
6. Đóng góp mới của luận văn
Đề xuất một số giải pháp tăng cường sự quản lí xã hội giải quyết hiệu
quả vấn đề di cư tự do trên địa bàn huyện Krông Bông.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về khoa học: luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị khoa học đối với
việc nghiên cứu về vấn đề di cư tự do.
- Về thực tiễn: nghiên cứu của luận văn góp phần tạo cơ ở khoa học
vững chắc cho Đảng bộ và chính quyền huyện Krông Bông trong việc hoạch
định những chính sách giải quyết hiệu quả vấn đề di cư tự do, đồng thời cung
cấp những kinh nghiệm có giá trị để các địa phương khác tham khảo.



8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, luận văn chia làm 3
chương, 9 tiết, 18 tiểu tiết.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỐI VỚI DÂN DI
CƯ TỰ DO
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm xã hội, quản lý và quản lý xã hội
1.1.1.1. Khái niệm xã hội
Để tồn tại và phát triển, từ khi mới xuất hiện loài người đã biết tập hợp
lại với nhau thành bầy, nhóm. Sự cộng đồng sinh tồn đó, được tổ chức ngày
một chặt chẽ hình thành nên xã hội với các hoạt động và các mối quan hệ vô
cùng phong phú, đa dạng.
Hiện nay, đang tồn tại nhiều ý kiến chưa thống nhất về nội hàm của
khái niệm xã hội. Tùy vào góc độ nghiên cứu mà mỗi ngành khoa học có
quan niệm về xã hội khác nhau. Theo từ điển bách khoa Việt Nam,“Xã hội
theo nghĩa hẹp, là khái niệm chỉ một hệ thống xã hội cụ thể trong lịch sử, một
hình thức nhất định của những quan hệ xã hội, là một xã hội ở vào một trình
độ phát triển lịch sử nhất định, là một kiểu xã hội nhất định đã hình thành
trong lịch sử. Ví dụ: xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản,… Theo
nghĩa rộng, xã hội là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người,
đã hình thành trong lịch sử. Người ta thường dùng khái niệm xã hội để chỉ
một tập đoàn người được quan niệm như một hiện thực của các thành viên
của nó, hoặc là để chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hòa
nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức
và có hệ thống tôn ti, trật tự tác động lên cá nhân”. [964.2]

Đối với khoa học quản lý xã hội, xã hội là một hệ thống các hoạt động
và các quan hệ của con người, có đời sống kinh tế, văn hóa chung, có cùng


một thể chế chính trị, cùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn lịch sử
nhất định. [10.1]
Từ khái niệm trên cho thấy, khi bàn về khái niệm xã hội người ta
thường nhấn mạnh đến hai yếu tố chính tạo nên các đặc điểm chung đó là
quan hệ và hoạt động của con người trong không gian và thời gian nhất định,
các yếu tố đó luôn tác động qua lại với nhau. Trong xã hội, lao động là hoạt
động quan trọng nhất của con người vì nó nuôi sống xã hội, quyết định sự tồn
tại và phát triển của xã hội. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất quyết
định các quan hệ khác của con người.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý
Cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về quản lý. Tùy
thuộc vào góc độ, mục đích nghiên cứu nhiều tác giả đưa ra quan niệm không
giống nhau về khái niệm quản lý.
Tác giả J.H Donnelly, James Gibson và J.M Ivancevich trong khi nhấn
mạnh tới hiệu quả của sự phối hợp hoạt động cho rằng: Quản lý là một quá
trình do một người hay nhiều người thực hiện nhằm phối hợp các hoạt động
của những người khác để đạt được kết quả mà một người hành động riêng rẽ
không thể nào đạt được.
- Taylor: Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì
và hãy chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm.
- H. Fayol: Là người đầu tiên tiếp cận quản lý theo quy trình và là
người có tầm ảnh hưởng to lớn trong lịch sử tư tưởng quản lý từ thời kỳ cận hiện đại tới nay, quan niệm rằng: quản lý hành chính là dự đoán và lập kế
hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra.
- M.P Follet: Tiếp cận quản lý dưới góc độ quan hệ con người, khi nhấn
mạnh tới nhân tố nghệ thuật trong quản lý, ông cho rằng: quản lý là một nghệ
thuật khiến cho công việc của bạn được hoàn thành thông qua người khác.



Tổng hợp từ các công trình nghiên cứu của nhiều tác giả và tập thể tác
giả, có thể hiểu quản lý như sau: quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt được mục tiêu đề
ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý xã hội (QLXH)
Khái niệm quản lý xã hội thường được tiếp cận từ hai phương diện:
Một là, quản lý xã hội là hoạt động quản lý các tổ chức xã hội phi Nhà
nước, không chịu sự chi phối trực tiếp bởi quyền lực Nhà nước hay Chính
phủ. Theo cách tiếp cận này, chủ thể quản lý xã hội được xác định đó là các tổ
chức phi Nhà nước. Do đó, công cụ chủ yếu để quản lý xã hội không phải
bằng pháp luật mà là thông qua các quy định, nội quy của các tổ chức đó.
Cách hiểu này không có tính phổ biến, bởi nó đã hạn chế sự quản lý của Nhà
nước – chủ thể quan trọng nhất đảm bảo hiệu quả quản lý xã hội.
Hai là, quản lý xã hội là cách thức tổ chức đời sống xã hội vì mục tiêu
chung, khi đó cả quốc gia cho tới nhóm xã hội đều bị chi phối bởi một dạng
quản lý nào đó và quản lý hành chính cũng là một dạng quản lý xã hội. Cách
hiểu này có tính phổ biến hiện nay.
Từ hai cách tiếp cận trên, đồng thời để thống nhất nhận thức, luận văn
sử dụng khái niệm quản lý xã hội trong Giáo trình “Lý thuyết chung về quản
lý xã hội”, của PGS.TS Nguyễn Vũ Tiến, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Theo đó, quản lý xã hội được định nghĩa như sau: “Quản lý xã hội là sự tác
động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên xã hội và các
khách thể của nó, nhằm phát triển xã hội theo quy luật khách quan và đặc
trưng của xã hội”. [1, tr.15]


Theo nghĩa rộng, quản lý xã hội là hiện tượng vốn có của các hệ thống

xã hội, bảo đảm duy trì tính toàn vẹn, sự đặc thù về chất, sự tái tạo và sự phát
triển của hệ thống xã hội đó.
Theo nghĩa hẹp, quản lý xã hội là sự tác động có ý thức, có hệ thống, có
tổ chức của chủ thể quản lý đến xã hội nhằm chấn chỉnh và hoàn thiện hoạt
động xã hội đó đạt mục đích đã xác định.
Về bản chất, quản lý xã hội là việc điều chỉnh sự tác động qua lại giữa
các lợi ích của cá nhân, của nhóm vì lợi ích chung của xã hội.
Chủ thể quản lý xã hội là những người quản lý, cộng đồng người có tổ
chức, được giao cho các cơ quan chức năng nhằm thực hiện các tác động bằng
quản lý. Sự đặc thù của chủ thể quản lý xã hội được quy định bởi tính chất tác
động của nó, đó là sự tác động hướng vào con người và do con người thực
hiện. Nhiệm vụ của chủ thể quản lý xã hội là làm hài hòa lợi ích của các cộng
đồng riêng biệt, của các nhóm xã hội, của các cá nhân trong quá trình hoạt
động của xã hội, ở sự hiện thực hóa mục đích của họ, ở việc giữ vững được
đặc trưng xã hội mà họ đã định trước.
Đối tượng của quản lý xã hội là con người cùng các hoạt động và các
quan hệ của cộng đồng con người trong xã hội, các nguồn tài nguyên khác
ngoài con người của đất nước.
Khách thể của quản lý xã hội là hệ thống xã hội được quản lý mà các
yếu tố xã hội, các nhóm xã hội tác động qua lại với nhau nhằm thực hiện lợi
ích chung và riêng. Xét về cấu trúc thì khách thể của quản lý xã hội gồm ảnh
hưởng của tự nhiên, các nhóm dân tộc, nhóm giai cấp …tác động thông qua
hội nhập khu vực và thế giới. Xét về chức năng, khách thể quản lý xã hội là
hoạt động của con người và của nhóm xã hội.
Các nội dung quản lý đối với xã hội bao gồm:
- Quản lý một đơn vị dân số có tổ chức.


- Quản lý vùng lãnh thổ thuộc về xã hội của mình quản lý nhóm xã hội
với những chức năng nhiệm vụ riêng đã được xã hội phân công.

- Quản lý một nền văn hóa chung với những chuẩn mực giá trị nhất định
- Quản lý sự thống nhất các hoạt động trên cơ sở của các hoạt động đặc
thù của từng bộ phận xã hội.
- Quản lý từng đơn vị xã hội với những đặc thù riêng và tính độc lập
tương đối cả về mặc cấu trúc và chức năng.
- Quản lý các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Phương pháp, nhiệm vụ của quản lý xã hội: thiết lập các tiêu chuẩn các
chỉ báo xã hội, phân loại các vấn đề xã hội, áp dụng các phương pháp quản lý
một cách khoa học để giải quyết vấn đề, lập kế hoạch về viêc thực hiện các
quan hệ xã hội các quá trình xã hội, dự báo xã hội, bố trí các chủ thể quản lý
và giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với khách thể quản lý.
Trong các loại quản lý thì quản lý xã hội là phức tạp nhất vì: xã hội là
một hệ thống của rất nhiều lĩnh vực, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo
đức, tôn giáo, mặt khác chủ thể quản lý xã hội không chỉ là Nhà nước – chủ
thể quan trọng nhất mà còn có sự tham gia của các chủ thể khác như các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ và quần chúng
nhân dân. Hơn nữa, sự tác động qua lại giữa các quan hệ quản lý với nhau
như quan hệ đạo đức với quan hệ pháp luật, quan hệ kinh tế với quan hệ hành
chính tạo nên sự phức tạp đối với bản thân công tác quản lý xã hội.
Để quản lý xã hội, Nhà nước phải sử dụng sức mạnh quyền lực của
mình và sử dụng văn hóa truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc để
biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực; làm cho
dân tin và ủng hộ; mục tiêu của chủ thể quản lý phải là mong muốn của đối
tượng quản lý; thông qua việc cấu trúc xã hội một cách hợp lý; một cơ chế sử
dụng nhân lực và tài nguyên, các mối quan hệ đối ngoại thuận lợi, đặc biệt là


cơ chế sử dụng nhân tài; với phương pháp, hình thức, nghệ thuật quản lý thích
hợp trong sử dụng các công cụ, các chính sách, các giải pháp quản lý; tạo ra
và tận dụng thời cơ, các nguồn lực bên ngoài để phát triển xã hội.

Như vậy, quản lý xã hội là sự tác động có kế hoạch, là sự sắp xếp, tổ
chức, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn, kiểm tra của chủ thể quản lý lên các
quá trình xã hội và hoạt động của con người trong quá trình tổ chức và quản
lý đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, để chúng phát triển hợp với quy luật,
đạt được mục đích đặt ra của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý.
1.1.2. Di cư, di cư tự do, quản lý xã hội đối với dân di cư tự do
1.1.2.1. Di cư, di cư tự do
* Di cư
Trong nghiên cứu về sự di chuyển chỗ ở của con người, các thuật ngữ “di
dân” và “di cư” được dùng khá phổ biến và thường không khác nhau nhiều về
nội hàm. Trong luận văn tác giả thống nhất sử dụng thuật ngữ di cư để nghiên
cứu hiện tượng xã hội này.
Hiện nay, xuất phát từ những hướng tiếp cận nghiên cứu khác nhau có
những cách hiểu khác nhau về khái niệm “di cư”.
Một số tác giả nước ngoài, như: Petersen cho rằng, di cư là sự di chuyển
vĩnh viễn tương đối của một người trong một khoảng cách đáng kể. Theo
Smith, di cư thường sử dụng để đề cập đến mọi di chuyển lý học trong không
gian với ngụ ý là thay đổi nơi cư trú hay nơi ở. Tác giả Morgan lại xác định,
di cư là sự di chuyển vĩnh viễn tương đối của người dân ra khỏi tập đoàn đang
sống đến một đơn vị địa lý khác...
Theo khái niệm của Liên hiệp quốc, di cư là sự di chuyển từ một đơn vị
lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, hoặc là sự di chuyển với khoảng
cách tối thiểu quy định. Sự di chuyển này diễn ra trong khoảng thời gian di
dân xác định và được đặc trưng bởi sự thay đổi nơi cư trú thường xuyên.


Khái niệm “di cư” trong các nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay được hiểu
theo hai nghĩa: nghĩa rộng, di cư là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong
một không gian và thời gian nhất định. Nghĩa hẹp, di cư là sự di chuyển của
dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm thiết

lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định.
Dưới góc độ quản lý, di cư là sự dịch chuyển dân cư theo không gian và
thời gian từ nơi này đến nơi khác. Có ba tiêu chí để xác định:
- Đây là sự dịch chuyển địa điểm từ đơn vị hành chính này đến đơn vị
hành chính khác.
- Vì mục đích kinh tế - xã hội, gắn với điều kiện phát triển kinh tế, đời sống.
- Thời gian đến nơi ở mới phải lâu dài.
* Lý thuyết về di cư
Lý thuyết về lực hút và lực đẩy: Theo lý thuyết này, di cư xảy ra khi có sự
khác biệt về điều kiện sống giữa nơi đi và nơi đến, kết quả lực hút nơi đến và
lực đẩy nơi đi dẫn đến quá trình di cư. Lực đẩy là các yếu tố về tự nhiên và xã
hội không đáp ứng được nhu cầu sống, đẩy họ ra khỏi nơi họ đang sinh sống.
Lực hút là các yếu tố về điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi cuốn hút người di
cư từ nơi khác đến sinh sống. Lý thuyết này thuận lợi trong việc làm rõ các
yếu tố tác động đến di cư. Tuy nhiên, nó không là lý thuyết hoàn hảo khi
không giải thích được tại sao trong cùng một hoàn cảnh mà một số người
quyết định di cư, số còn lại vẫn định cư.
Lý thuyết cấu trúc Everetts Lee và Brau Juan: Lý thuyết này tóm tắt các
quy luật di cư và các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quyết định di cư, gồm: Các
yếu tố liên quan đến nơi đi, nhóm yếu tố liên quan đến nơi đến, các khó khăn,
các yếu tố liên quan đến người di cư. Ngoài ra Brau Juan còn đưa ra các luận
điểm về tác động của di cư đến nguồn nhân lực của quốc gia.


Lý thuyết mạng lưới xã hội: Xác định được các yếu tố cấu thành mạng
lưới các quan hệ xã hội giữa cộng đồng nơi đi và nơi đến, giữa những người
di cư và người không di cư. Lý thuyết nhấn mạnh vai trò của mạng lưới xã
hội trong việc chi phối động lực của quá trình di cư nhất là hướng di cư. Theo
lý thuyết này thì ngay khi động lực về kinh tế tác động không còn mạnh,
chênh lệch về mức sống, điều kiện sống giữa các khu vực không nhiều, di cư

vẫn tiếp tục diễn ra. Điều này là do quá trình di cư được duy trì và thúc đẩy
do mạng lưới xã hội được hình thành và phát triển theo thời gian, ví dụ di cư
để được gần gia định, họ tộc…
Lý thuyết xã hội học về di cư của E.G.Ravenstai:: Ông đã khái quát hóa
được những quy luật của di cư như: trong một quốc gia thì người gốc thành
thị ít di cư hơn người nông thôn; động lực chính của di cư là kinh tế; nữ giới
di cư khoảng cách ngắn hơn so với nam giới.
Trên đây là những lý thuyết cơ bản để nghiên cứu về di cư nói chung
và di cư tự do nói riêng. Tuy nhiên, đối với từng quốc gia, tình hình thực tế cụ
thể của địa phương mà áp dụng thêm các hệ thống lý thuyết khác phù hợp. Cụ
thể như từ thực tiễn dân di cư tự do của Đắk Lắk và huyện Krông Bông chủ
yếu là dân tộc thiểu số các tỉnh phía Bắc, đa số theo tôn giáo. Nghiên cứu giải
quyết vấn đề này ngoài việc dựa vào hệ thống lý thuyết về di cư còn căn cứ
vào quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn
đề dân tộc và tôn giáo.
* Di cư tự do(DCTD)
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà người ta phân loại di cư thành
các hình thức khác nhau: Căn cứ vào độ dài của thời gian cư trú, có thể phân
di cư thành các loại như di cư con lắc, di cư theo mùa, di cư tạm thời, di cư
lâu dài. Nếu căn cứ vào hướng di chuyển thì chia di cư thành các dòng như: di
cư nông thôn – đô thị, di cư thành thị - nông thôn, di cư thành thị - thành thị,


nông thôn – nông thôn. Căn cứ vào tính chất tổ chức quản lý có thể phân
thành di cư có tổ chức và di cư tự do.
- Di cư có tổ chức (di cư theo kế hoạch của Nhà nước): sự di chuyển này
được thực hiện theo các chương trình, mục tiêu của Nhà nước vạch ra trực tiếp
chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Hình thức này được sự hỗ trợ và giúp đỡ cần thiết từ
Nhà nước để ổn định đời sống, kinh tế - xã hội của cộng đồng di cư cả ở nơi đi
và nơi đến. Di cư có tổ chức thường là di dân đến vùng kinh tế mới, bảo vệ an

ninh, quốc phòng hoặc di cư để thực hiện các dự án của Nhà nước.
- Di cư tự do: Theo quy định tại Thông tư số 05/NN/ĐCĐC – KTM, ngày
26 tháng 3 năm 1996 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thì “Di dân
tự do (di cư tự do) là đồng bào chuyển cư ngoài kế hoạch di dân hàng năm
của nhà nước”. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về di cư tự do.
Quan niệm phổ biến được các nhà nghiên cứu công nhận: di cư tự do cũng
có đủ các tiêu chí như di cư, nhưng trong trường hợp này một cá nhân, một
gia đình, một nhóm nguời tự quyết định hành vi đi hay ở mà không phụ
thuộc vào kế hoạch, sự hỗ trợ của Nhà nước và các cấp chính quyền. Có thể
hiểu di cư tự do là sự di chuyển đến nơi ở mới hoàn toàn do người dân tự
quyết định, bao gồm việc lựa chọn nơi đến, họ tự tổ chức di chuyển, tự lo
các khoản kinh phí, tự tạo cuộc sống mới tại nơi đến trên cơ sở thực hiện
một số các thủ tục đối với chính quyền sở tại nơi họ chuyển đến. Ngoài ra, nó
còn thể hiện sức hút của nơi đến và lực đẩy của nơi đi.
Về mặt pháp lý, người dân có quyền tự do cư trú. Do vậy, tuy không được
cơ quan có thẩm quyền tổ chức cho di cư nhưng người dân vẫn có thể tự di cư
theo nhu cầu của mình. di cư tự do phản ánh tính năng động và vai trò độc lập
của cá nhân, hộ gia đình trong việc tìm kiếm công ăn việc làm và điều kiện
sống tốt hơn.


1.1.2.2. Lý luận về di cư tự do
* Nguyên nhân dẫn tới tình trạng di cư tự do:
Do điều kiện sống, nơi cư trú: Phần lớn những người dân di cư tự do là
tìm kiếm cuộc sống tốt hơn tại nơi ở mới cho bản thân, gia đình và cộng đồng.
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại nơi ở cũ không thuận lợi như thiếu
đất sản xuất, dịch vụ xã hội không tốt…dẫn đến thiếu công ăn việc làm, đời
sống bấp bênh, nghèo, đói. Đây là một trong nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng di cư tự do.
Do tập quán dân tộc: Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam có tập quán

du canh, du cư, phá rừng làm nương rẫy nên họ di cư khỏi nơi ở cũ để tìm nơi
ở mới có đất đai màu mỡ hơn. Họ rất coi trọng, đề cao vai trò của cộng đồng
dòng tộc, nên di cư để được đoàn tụ cùng dòng họ, cùng cộng đồng.
Ngoài ra, di cư tự do còn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác như: Do
trình độ dân trí thấp, chưa nhận thức đầy đủ đối với đời sống, kinh tế - xã hội
ở cả nơi đi và nơi đến. Do kẻ xấu lợi dụng một số hạn chế trong việc thực
hiện chính sách dân tộc, tôn giáo để xúi giục, kích động đồng bào di cư. Do
sự yếu kém trong quản lý của chính quyền cấp cơ sở nơi có dân đi di cư tự do.
* Tác động của di cư tự do:
Mặt tích cực: di cư tự do do góp phần phân bổ lại lao động và dân cư
một cách tự nhiên, thúc đẩy kinh tế địa phương (cả nơi dân đi và dân đến)
phát triển; tạo cơ hội việc làm cho họ và phần đông có nguồn thu nhập cao
hơn so với nơi ở cũ, góp phần nâng cao mức sống gia đình và giảm đói, nghèo
ở các vùng nông thôn có thu nhập thấp. Về mặt xã hội: di cư tự do còn góp
phần tích cực đưa thêm nhiều ngành nghề đến nơi nhập cư.
Mặt tiêu cực: di cư tự do làm tăng dân số cơ học một cách đột biến nên
dẫn đến tàn phá tài nguyên, môi trường nhất là rừng; quá tải sử dụng các công
trình hạ tầng cơ sở; nảy sinh một số vấn đề xã hội phức tạp như mất trật tự an


ninh, tệ nạn xã hội, phá vỡ quy hoạch phát triển, tạo thêm áp lực cho chính
quyền địa phương nơi sở tại trong công tác quản lý.
* Xu hướng di cư tự do:
Nghiên cứu của Viện kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đã xác định bốn
đặc điểm quan trọng về xu hướng di cư ở nước ta là:
- Mức độ di cư trong nước đang tăng lên;
- Di cư nông thôn ra thành thị đang tăng lên;
- Có một tỷ lệ khá cao trong di cư loại này là di cư tạm thời;
- Dòng người di cư có một tỷ lệ cao là phụ nữ.
Dựa trên các tài liệu về di cư ở Việt Nam, ta có thể xác định được ba

dòng di cư chính như sau:
Di cư từ đồng bằng sông Cửu Long, miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông
Hồng đến Đông Nam bộ nơi có nhiều thành phố và khu công nghiệp lớn như TP
Hồ Chí Minh, TP Biên Hòa, thị xã Thủ Dầu Một – Bình Dương. Những người
này tìm kiếm các việc làm phi nông nghiệp ở các khu công nghiệp.
Di cư từ miền núi phía Bắc xuống đồng bằng sông Hồng.
Di cư từ vùng duyên hải miền Trung, miền núi phía Bắc và Đồng bằng
sông Hồng lên Tây Nguyên. Những người này tìm kiếm việc làm và thu nhập
từ các vùng có cây công nghiệp hoặc mua đất để đầu tư trồng cà phê, cao su,
hồ tiêu và các mặt hàng nông sản khác.
1.1.2.3. Quản lý xã hội đối với dân di cư tự do(DCTD)
QLXH đối với di cư tự do là những tác động liên tục có tổ chức của chủ
thể quản lý (Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội ...) lên khách thể
quản lý (dân di cư tự do) nhằm hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực
do tình trạng di cư tự do gây ra; ổn định đời sống dân di cư tự do, từng bước
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã
hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc đối với vùng có dân di cư tự do.


Đối với Tây nguyên, dân di cư tự do trong những năm gần đây chủ yếu
là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, đa số đều theo
tôn giáo (đạo Tin Lành). Do vậy, quản lý xã hội đối với di cư tự do ở Tây
Nguyên có những đặc thù riêng. Muốn đạt hiệu quả cao, quản lý xã hội đối
với di cư tự do ở Tây Nguyên phải kết hợp chặt chẽ với quản lý xã hội đối với
công tác dân tộc và tôn giáo. Chủ thể quản lý ngoài nắm vững hệ thống lý
thuyết chung về quản lý xã hội, di cư tự do còn phải biết vận dụng sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội
về dân tộc, tôn giáo; phải sâu sát với thực tiễn, am hiểu phong tục tập quán
của dân tộc thiểu số.
1.1.2.4.


Vai trò của quản lý xã hội đối với dân di cư tự do

Việc thực hiện quản lý xã hội đối với những hộ đã di cư tự do sẽ từng
bước khắc phục những khó khăn, tồn tại do tình trạng di cư tự do gây ra như:
thiếu đói, tệ nạn xã hội, để tạo điều kiện cho đồng bào sớm hòa nhập cộng
đồng, ổn định cuộc sống, thực hiện chính sách đoàn kết các dân tộc, khai thác
tốt tiềm năng và sức lao động, từng bước thay đổi cơ cấu kinh tế, tổ chức sản
xuất - nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Mặt khác, việc
ổn định đời sống dân di cư tự do do còn góp phần hạn chế luồng di cư tự do
từ những địa bàn thường xảy ra tình trạng này, tiến tới kiểm soát và điều
chỉnh được hoạt động di dân phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, từng vùng miền, lãnh thổ, từng địa phương; từ đó có
nguồn lực để tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc ở những
điểm có nhiều đồng bào di cư tự do mà đời sống đang còn gặp nhiều khó
khăn.
1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, nội dung quản lý xã hội đối với dân di cư tự do
1.2.1. Đặc điểm của quản lý xã hội đối với dân di cư tự do
QLXH đối với dân di cư tự do có những đặc điểm sau:


Một là, quản lý xã hội đối với dân di cư tự do có rất nhiều chủ thể tham
gia quản lý, hình thành một hệ thống quản lý. Những chủ thể tham gia quản lý
xã hội đối với dân di cư tự do bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể
chính trị xã hội, các cộng đồng xã hội nhỏ của dân di cư tự do. Tất cả các chủ
thể mặc dù có chung mục đích quản lý xã hội đối với dân di cư tự do nhưng
có vai trò, chức năng tính chất và quy mô quản lý khác nhau, cụ thể:
Đảng Cộng sản Việt Nam: đưa ra quan điểm đường lối chỉ đạo, định
hướng chung để quản lý đối với dân di cư tự do và lãnh đạo toàn bộ hệ thống

chính trị thực hiện các đường lối đó trong cuộc sống.
Sự quản lý của Nhà nước: Chính phủ ban hành các quyết định, chỉ thị để
cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng về quản lý xã hội đối với dân di cư
tự do và các bộ, ban, ngành, ủy ban Nhân dân các cấp tổ chức thực hiện các
chính sách đó.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phối hợp với cùng với
các cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện quản lý xã hội đối với di
cư tự do, không chỉ tổ chức cho hội viên của mình thực hiện chính sách quản
lý của Đảng, Nhà nước mà còn tuyên truyền rộng rãi chính sách đó trong
Nhân dân.
Các cộng đồng xã hội nhỏ: Có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra,
giám sát, đánh giá việc triển khai thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
nước, phát hiện các hạn chế để sửa đổi kịp thời. Ngoài ra, việc các cá nhân
trong cộng đồng nhỏ quản lý lẫn nhau và quản lý chính mình góp phần cho
quá trình quản lý xã hội đối với di cư tự do đạt kết quả tốt hơn.
Hai là, đặc điểm về đối tượng quản lý - dân di cư tự do. Dân di cư tự
do thường có chung một số đặc điểm như: trình độ dân trí thấp, đa số điểm
xuất phát của họ là những nông dân nghèo sống ở địa bàn thiếu đất sản xuất,


điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Họ di cư chủ yếu vì sinh kế, đến các vùng có
điều kiện tốt hơn về đất đai, việc làm để tìm kiếm một cuộc sống tốt hơn. Vì
vậy, nếu nơi đến điều kiện sống không tốt hơn nơi xuất cư họ tiếp tục di cư
tìm đến vùng đất khác. Ngoài những đặc điểm trên, dân di cư tự do đến Tây
Nguyên trong những năm gần đây có những đặc điểm riêng như: Đa số dân di
cư là đồng bào dân tộc thiểu đến từ các tỉnh miền núi phía Bắc, có phong tục,
tập quán khác nhau, còn tồn tại nhiều hủ tục lạc hậu như tảo hôn, mê tín. Một
bộ phận di cư không vì mục đích sinh kế mà di cư để được đoàn tụ cùng gia
đình, dòng tộc. Trong đó, người dân tộc Mông chiếm số lượng đông nhất, đa
phần họ theo các hệ phái khác nhau của đạo Tin lành. Dân di cư tự do đến

Tây Nguyên cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, đời sống còn khó khăn, hạn
chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội.
Đặc điểm trên cần được nghiên cứu kỹ trong quá trình xây dựng các
chính sách giải quyết tình trạng dân di cư tự do.
Ba là, quản lý xã hội đối với dân di cư tự do rất khó khăn và phức tạp.
Sự khó khăn và phức tạp trong quản lý xã hội đối với dân di cư tự do có
nguyên nhân từ chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Có nhiều chủ thể cùng
tham gia quản lý đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, phân công
chức năng nhiệm vụ phải cụ thể rõ ràng. Trong thực tế, do tác động của nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau làm cho sự phối hợp của các
chủ thể quản lý không phải lúc nào cũng nhịp nhàng và chặt chẽ.
Thực chất của quản lý xã hội đối với dân di cư tự do là quản lý con
người với tất cả sự đa dạng của các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân trí, nghề
nghiệp, an sinh xã hội…Do vậy, xây dựng các chính sách quản lý mà phạm vi
điều chỉnh liên quan nhiều vấn đề là một việc khó khăn và phức tạp. Mọi sai
lầm về mặt chính sách sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, tác động tiêu cực


×