Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề CHẾ độ dân CHỦ xã hội CHỦ NGHĨA và đổi mới hệ THỐNG CHÍNH TRỊ xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.52 KB, 18 trang )

CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

3

1.1. Khái niệm dân chủ, chế độ dân chủ, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa 3
1.2. Bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

5

1.3. Nội dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa

9

2. PHÁT HUY DÂN CHỦ, ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

2.1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

11
11

2.2. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở


nước ta hiện nay
KẾT LUẬN

13
18


2

LỜI NÓI ĐẦU

Dân chủ là một trong những hình thức chính quyền mà đặc trưng là việc
tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền
tự do bình đẳng của công dân. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức
cao nhất của nền dân chủ, chế độ dân chủ thực sự cho đại đa số nhân dân.
Đây là nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học, thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhận thức và làm sáng tỏ vấn đề này về lý
luận và thực tiễn là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1. BẢN CHẤT, NỘI DUNG CỦA CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Khái niệm dân chủ, chế độ dân chủ, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

- Dân chủ là nhân dân là người chủ, là quyền lực xã hội hiện thực thuộc
về nhân dân. C.Mác đã từng nhấn mạnh dân chủ là sản phẩm tự quyết của
nhân dân, dân chủ không phải là quyền lực hình thức mà là quyền lực thực sự
của nhân dân với nội dung nhân bản và nhân văn sâu sắc. Dân chủ với tính
cách là một giá trị xã hội, dân chủ ở góc độ này là dân chủ gắn với tồn tại của
loài người và tiến bộ xã hội.
Dân chủ không phải là một hiện tượng xã hội tự phát, nó nảy sinh và

phát triển trong tiến trình lịch sử nhân loại, trong quá trình đấu tranh giai cấp.
Từ khi xuất hiện giai cấp và nhà nước dân chủ có bước phát triển và hình
thành chế độ dân chủ.
- Chế độ dân chủ là toàn bộ những thể chế, thiết chế chính trị của một
nhà nước do giai cấp thống trị tạo nên, thể hiện và bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân.
Chế độ dân chủ xuất hiện khi xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong xã
hội có giai cấp, dân chủ luôn mang bản chất của giai cấp thống trị và luôn gắn
với chuyên chính. Dân chủ và chuyên chính là hai vấn đề then chốt, luôn gắn
bó chặt chẽ với nhau trong các chế độ chính trị nhà nước. Mối quan hệ giữa
dân chủ và chuyên chính được thể hiện: Dân chủ với tư cách là chế độ nhà
nước, là một hình thức chính trị của nhà nước cho nên một mặt thừa nhận


3

quyền tự do, dân chủ, bình đẳng giữa các công dân; mặt khác tổ chức thực
hiện có hệ thống sự cưỡng chế bằng pháp luật đối với mọi công dân.
Thực tiễn đã chứng minh chế độ dân chủ ra đời gắn liền với sự xuất
hiện giai cấp và nhà nước. Lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải qua các
chế độ dân chủ chủ nô, chế độ dân chủ tư sản và hiện nay đang xây dựng và
hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Sự hình thành phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn liền với
sự ra đời và phát triển của chế độ kinh tế, chính trị xã hội - xã hội chủ nghĩa,
là bước phát triển dân chủ ở trình độ cao nhất trong toàn bộ tiến trình lịch sử
nhân loại từ trước đến nay.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị của nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Ở đó, quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, nhân dân quản lí xã hội
của mình, xã hội được quản lí bởi nhân dân, vì nhân dân. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân lao động, gắn với công bằng xã hội

chống áp bức, bóc lột bất công, được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, được thể chế và thực hiện triệt để bằng hiến pháp
và pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là một thể chế chính trị mà trong đó
quyền lực quản lý xã hội thuộc về nhân dân, là một hình thức tự quy định của
nhân dân để chi phối các hoạt động của cá nhân và xã hội trên cơ sở bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi của các công dân, được bảo đảm bằng pháp
luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ luôn gắn liền với
chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là sự thống trị về chính trị của giai
cấp công nhân, được thiết lập trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của chuyên chính vô sản là quyền làm chủ xã hội thuộc về nhân dân
lao động, mà nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thông qua sự quản lí
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của chuyên chính vô sản là trấn áp
mọi âm mưu, hành động chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, tổ
chức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đem lại quyền làm chủ cho nhân
dân. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, khi trình bày khái niệm về


4

chế độ dân chủ vô sản, Lênin đã chỉ rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ vô
sản với chuyên chính vô sản: “chế độ dân chủ đó là một nhà nước thừa nhận
việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một giai cấp
thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại bộ phận khác” 1. Điều đó có
nghĩa là dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, dân chủ và chuyên chính là hai mặt
của một chỉnh thể thống nhất, luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, nói tới dân chủ
xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với chuyên chính vô sản, dân chủ phải đi
đôi với kỉ cương, luật pháp, dân chủ phải có nguyên tắc, không thể chấp nhận

dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan và tự do dân chủ vô chính phủ; dân chủ
cho đại đa số nhân dân lao động nhưng phải hướng tới tập trung, phải có lãnh
đạo chỉ đạo chặt chẽ. Nhà nước bảo đảm dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân
lao động, đồng thời trấn áp bằng vũ lực đối với bọn bóc lột, phản động chống
lại lợi ích của nhân dân lao động.
1.2. Bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa

Với tư cách là đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử của dân chủ, chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, trong đó toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được
đảm bảo bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dân chủ trở thành
giá trị phổ biến của xã hội, thâm nhập vào mọi quan hệ chính trị - xã hội,
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bao quát mọi góc độ trong sự tồn tại của
con người mà định hướng cơ bản của nó là xoá bỏ giai cấp. Để tạo ra ngày
càng đầy đủ những điều kiện cho sự giải phóng mọi năng lực sáng tạo của
con người để sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển
tự do của tất cả mọi người không còn là khẩu hiệu, khi đó dân chủ với tư
cách là một vấn đề chính trị sẽ tiêu vong - chủ nghĩa cộng sản được xác lập
trên thực tế.
Bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được bắt nguồn từ bản
chất của chế độ kinh tế, chính trị xã hội - xã hội chủ nghĩa và được biểu hiện
trên những đặc trưng cơ bản sau:
- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ tiến bộ nhất, rộng
rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn là chế độ dân chủ mang tính giai cấp.
1

Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1976, tr.101.


5


- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ do nhân dân lao
động tổ chức ra, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ xã hội của công dân.
- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ mang bản chất
giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ bảo đảm quyền
con người, quyền bình đẳng giữa các công dân trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…
Do đó, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền “dân chủ gấp triệu lần
dân chủ tư sản”. Cũng như mọi chế độ dân chủ khác, dân chủ xã hội chủ
nghĩa phải gắn liền với kỉ cương, luật pháp và trách nhiệm công dân. Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên
chính là cái khoá, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khoá,
nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết”1. Ở đây dân chủ và pháp luật, dân chủ
và kỉ cương không bài trừ lẫn nhau mà trái lại chúng nằm trong sự thống nhất
biện chứng, là điều kiện tiền đề tồn tại phát triển của nhau. Tuyệt đối hoá bất
kì mặt nào trong hai mặt đó đều dẫn đến hoặc là vô chính phủ, hoặc là tập
trung quan liêu; cả cực này hay cực kia đều mang lại nguy cơ cho chế độ dân
chủ chân chính của nhân dân. Khi đề cập đến vấn đề này Đảng ta nhấn mạnh:
“Cả vô chính phủ, lẫn độc đoán chuyên quyền đều trái với bản chất của chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy xét về thực chất dân chủ gắn liền với kỉ
cương, có khuôn khổ trong vòng trật tự, không thể có dân chủ mà lại thiếu
pháp luật, kỉ luật, kỉ cương”2.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở thống nhất lợi ích
căn bản về kinh tế, chính trị, xã hội giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
và tầng lớp nhân dân lao động. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây chính là điều kiện căn bản
bảo đảm cho các giai cấp, các tầng lớp có sự thống nhất về lợi ích căn bản trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Họ chính là người làm chủ thực sự trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội, là lực lượng quyết định toàn bộ quá trình phát

triển của xã hội. Sự thống nhất về lợi ích căn bản đó được biểu hiện là mọi
người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, đều bình đẳng trước pháp luật
1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1996, tr 279.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001,tr.135.


6

không có bất kì một đặc quyền, đặc lợi cho bất kì một tổ chức hoặc một cá
nhân nào. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa với các chế
độ dân chủ trước đó, trong xã hội còn có áp bức bóc lột, dân chủ chỉ là hình
thức, dân chủ chỉ mang lại lợi ích cho thiểu số bọn bóc lột, còn đại đa số nhân
dân lao động thì giai cấp thống trị bóc lột luôn tìm mọi cách gạt bỏ hoặc tước đi
quyền làm chủ của họ.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ vì con người, phát huy cao
độ tính tích cực, tự giác và vai trò sáng tạo to lớn của mọi người trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời tạo điều kiện cho con người
phát triển toàn diện. Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân lao
động xây dựng và tổ chức nên, chế độ dân chủ này đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và được pháp luật Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo vệ. Đây là điều kiện
căn bản bảo đảm cho mọi người phát huy được tài năng, trí tuệ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Có Đảng lãnh đạo sự làm chủ của nhân
dân mới đúng hướng, có pháp luật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa mới bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân trở thành hiện thực, pháp luật sẽ điều chỉnh
mọi hành vi, vi phạm dân chủ hoặc đi ngược lại dân chủ của nhân dân. Tính
tích cực tự giác và vai trò sáng tạo to lớn của con người càng được phát huy
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nó góp phần to lớn cho sự nghiệp

giải phóng con người, đưa con người vươn lên làm chủ xã hội và làm chủ bản
thân, tạo điều kiện cho con người phát triển một cách toàn diện.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa không phụ thuộc vào cơ chế chính trị đa
nguyên và sự tồn tại nhiều đảng phái chính trị đối lập. Cái gọi là đa nguyên, đa
đảng của xã hội tư bản về thực chất chỉ là một hình thức thống trị giai cấp biểu
hiện của chuyên chính tư sản. Vì mọi quyền lực thực tế đều nằm trong tay giai
cấp tư sản, xã hội phải tuân thủ pháp luật tư sản. Những lực lượng đối lập gây
nguy cơ lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản đều bị đặt ra ngoài vòng pháp luật,
bị cấm đoán, bị đàn áp bằng mọi phương tiện. Về xã hội, chủ nghĩa đa nguyên
chính trị bộc lộ rõ tính chất mị dân, cố gắng tô vẽ cho xã hội tư bản là tự do, dân
chủ nhất với cái gọi là “nhà nước phúc lợi chung”. Theo luận điểm này thì nhà
nước có trách nhiệm giàn xếp, điều hoà, xoa dịu các mâu thuẫn xã hội còn công
dân thì luôn luôn buộc phải tuân thủ các luật lệ của nhà nước tư sản. Vì vậy, chủ


7

nghĩa đa nguyên chính trị với những nội dung thực chất của nó về phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội là bảo vệ lợi ích và sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, nhà
nước tư sản. Đa nguyên chính trị không đồng nhất với dân chủ thực sự, không
phải là tiêu chí của dân chủ, của tự do thực sự. Ngày nay, trước những biến động
phức tạp của tình hình, với chiến lược mới “vượt trên ngăn chặn” chủ nghĩa đế
quốc đã chuyển từ “đối kháng cứng rắn” sang “tiến công mềm dẻo” thực hiện
“thẩm thấu”, “diễn biến hoà bình” chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại,
chống phá các quốc gia không liên minh với chúng. Đa nguyên chính trị là vũ
khí lợi hại được giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa
và bọn phản động quốc tế lợi dụng triệt để nhằm giành “chiến thắng không cần
chiến tranh” xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
Tính chất phản động nguy hại của đa nguyên chính trị đối với các nước
xã hội chủ nghĩa trước hết là ở chỗ ca ngợi chế độ tư bản là tự do, bình đẳng,

dân chủ, nhân quyền nhất; đồng thời, công kích bôi nhọ, khoét sâu mâu thuẫn
trong các nước xã hội chủ nghĩa tạo mặc cảm về chủ nghĩa xã hội trong nhân
dân, ảo tưởng trông chờ chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin đã từng khẳng định bản
chất của đại nghị tư sản là “một cơ quan của người khác, một công cụ áp bức
của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản, cơ quan của một giai cấp thù địch,
của một thiểu số bọn bóc lột” 1. “So với thời kỳ trung cổ thì dân chủ tư sản có
sự tiến bộ, song nó cũng chỉ là dân chủ giả hiệu, bị cắt xén, dân chủ chật hẹp,
giả dối, là thiên đường cho bọn giàu có, là cạm bẫy, là cái mồi giả dối đối với
người bị bóc lột, đối với người nghèo”2.
Ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan để thiết lập cơ chế chính
trị đa nguyên, đa đảng. Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua đã
lựa chọn sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi có Đảng
lãnh đạo, cách mạng Việt Nam vượt qua muôn ngàn khó khăn thử thách, thu
được nhiều thắng lợi to lớn, giành độc lập tự do cho dân tộc, đưa cả nước tiến
lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cho thấy, không có con đường nào khác, lực
lượng nào khác ngoài con đường chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng sản Việt
Nam đảm đương được sứ mệnh lịch sử cao cả đó. Nếu chúng ta chấp nhận đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập là chúng ta rơi vào âm mưu chính trị phản
1
2

V.I.Lênin: Toàn tập, t 37, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr.311.
V.I.Lênin: Toàn tập, t 37, bản Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, M, 1977, tr. 311.


8

động của kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc, đất nước sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn
thảm hoạ, đó là điều cả dân tộc không muốn, nhân dân ta chỉ muốn có cuộc
sống yên ổn làm ăn. Gần 80 năm đấu tranh gian khổ dưới sự lãnh đạo của

Đảng và Bác Hồ, nhân dân ta đã đổ bao nhiêu xương máu để giành được độc
lập, tự do, giành được dân chủ cho nhân dân xây dựng chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng; Bảo vệ chế độ dân chủ xã hội chủ
nghĩa là sứ mệnh thiêng liêng của các thế hệ người Việt Nam chúng ta.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong sự nghiệp đổi mới đất
nước, đòi hỏi chúng ta hết sức nhạy bén về chính trị, có thái độ đúng đắn đối
với vấn đề đa nguyên, đa đảng; giữ vững vai trò độc tôn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Xây dựng chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xây
dựng và hoàn thiện các nội dung cơ bản của nó, gắn liền với quá trình xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, chống lại mọi hành vi
vi phạm dân chủ, khắc phục những khuynh hướng tả, hữu khuynh và những
ảnh hưởng của dân chủ tư sản trong toàn xã hội.
Là quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, là học viên đào tạo
đại học quân sự, cần nâng cao nhận thức về dân chủ, có quan điểm, lập
trường đúng đắn về dân chủ xã hội chủ nghĩa, chấp hành nghiêm chỉnh quy
chế dân chủ cơ sở, gương mẫu thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân đối
với thể chế, đối với chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trước hết, ra sức học
tập, nâng cao trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn. Rèn luyện bản lĩnh
chính trị kiên định, vững vàng, có năng lực làm chủ vũ khí trang bị, khoa học
- kỹ thuật quân sự, năng lực chỉ huy lãnh đạo, thích ứng mọi điều kiện, hoàn
cảnh. Cảnh giác với mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù đang ngày đêm chống
phá con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta đã lựa chọn, xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam, với mưu đồ thâm độc là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, làm cho nhân dân ta, trước hết là quân nhân trong Quân đội nhân
dân Việt Nam mơ hồ, mất cảnh giác, mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội, giảm
sút ý chí chiến đấu.
Vì vậy, quá trình học tập tại trường là quá trình tự bồi dưỡng, tự tích
luỹ, nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa của mình. Đồng thời, tích cực



9

giáo dục tuyên truyền về dân chủ, và thực tiễn thực hiện dân chủ trong xây
dựng và mọi hoạt động của Quân đội, Nhà trường, trực tiếp là ở đơn vị cơ sở.
1.3. Nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hệ thống hoàn chỉnh trên tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội về chính trị, kinh tế, văn hoá, tinh thần.
- Dân chủ về chính trị được xác định là nội dung cơ bản, quyết định
trước tiên cho sự xác lập, phát triển các nội dung khác, đây là vấn đề cơ bản
của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ về chính trị là xác lập và thực hiện quyền lực về chính trị của
nhân dân, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Làm chủ nhà nước là thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đích
thực nhất, nhân dân có quyền dân chủ thực sự, thể hiện quyền tối cao là quần
chúng nhân dân. Dân chủ về chính trị bao hàm đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ
của công dân trong bầu cử và ứng cử vào cơ quan quyền lực của nhà nước;
giám sát mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, tham gia xây dựng hệ thống
pháp luật và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lí của công dân trong
xây dựng và bảo vệ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Khâu quan trọng và cấp bách
trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp
thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân trực tiếp và rộng rãi nhất.
- Dân chủ về kinh tế là nội dung cơ bản, là nền tảng, là điều kiện đảm
bảo cho nhân dân làm chủ về chính trị, văn hoá tinh thần. Chỉ khi nào nhân
dân lao động làm chủ trong lĩnh vực kinh tế lúc đó họ mới có dân chủ thực sự,
mới trở thành lực lượng quyết định toàn bộ tiến trình phát triển của xã hội - xã
hội chủ nghĩa.

Dân chủ về kinh tế là thực hiện quyền bình đẳng của công dân về sở
hữu tư liệu sản xuất của xã hội; quyền được tự do sản xuất kinh doanh trong
nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo pháp luật của nhà nước; quyền
được hưởng mọi thành quả lao động của mình và các phúc lợi xã hội, đồng
thời có nghĩa vụ đóng góp đầy đủ cho nhà nước, xã hội theo đúng luật định.
- Dân chủ về văn hoá tinh thần là nội dung quan trọng, phản ánh trực
tiếp trình độ phát triển của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.


10

Dân chủ về văn hoá tinh thần bao gồm: quyền được thông tin, quyền
tự do ngôn luận, báo chí, quyền được học tập, nghiên cứu, sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc và nhân loại tiến bộ. Đấu tranh
chống mọi âm mưu hành động phá hoại văn hoá lành mạnh của dân tộc, văn
hoá tiến bộ của nhân loại.
- Dân chủ trong lĩnh vực xã hội thể hiện quyền được lao động, được
nghỉ ngơi, được học hành, được hưởng bảo hiểm xã hội khi không còn sức lao
động và được tạo điều kiện phát triển sinh động, phong phú, đa dạng của các
nhân cách, tập thể, dân tộc.
Các nội dung của dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn gắn bó mật thiết với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên tính đa dạng, toàn diện, phong phú
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngày càng bảo đảm đầy đủ quyền dân chủ
của nhân dân. Thực hiện các nội dung trên là lâu dài, từ thấp đến cao, chưa
hoàn thiện tới hoàn thiện, đồng thời gắn chặt với quá trình đấu tranh chống
mọi hành vi vi phạm dân chủ, dân chủ quá trớn. Thực thi dân chủ là quá trình
cách mạng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là công cuộc của hệ
thống chính trị, của toàn dân, của mỗi người.
2. PHÁT HUY DÂN CHỦ, ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


2.1. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

- Quan niệm về dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân
dân là người chủ, mà chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân” 1.
Trong bài báo dân vận (1949) Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bao nhiêu
quyền lợi đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới
xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công
việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ, trung ương đề do dân cử ra,
đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại mọi quyền
hành và lực lượng đều ở nơi dân.

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG, H.2000, tr.499.


11

“Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng, Nhà nước và nhân dân”2.
- Quan điểm của Đảng ta về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là quyền tham gia quản lí nhà
nước và xã hội của công dân, vừa là phương thức, nguyên tắc tổ chức xã hội.
Dân chủ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Xây dựng
và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình lâu dài cả về giáo dục ý
thức dân chủ và nâng cao năng lực làm chủ cho mỗi công dân, thực hiện dân
chủ ở tất cả các cấp trong đó chú trọng dân chủ trong Đảng và dân chủ cơ sở,

dân chủ trong thực tế. Trong giai đoạn hiện nay phát huy dân chủ để tạo động
lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xây dựng chỉnh
đốn Đảng, tạo đồng thuận trong nhân dân, qua đó để xây dựng hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã
hội. Quá trình phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa cần nghiên cứu, tiếp thu, kế
thừa giá trị nhân loại về dân chủ (nhất là dân chủ tư sản); đồng thời chủ động
khắc phục các biểu hiện lệch lạc như dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi
dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, nói xấu dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Những giải pháp chủ yếu để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định).
Nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng, Nhà nước (tất cả vì lợi ích của nhân dân, dựa trên ý kiến của nhân dân).
Xây dựng một xã hội dân chủ trong đó cán bộ, đảng viên và công chức
phải thực sự là công bộc của dân.
Xác định các hình thức tổ chức và cơ chế thích hợp để thu hút tạo điều
kiện cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia các công việc chung của đất nước,
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Muốn vậy, Đảng, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội cần nâng cao trình độ văn hoá dân chủ cho nhân dân, văn hoá
dân chủ được thể hiện bằng ý thức dân chủ, năng lực thực hành dân chủ, năng
lực sử dụng và thực hiện pháp luật. Bảo đảm mọi điều kiện thực tế để “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
2

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001,tr.125.


12

luật xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa; thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật “xây dựng cơ

chế vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng
tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật”1.
Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ
chức, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân.
Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi
hành các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trung thành và vận dụng sáng tạo vấn đề dân chủ của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta luôn chú trọng từng bước xây dựng
và củng cố chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định: Dân chủ
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây
là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong việc xây dựng và hoàn thiện chế độ dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong tình
hình hiện nay, cần hiểu và nắm vững quan điểm của Đảng về phát huy dân
chủ: dân chủ vừa là chế độ chính trị, vừa là quyền tham gia quản lí xã hội của
công dân, vừa là phương thức và nguyên tắc tổ chức xã hội, thực hiện dân chủ
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Xây dựng dân chủ
xã hội chủ nghĩa có thể và cần phải tiếp thu, phát triển các giá trị nhân loại về
dân chủ. Việc xây dựng và phát triển dân chủ là kết quả của quá trình lâu dài
về giáo dục ý thức cũng như nâng cao năng lực thực hành dân chủ. Phải thực
hiện dân chủ ở tất cả các cấp, đặc biệt quan tâm đến dân chủ trong Đảng và
dân chủ ở cơ sở. Phải gắn với thực tiễn để không ngừng hoàn thiện các hình
thức thực hiện dân chủ một cách có hiệu quả. Phải chủ động chống các biểu
hiện lệch lạc như: dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ…
Phải kiên quyết bác bỏ các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền của
các thế lực phản động. Trong tình hình hiện nay, phát huy dân chủ tạo động
1


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr.126.


13

lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để xây dựng chỉnh
đốn Đảng, để tạo sự đồng thuận trong nhân dân, qua đó xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị đồng thời nó
thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.
2.2. Đổi mới hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Trước đây chúng ta dùng khái niệm chuyên chính vô sản để chỉ hệ
thống cơ cấu các tổ chức lãnh đạo, nhà nước quản lý và các tổ chức chính trị xã hội. Từ Hội nghị Trung ương sáu khoá VI (3/1989), Đảng ta dùng khái
niệm hệ thống chính trị. Về bản chất, chuyên chính vô sản và hệ thống chính
trị là thống nhất.
Hệ thống chính trị theo quan điểm của Đảng ta là hệ thống các tổ chức
chính trị - xã hội hoạt động theo khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm
thực thi quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các tổ chức mà còn là hệ thống các
mối quan hệ trong hoạt động giữa các tổ chức, được tổ chức từ Trung ương
đến các địa phương, cơ sở.
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam (là hạt
nhân lãnh đạo), Nhà nước (là tổ chức cốt yếu để thực thi quyền lực của nhân
dân), các tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Công
đoàn, Đoàn Thanh niên; Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh…).
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được tổ chức và vận hành theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Trong hệ thống đó,
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một bộ phận cấu thành, vừa là tổ chức có vai
trò lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội nói chung, nhà nước và các

tổ chức chính trị - xã hội được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta thực chất là củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với toàn xã hội, hoàn thiện đường lối đổi mới xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; Đảng giữ vững nguyên tắc
tập trung dân chủ, phát huy tinh thần nhạy bén, sáng tạo trong việc hoạch
định chủ trương, đường lối trên các lĩnh vực cũng như triển khai thực hiện có
hiệu quả các chủ trương, đường lối đó. Đồng thời, Đảng có chủ trương, giải


14

pháp tích cực nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, gắn nhiệm vụ xây dựng Đảng với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội trong giai đoạn hiện nay.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có
chức năng trực tiếp nhất trong việc thể chế hoá và tổ chức thực hiện những
yêu cầu dân chủ chân chính của nhân dân. Nó cũng là công cụ sắc bén nhất
trong cuộc đấu tranh chống lại các âm mưu chống phá cách mạng, chống phá
công cuộc dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa. “Nhà nước là công cụ “trụ cột” chủ
yếu, vững mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”1.
Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoàn thiện hệ thống
pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật,
xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát hợp hiến, hợp pháp trong
các hoạt động và quyết định của cơ quan công quyền.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, hoàn thiện cơ chế
bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lượng

hoạt động của uỷ ban chuyên trách, đổi mới quy trình làm luật, giảm mạnh
việc ban hành pháp lệnh; đẩy mạnh cải cách hành chính đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp
thống nhất, thông suốt, hiện đại, luật hoá cơ cấu tổ chức chính phủ…
Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, đẩy mạnh chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp đồng bộ, lấy cải cách công tác xét xử
làm trọng tâm. Thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra…
Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân
dân, bảo đảm quyền tự chủ và quyền tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của Hội đồng
nhân dân. Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ ba BCH TƯ khoá VIII, Nxb CTQG, H, 1997, tr.6.


15

Xây dựng quy chế hoạt động của cán bộ công chức, cơ quan, cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ công chức, đào tạo bồi dưỡng theo yêu cầu nâng cao chất
lượng về cả phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống. Thực hiện chế độ trách
nhiệm trong đề cử, bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo theo hướng cấp trưởng giới
thiệu cấp phó, cấp sử dụng trực tiếp giới thiệu để cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định. Có cơ chế kịp thời đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những công chức
không xứng đáng, kém phẩm chất và năng lực.
Phát huy quyền dân chủ của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội của nhân dân. Đoàn kết tất cả mọi người thuộc mọi giai
cấp, mọi tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước và

định cư ở nước ngoài, khép lại quá khứ, xoá bỏ mặc cảm, định kiến; lấy sự
tương đồng vì lợi ích của sự phát triển đất nước theo mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” làm trọng.
Mặt trận vận động tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính
quyền, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng nhiều hình thức, phù hợp
thành phần xã hội, địa phương, cơ sở.
Để mở rộng mặt trận có tác dụng tích cực nhằm thực hiện tốt việc bảo
đảm quyền lực của nhân dân cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức làm cho nó thực sự là nền tảng của Mặt trận.
Việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phụ thuộc rất lớn vào trình
độ, năng lực làm chủ của nhân dân và do đó Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã
hội cần có chương trình cụ thể để giáo dục, tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng, luật pháp của nhà nước, nâng cao trình độ dân trí, nâng cao
trình độ sản xuất, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, quyền và nghĩa vụ cho
mọi người dân chủ động trong mọi điều kiện, hoàn cảnh của cuộc sống.
Đồng thời với việc phát huy dân chủ cần đấu tranh chống tham nhũng
lãng phí. Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là ý chí, nguyện vọng của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những
người tham nhũng, bất kể người đó là ai, đương chức hay nghỉ hưu, có cơ chế


16

xử lý người bao che, động viên khuyến khích người phát hiện, đấu tranh
chống tham nhũng, biểu dương nhân rộng những gương cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư.
Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí có hiệu quả, Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ X đã chỉ rõ các giải pháp sau đây.
Toàn Đảng, toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội phải có quyết
tâm chính trị cao đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí Đảng,
Nhà nước phải thi hành một cách kiên quyết và đồng bộ các biện pháp phòng
chống tham nhũng lãng phí bao gồm:
Một là, bổ sung hoàn thiện các cơ chế, quy định về quản lý kinh tế tài
chính, quản lý tài sản công, ngân sách Nhà nước các quỹ do nhân dân đóng
góp và do nước ngoài viện trợ; về thanh tra kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát.
Đẩy mạnh cải cách hành chính thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân,
thông qua các cơ quan đại diện trực tiếp và gián tiếp đối với đảng viên công chức
trong đơn vị - bảo đảm công khai minh bạch các hoạt động kinh tế tài chính trong
các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công cộng và doanh nghiệp nhà
nước, tiếp tục đổi mới chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức.
Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy
vai trò các cơ quan dân cử của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị xã hội và
nhân dân trong việc giám sát cán bộ công chức và cơ quan công quyền; phát hiện
đấu tranh với các hiện tượng tham nhũng. Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, cơ quan
nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ cấp cao
phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong việc phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Hơn lúc nào hết, chúng ta cần đẩy mạnh giáo dục cho cán bộ, giáo
viên, học viên, về nội dung, bản chất, nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình dân chủ hoá các mặt đời
sống xã hội, giáo dục bản chất giai cấp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sự
khác nhau giữa chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa với các chế độ dân chủ trước
đó, làm cho mọi quân nhân hiểu biết sâu sắc dân chủ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng, có ý thức tự giác tham gia vào quá trình xây dựng,
củng cố, bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong giảng dạy,
học tập, nghiên cứu, cần nhận thức rõ tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ



17

nghĩa. Đồng thời, nhận thức tính giới hạn của dân chủ chưa thể vượt qua
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Giáo dục cho mọi cán bộ, giáo
viên, học viên thấy rõ những giá trị tiến bộ của dân chủ tư sản với tính cách là
một bước tiến bộ xã hội trong lịch sử nhân loại, nhưng về bản chất đó là một
nền dân chủ của một số ít người, dân chủ cho giai cấp tư sản. Nó chứa nhiều
mâu thuẫn, nhiều hạn chế không thể tiêu biểu cho tiến bộ nhân loại.
Giáo dục ý thức bảo vệ, kế thừa, phát huy các giá trị dân chủ truyền
thống như: ý thức tự điều chỉnh hành vi cá nhân trong quan hệ giao tiếp, ý
thức coi trọng dư luận xã hội, ý thức về nghĩa vụ đối với tập thể… Đồng thời
kiên quyết phê phán tư tưởng “đẳng cấp”, “đặc quyền”, “đặc lợi”, “độc
quyền”, “gia trưởng”…
Trong giai đoạn hiện nay, phải kiên quyết chống tiêu cực, phản động
của “dân chủ tư sản” và trào lưu “tự do hoá tư sản”, tư tưởng thoả hiệp, phản
bội chủ nghĩa xã hội dưới mọi hình thức. Ngăn ngừa những mầm mống nhen
nhóm thành lập các lực lượng đối lập, các tổ chức phản động âm mưu tạo
dựng “ngọn cờ dân chủ” chống phá cách mạng. Chủ động ngăn ngừa khuynh
hướng tự do vô chính phủ. Thực hiện tốt dân chủ cơ sở, phát hiện, giải quyết
kịp thời các “điểm nóng”, không để địch lợi dụng. Xây dựng địa bàn an toàn,
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
KẾT LUẬN

Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nó là
động lực của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thể hiện, gắn bó Đảng
với nhà nước và nhân dân. Trong đó, mọi đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, đều vì mục tiêu xây dựng,
hoàn thiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đồng thời khi quyền dân chủ của

nhân dân được phát huy sẽ bảo đảm sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
thắng lợi, sứ mệnh cao cả của Đảng, của giai cấp công nhân sẽ thành công.
Xây dựng một xã hội dân chủ trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải
thực sự là công bộc của dân. Xác định rõ các hình thức tổ chức và cơ chế để


18

nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội. Đề cao trách nhiệm các tổ chức Đảng, nhà nước đối với nhân
dân. Chính quyền cơ sở cần tăng cường hoạt động, nâng cao trình độ thực thi
quyền dân chủ của mình trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Đề cao cảnh giác
trước mọi âm mưu chống phá chế độ dân chủ, lợi dụng dân chủ phá hoại công
cuộc lao động hoà bình sáng tạo của nhân dân, xây dựng và bảo vệ thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.



×