Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề các GIAI đoạn PHÁT TRIỂN của CHỦ NGHĨA xã hội KHOA học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.3 KB, 13 trang )

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

3

1.1. Tiền đề khách quan

3

1.2. Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học

6

2. NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI KHOA HỌC

2.1. C.Mác - Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học

9
9

2.2. Lênin bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học



10

2.3. Sự phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học sau Lênin

12

KẾT LUẬN

13


2
LỜI NÓI ĐẦU

Lịch sử phát triển của tư tưởng nhân loại là dòng chảy liên tục. Sự ra
đời của chủ nghĩa xã hội khoa học là sự kế thừa những tiền đề tư tưởng của
chủ nghĩa xã hội không tưởng và không tưởng phê phán, trực tiếp là tư tưởng
của ba nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán: Xanhximông, Phuriê và
Ô.oen. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là sự kết hợp biện chứng giữa điều
kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Là lý luận dẫn đường cho cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chuyển từ tự phát lên tự giác. Sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội khoa học là bước phát triển hợp quy luật và là bước nhảy vọt về
chất trong lịch sử tư tưởng giải phóng con người, giải phóng xã hội.
1. SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

1.1. Tiền đề khách quan

- Tiền đề kinh tế – xã hội:
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu đã

được thiết lập và có những bước tiến quan trọng, cụ thể: Sau cuộc cách mạng
kỹ thuật lần I, nền đại công nghiệp ra đời ở Anh và phát triển mạnh mẽ ở
Pháp, Đức và một số nước khác. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của máy
sợi (1764) và sự ra đời của máy hơi nước (1767). Hệ thống máy móc đó dần
dần được lắp đặt ở hàng loạt công xưởng. Sự phát triển của đại công nghiệp
đã đem lại khối lượng vật chất to lớn cho xã hội.
Cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, một lực lượng xã hội
mới ra đời đó là giai cấp công nhân. Chế độ công xưởng xuất hiện, công
nhân đi vào sản xuất bằng công cụ máy móc dẫn đến công nhân công
xưởng ra đời, đây chính là đứa con đầu lòng của giai cấp công nhân hiện
đại. Đồng thời cũng vào thời điểm đó phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được thiết lập và củng cố. Chế độ tư bản chủ nghĩa được hình thành
ở Anh, Pháp, Đức cùng một số nước phương Tây và Mỹ. Mặc dù sự phát
triển của nền sản xuất đại công nghiệp và quá trình hình thành xã hội tư
bản chủ nghĩa đang diễn ra, nhưng xã hội tư bản đã bộc lộ những mâu
thuẫn sâu sắc. Về kinh tế, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao,


3

trong khi đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó đòi hỏi cần
phải có giải pháp để giải quyết mâu thuẫn mở đường cho lực lượng sản
xuất phát triển. Biểu hiện về xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
với giai cấp tư sản, đây là mâu thuẫn đối kháng về mặt lợi ích không thể
điều hoà được, muốn thoát khỏi áp bức bóc lột giai cấp vô sản phải đấu
tranh lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản.
Như vậy, những mâu thuẫn trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ và

chín muồi không thể điều hòa được đặt ra yêu cầu cần phải có giải pháp để
giải quyết những mâu thuẫn ấy.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản
nổ ra và phát triển mạnh mẽ ở một số nước. Tiêu biểu là ba cuộc đấu tranh:
Phong trào đấu tranh của công nhân dệt Ly Ông (Pháp) (1831 – 1834). Mục
đích đòi tăng lương, cải thiện đời sống người lao động. Với khẩu hiện: "Sống
có việc làm hoặc chết trong đấu tranh". Đây là cuộc đấu tranh mang tính chất
quần chúng đầu tiên làm rung chuyển toàn bộ nước Pháp. Cuộc đấu tranh của
công nhân dệt Xilêdi (Đức) 1844. Mục đích đòi tăng lương cải thiện đời sống,
đấu tranh đòi cấm áp dụng máy móc trong sản xuất, đốt phá nhà xưởng...,
chính cuộc đấu tranh này đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình hình thành và
phát triển phong trào vô sản ở nước Đức lúc bấy giờ. Phong trào Hiến chương
Anh (1835 - 1848), là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Anh đòi
cải cách tuyển cử bằng cách đưa ra những yêu sách cải thiện điều kiện ăn, ở
và việc làm của công nhân gắn chặt với bản kiến nghị về cải cách quyền bầu
cử mang tên phong trào Hiến chương.
Những cuộc đấu tranh này khẳng định: Tinh thần đấu tranh của giai cấp
công nhân đã chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác, giai cấp
công nhân đã xuất hiện như một lực lượng chính trị độc lập trong cuộc đấu
tranh chống lại giai cấp tư sản.
Các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đều bị thất bại, nguyên
nhân cơ bản do chưa có một lý luận cách mạng và khoa học dẫn đường, giai
cấp công nhân chưa ý thức được lợi ích cơ bản của mình. Song cũng từ những


4

cuộc đấu tranh đó đòi hỏi phải có một lý luận đúng đắn soi đường và có một
chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:

Thời kỳ này loài người đã có nhiều phát minh khoa học mang tính chất
vạch thời đại, trong đó tiêu biểu có ba phát minh: Thuyết tế bào của Slâyđen
và Svan; Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của tập thể các nhà
bác học như Maie, GinLơ, Cônđinh, Hemhon, Lômônôxôp; Thuyết tiến hoá
của Đácuyn. Những thành tựu của các phát minh khoa học này đã tấn công
vào chủ nghĩa duy tâm tôn giáo, đồng thời có ý nghĩa rất lớn trong việc hình
thành tư duy lý luận nói chung và tư duy chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
Đây là những cơ sơ khoa học để C.Mác - Ph.Ăngghen xây dựng phép biện
chứng duy vật của mình, khắc phục những hạn chế của quan điểm duy vật
siêu hình, khẳng định vai trò to lớn của con người có khả năng nhận thức và
cải tạo thế giới.
- Tiền đề khoa học xã hội:
Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, trong lịch sử loài người đã từng xuất
hiện những trào lưu tư tưởng, nổi bật là: Triết học cổ điển Đức với phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc;
Kinh tế chính trị học Anh, đại biểu là Ađamxmít và Ricacđô; Chủ nghĩa xã
hội không tưởng phê phán, đại biểu là Xanhximông, Phuriê và Ôoen. Nhìn
chung những cống hiến của các nhà tư tưởng tiêu biểu nói trên đã có những
đóng góp quý báu vào kho tàng lịch sử tư tưởng nhân loại. C.Mác Ph.Ăngghen đã kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của
Hêghen và chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc để xây dựng lý luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng. Theo Ph.Ăngghen: "Nếu trước đó không có
triết học Đức đặc biệt là triết học Hêghen thì sẽ không bao giờ có chủ nghĩa
xã hội khoa học"1. Nghiên cứu kinh tế chính trị học Anh, C.Mác Ph.Ăngghen đi sâu vào nghiên cứu lý luận giá trị của Ricacđô, quan điểm
kinh tế chính trị Anh và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở đó vạch trần
bản chất áp bức bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và luận giải chủ
nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị diệt vong. Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của ba
nhà không tưởng phê phán Xanhximông, Phuriê và Ô.oen, C.Mác Ph.Ăngghen cho rằng: các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng và không tưởng
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 631.



5

phê phán đã lên án xã hội tư bản chủ nghĩa từ khi nó mới ra đời, đồng thời
đưa ra nhiều luận điểm có giá trị, trên cơ sở đó góp phần thức tỉnh tinh thần
đấu tranh của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên các nhà chủ nghĩa xã hội
không tưởng, không tưởng phê phán còn có những mặt hạn chế đó là: Chưa
thấy được bản chất và quá trình vận động của chủ nghĩa tư bản, chưa tìm thấy
lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử xoá bỏ chủ nghĩa tư bản xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chưa tìm thấy phương pháp đấu tranh cách
mạng. Đi sâu nghiên cứu những giá trị, khắc phục những hạn chế của các nhà
không tưởng phê phán, C.Mác - Ph.Ăngghen hình thành hệ thống lý luận về
lực lượng, con đường, biện pháp cách mạng xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, vào những năm 40 của thế kỷ XIX lịch sử xã hội loài người
đã hội tụ đầy đủ điều kiện khách quan để chủ nghĩa xã hội không tưởng trở
thành khoa học.
1.2. Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập ra chủ nghĩa xã hội
khoa học

- Sơ lược tiểu sử của C.Mác và Ph.Ăngghen.
C.Mác (05/5/1818 – 14/3/1883)
Sinh tại Tơ-re-vơ thuộc miền Tây Rê-na-ni, nước Phổ (Đức hiện nay).
Bố của Ông là luật sư. Năm 23 tuổi C.Mác bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
triết học ở Đại học Bon. Với đề tài: "Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của
Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya". C.Mác lúc đầu là người mang tư
tưởng nhân đạo và theo chủ nghĩa duy tâm thuộc phái Hêghen trẻ, tham gia
hoạt động chính trị năm 24 tuổi (1842) lúc đầu là người cộng tác, sau đó là chủ
bút của Báo Rê-na-ni. Với lời phát biểu đầu tiên trên tờ báo nhằm chống lại chế

độ quân chủ đòi quyền tự do cho nông dân đã chứng tỏ C.Mác là người dân
chủ cách mạng. Trong quá trình hoạt động từ lập trường duy tâm và dân chủ
cách mạng, C.Mác chuyển dần sang lập trường duy vật và chủ nghĩa cộng sản.
C.Mác chẳng những là nhà lý luận thiên tài mà còn là nhà hoạt động thực tiễn
xuất sắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ông luôn gắn lý luận
của mình với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm cải tạo xã hội theo
chủ nghĩa cộng sản. Cả cuộc đời C.Mác đã hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.


6

Ph.Ăngghen (28/11/1820 – 05/08/1895)
Sinh tại Bác – men, tỉnh Rê-na-ni, nước Phổ (Đức). Bố của Ông là chủ
xưởng nhỏ. Ph.Ăngghen là một tín đồ Thiên chúa. Năm 18, 19 tuổi trải qua
một quá trình đấu tranh gay gắt để thoát khỏi những tư tưởng tôn giáo chuyển
sang lập trường duy vật cách mạng. Năm 1844, nghiên cứu lịch sử kinh tế - xã
hội ở nước Anh và điều kiện lao động, sinh hoạt của công nhân Anh,
Ph.Ăngghen đã hình thành thế giới quan duy vật và cộng sản chủ nghĩa.
Sơ lược về tiểu sử C.Mác - Ph.Ăngghen cho thấy, C.Mác - Ph.Ăngghen
đều là những bậc thiên tài. Cả hai ông đều xuất thân từ những môi trường
hoàn cảnh khác nhau nhưng đã sớm gắn bó với phong trào công nhân. C.Mác
và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên thấy rõ ý nghĩa lịch sử của những sự
biến động đang diễn ra trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa và luận giải nó một
cách khoa học. Thông qua hoạt động lý luận, thực tiễn, đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân và kế thừa tinh hoa trí tuệ nhân loại, C.Mác –
Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng chủ nghĩa xã hội không phải là sản phẩm của
những ước mơ, mà là kết quả phát triển tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Lịch sử
đặt tên tuổi C.Mác - Ph.Ăngghen bên cạnh nhau và coi hai ông là những
người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, những người thầy cách mạng

của giai cấp vô sản thế giới. Thiên tài của C.Mác - Ph.Ăngghen không những
giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới thừa nhận coi C.Mác Ph.Ăngghen là người thầy, lãnh tụ vĩ đại của mình, mà ngay cả kẻ thù cũng
phải thừa nhận. Viên giám đốc cảnh sát thành phố Béclin đã nhận xét về
C.Mác: "Bản thân C.Mác là một người nổi tiếng và cần phải thừa nhận rằng
trí tuệ trên đầu ngón tay của ông ta còn nhiều hơn trí tuệ ở trong đầu của toàn
bộ phe đảng khác"1. Đối với Ph.Ăngghen, C.Mác nhận xét một cách hóm hỉnh
về Ph.Ăngghen: "Anh ấy quả là bách khoa toàn thư bất kể lúc nào ngày và
đêm khi tỉnh táo cũng như lúc choáng hơi men anh ấy cũng đều có thể làm
việc được ngay, viết và lĩnh hội nhanh như quỉ"2.
C.Mác - Ph.Ăngghen đã gắn bó với nhau bằng một tình bạn thật đẹp đẽ
và đã hợp tác với nhau gần 40 năm. C.Mác - Ph.Ăngghen gặp nhau lần đầu
tiên vào tháng 11/1842 ở Bộ biên tập Báo Rênani. Sau khi đọc những bài viết
1
2

Tiểu sử C.Mác –Ph.Ăngghen, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, H. 1977, tr.347.
Tiểu sử C.Mác –Ph.Ăngghen, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, H. 1977, tr.225.


7

của nhau hai ông thấy có những điểm gần gũi nhau về nhiều mặt và bắt đầu
trao đổi thư từ cho nhau. Cuối tháng 8 đầu tháng 9 năm 1844 gặp gỡ lần thứ 2
ở Pari, đây là cuộc gặp gỡ lịch sử của hai thiên tài trí tuệ và nó mở đầu tình
bạn và sự cộng tác chặt chẽ giữa C.Mác - Ph.Ăngghen, hai ông đã viết nhiều
tác phẩm: Gia đình thần thánh (1844); Luận cương Phơ bách (1845); Tình
cảnh giai cấp công nhân Anh (1845), Hệ tư tưởng Đức (1845 - 1846)…
Thông qua các tác phẩm này C.Mác - Ph.Ăngghen đưa ra hai phát kiến vĩ đại,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư.
Với phát kiến chủ nghĩa duy vật lịch sử, C.Mác – Ph.Ăngghen đã xây

dựng học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, đây là hòn đá tảng, sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong học thuyết của C.Mác. Từ học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội, C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra: Lịch sử loài người là lịch sử phát triển của
sản xuất, sản xuất vật chất là nền tảng của xã hội; Sự vận động và phát triển
của xã hội loài người từ thấp đến cao thông qua sự thay thế lẫn nhau giữa các
hình thái kinh tế xã hội. Từ đó, luận giải sự vận động tất yếu diệt vong của
chủ nghĩa tư bản và khẳng định động lực của sự vận động phát triển của xã
hội trong xã hội có giai cấp là đấu tranh giai cấp.
Phát kiến vĩ đại thứ hai là học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác Ph.Ăngghen đã vạch ra qui luật vận động và bản chất bóc lột của xã hội tư
bản. C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định không phải giai cấp công nhân bán lao
động mà là bán sức lao động; Thực chất bản chất của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa là bóc lột “giá trị thặng dư”, chính sức lao động của người công nhân bị
bóc lột làm giàu cho nhà tư bản chứ không phải máy móc; C.Mác chỉ ra rằng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì giai cấp tư sản bóc
lột càng nặng nề đối với công nhân, từ đó C.Mác - Ph.Ăngghen chỉ ra mâu
thuẫn vốn có và tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, xác định một
cách khách quan và khoa học giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có sứ
mệnh lịch sử xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Đây là cả một quá trình nghiên cứu sâu sắc về giai cấp công nhân hiện
đại, nó có tác dụng rất lớn trong việc phát triển các nguyên lý về chủ nghĩa xã
hội khoa học. Đồng thời thể hiện sự phát triển sâu rộng hơn quan điểm duy
vật về lịch sử của hai ông. Quá trình hoạt động nghiên cứu lý luận và thực


8

tiễn C.Mác - Ph.Ăngghen đã đem lại những thành tựu vĩ đại mà trước đó chưa
có ai vươn tới được. C.Mác - Ph.Ăngghen đã hoàn thành cuộc cách mạng sâu
sắc nhất trong quan niệm duy vật và xu thế phát triển khách quan của xã hội.

Đã giải đáp một cách khoa học những vấn đề mà những nhà không tưởng đã
nêu ra nhưng chưa giải đáp được. Nhờ hai phát kiến vĩ đại của C.Mác, chủ
nghĩa xã hội không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Lênin khẳng
định: "Có thể vắn tắt nêu công lao của C.Mác - Ph.Ăngghen đối với giai cấp
công nhân như sau: Hai ông đã dạy cho giai cấp công nhân nhận thức được
mình và ý thức về mình và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng"1.
Mốc đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học, là tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” tháng 2/1848. Đây là văn kiện có tính chất
cương lĩnh đầu tiên của phong trào công nhân, là kim chỉ nam soi sáng cho
phong trào công nhân, đồng thời mở ra bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân chuyển từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự
giác. Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học được trình bày
một cách chặt chẽ khoa học, có giá trị lý luận và thực tiễn lâu dài, đến nay vẫn
giữ nguyên giá trị.
2. NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CHỦ YẾU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
KHOA HỌC

2.1. C.Mác - Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học

Nửa thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ dẫn đến các mâu
thuẫn kinh tế - xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân tiếp tục nổ ra và phát triển vượt ra khỏi phạm vi quốc gia.
Trước tình hình đó, C.Mác và Ph.Ăngghen tích cực tham gia tổ chức chỉ đạo
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân; Phê phán những quan điểm sai
trái, truyền bá rộng rãi học thuyết của mình vào phong trào cách mạng; Đồng
thời C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung và phát triển học thuyết của
mình. Những luận điểm C.Mác - Ph.Ăngghen bổ sung phát triển thông qua
nhiều tác phẩm như: Phê phán cương lĩnh Gô ta, chống Duy rinh, Nguồn gốc
gia đình và chế độ tư hữu nhà nước, Vấn đề nông dân Pháp - Đức... Những

luận điểm C.Mác - Ph.Ăngghen bổ sung phát triển đó là:
1

V.I. Lênin: Toàn tập, tập 2, NxbTiến bộ, M. 1974, tr. 5.


9

Thứ nhất, về Đảng Cộng sản: C.Mác - Ph.Ăngghen khẳng định giai cấp
công nhân chỉ chiến thắng khi có đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Đồng thời, khẳng định sứ mệnh lịch sử ấy phải gắn với vai trò lãnh
đạo của Đảng, của giai cấp công nhân.
Thứ hai, về cách mạng vô sản: Khẳng định tính tất yếu và nội dung
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh tính chất lâu dài mang tính
quốc tế của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khẳng định thực chất cách mạng
không ngừng.
Thứ ba, xung quanh lý luận chuyên chính vô sản: C.Mác - Ph.Ăngghen
đề cập đến tính tất yếu, nội dung, hình thức của nhà nước chuyên chính vô
sản. Khẳng định trong xã hội có giai cấp đấu tranh giai cấp là tất yếu, đấu
tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Giai cấp công nhân phải
kịp thời và kiên quyết đập tan bộ máy nhà nước tư sản và hành động phục hồi
của giai cấp tư sản giành lấy chính quyền thiết lập chuyên chính vô sản.
Thứ tư, phác họa bổ sung phát triển các giai đoạn của chủ nghĩa cộng
sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, đặc trưng của các giai đoạn
trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Về vấn đề liên minh giai
cấp công nhân - giai cấp nông dân, vấn đề chiến tranh và hòa bình. Đồng thời
C.Mác - Ph.Ăngghen đấu tranh quyết liệt chống lại tư tưởng tiểu tư sản và tư
sản; chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều màu sắc, sáng lập và lãnh đạo Quốc tế I,
Quốc tế II.
2.2. V.I.Lênin bảo vệ và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học


Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ
nghĩa đế quốc, làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư
bản chủ nghĩa, đồng thời xuất hiện thêm những mâu thuẫn mới đó là: Mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc; mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa đế quốc với các dân tộc thuộc địa. Những tiền đề tạo nên bùng nổ cuộc
cách mạng rộng lớn hơn. Nước Nga đã hình thành những tiền đề cho cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân giành thắng lợi. Trước bối cảnh lịch sử như vậy
đã xuất hiện vị lãnh tụ thiên tài V.I.Lênin. Kế tục sự nghiệp của C.Mác Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã đấu tranh chống mọi trào lưu cơ hội, xét lại; bảo vệ
và truyền bá chủ nghĩa Mác, đồng thời bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác
trong điều kiện mới.


10

V.I.Lênin (1870 - 1924), sinh ngày 22/4/1870 trong gia đình trí thức
cách mạng tại thành phố Ximbiêcxcơ (nay là Vlianopxcơ). Từ nhỏ, V.I.Lênin
đã có nhiều tố chất của một thiên tài. Năm 17 tuổi, Ông tốt nghiệp trung học
và được thưởng huy chương vàng. Sau đó vào học khoa Luật trường Đại học
Tổng hợp Cadan. Ngoài những môn học của khoa Luật, V.I.Lênin còn học
thêm môn Thần học và tiếng Anh. Chỉ được 4 tháng thì bị trục xuất vì
V.I.Lênin tham gia vào phong trào đấu tranh của sinh viên. Từ đó, vừa tham
gia phong trào cách mạng và vừa bằng con đường tự học, V.I.Lênin đã học
xong chương trình đại học Luật và được trường Đại học Pêtécpua cấp bằng
tốt nghiệp hạng nhất. Từ năm 1894 – 1905, V.I.Lênin sống và hoạt động ở
nhiều nước ở trung tâm Châu Âu và giành tất cả thời gian còn lại để nghiên
cứu sách báo, tài liệu về chủ nghĩa Mác, về hoạt động của C.Mác Ph.Ăngghen và hoạt động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
V.I.Lênin bảo vệ và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa
học trong điều kiện mới trên một số luận điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đưa ra học thuyết xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công

nhân, vạch rõ cơ sở khoa học cả về tư tưởng, lý luận, chiến lược, sách lược
nguyên tắc tổ chức và hành động của Đảng Cộng sản.
Thứ hai, bổ sung về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa, bổ sung tính
tất yếu và phương pháp, tình thế thời cơ cách mạng, cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở các nước thuộc địa lạc hậu.
Thứ ba, bổ sung lý luận chuyên chính vô sản về vị trí, tính tất yếu, bản
chất, hình thức, chức năng nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản.
Thứ tư, mở rộng thuật ngữ của C.Mác - Ph.Ăngghen về đoàn kết công
nhân quốc tế, từ "Vô sản các nước đoàn kết lại" thành "Vô sản các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"; Vạch ra "Cương lĩnh ruộng đất và cương
lĩnh dân tộc", làm cơ sở để giải quyết đúng đắn quan hệ giai cấp, dân tộc theo
quan điểm của giai cấp công nhân.
Thứ năm, phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội: Đưa ra quan
điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời viết một loạt tác phẩm
đấu tranh phê phán những tư tưởng cơ hội, xét lại, bảo vệ những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác. Tổ chức lãnh đạo Quốc tế III và cùng Đảng Bôn sê vích


11

Nga lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga lật đổ chế độ Nga
Hoàng làm lên cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại, mở ra
một kỳ nguyên mới của xã hội loài người, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, biến lý tưởng xã hội chủ nghĩa thành hiện thực.
Những cống hiến của V.I.Lênin đối với sự phát triển lý luận chủ nghĩa
Mác trong điều kiện mới là hết sức to lớn. Nếu C.Mác và Ph.Ăngghen đã có
công làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, thì
V.I.Lênin lại có công phát triển và bảo đảm cho lý luận chủ nghĩa xã hội khoa
học trở thành sức mạnh vật chất trong đời sống xã hội. Do vậy, tên tuổi của
Ông gắn liền với C.Mác - Ph.Ăngghen.

2.3. Sự phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học sau V.I.Lênin

Với thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm
1917, Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời, đó là Nhà nước
Cộng hoà liên bang Xô Viết. Bằng lao động sáng tạo của mình, Liên Xô trở
thành một cường quốc công nghiệp hùng mạnh, ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ
hoà bình, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, cứu loài người khỏi thảm hoạ phát xít.
Vào những năm 40 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống,
phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ làm tan rã hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc mở đường cho nhiều nước giành độc lập dân tộc.
Những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học được các Đảng Cộng
sản bổ sung và phát triển:
Thứ nhất, xung quanh lý luận về thời đại: Hội nghị các Đảng Cộng sản
và công nhân quốc tế năm 1957 và 1960 đã đưa ra quan điểm cơ bản về thời
đại hiện nay, khẳng định thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.
Thứ hai, bổ sung vấn đề có tính qui luật của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, bổ sung những vấn đề chiến lược sách lược của các Đảng Cộng
sản và công nhân quốc tế. Đồng thời, đấu tranh phê phán quan điểm tư tưởng
tư sản, chủ nghĩa cơ hội, xét lại bảo vệ những nguyên lý chủ nghĩa xã hội
khoa học.


12

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trung thành và vận dụng sáng tạo lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học, đã đề ra đường lối chiến lược sách lược đúng

đắn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Cụ thể: Phát triển lý luận về qui luật hình
thành Đảng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến; mục tiêu, con đường,
phương thức, phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch tập trung chống phá các
nước xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, một trong những trọng tâm chúng tập trung
chống phá là phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ nhận những nguyên
lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đứng trên lập trường quan điểm chủ nghĩa
Mác – Lênin chúng ta khẳng định: Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô và Đông Âu là sự sụp đổ về mô hình chủ nghĩa xã hội chứ không phải là sự
sụp đổ về mặt lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, không phải là sai lầm của
chủ nghĩa xã hội khoa học với tư cách một học thuyết cách mạng, khoa học,
càng không phải do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật phát
triển khách quan của lịch sử. Những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học
vẫn giữ nguyên giá trị trong thời đại hiện nay, vẫn là ánh sáng soi đường cho
nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là tất yếu khách quan, là vũ
khí lý luận của giai cấp công nhân trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho
hành động cách mạng”1, do vậy, mỗi học viên cần phát huy vai trò trách
nhiệm trong nghiên cứu học tập lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, qua đó, xây
dựng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, đồng thời đấu tranh phê phán những quan điểm, tư tưởng sai
trái phản động, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ sự
lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 70.


13

KẾT LUẬN

Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời vào những năm đầu thế kỷ XIX trên cơ
sở tiền đề khách quan và nhân tố chủ quan đã chín muồi, chủ nghĩa xã hội khoa
học kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại đã đạt được trước đó. Sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội khoa học còn do công lao to lớn vĩ đại của C.Mác - Ph.Ăngghen,
những thiên tài trí tuệ của loài người và là lãnh tụ, là người thầy của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
đáp ứng sự đòi hỏi khách quan của xã hội là bước phát triển về tư tưởng trong lịch
sử nhân loại. Ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị vẫn là kim chỉ nam cho hành
động cách mạng của nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.



×