Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG QUÂN sự hồ CHÍ MINH và ý NGHĨA THỰC TIỄN đối với sự NGHIỆP xây DỰNG và bảo vệ tổ QUỐC VIỆT NAM xã hội CHỦ NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.74 KB, 19 trang )

TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH

1.1. Từ học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin
1.2. Từ những bài học kinh nghiệm và tinh hoa quân sự thế giới

Trang
2
3
3

1.3. Từ truyền thống quân sự của dân tộc và thực tiễn quân sự Việt Nam

3
4

2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ
CHÍ MINH

5

2.1. Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng để
giành và giữ chính quyền. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống
nhất với tư tưởng hoà bình nhân đạo
2.2. Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân
2.3. Tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào
sức mình là chính
2.4. Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh


2.5. Tư tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ
trang nhân dân
2.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu
phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân
3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

3.1. Nhận thức rõ những khó khăn thách thức đối với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay
3.2. Phương hướng, giải pháp vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
KẾT LUẬN

5
8
10
12
15
16
17
17
18
20


2
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong hệ

thống tư tưởng của Người. Đó là những vấn đề có tính qui luật của cách mạng
bạo lực trong đấu tranh để giành và giữ chính quyền, trong khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng, trong việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương,
đặc biệt là xây dựng các lực lượng vũ trang và nền quốc phòng toàn dân.
Nghiên cứu tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng, nhất là trong tình hình hiện nay.
1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH

Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa và phát triển
truyền thống quân sự của dân tộc, tinh hoa quân sự nhân loại mà đỉnh cao là lý
luận quân sự Mác - Lênin, đồng thời tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn là sự
tổng kết từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam qua các thời
kỳ lịch sử.
1.1. Từ học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã là người
yêu nước, những giá trị về truyền thống của dân tộc trong đó có những giá trị
về truyền thống quân sự có ảnh hưởng lớn đến Người. Đến với chủ nghĩa Mác
– Lênin giúp cho Hồ Chí Minh hiểu được đúng đắn những giá trị truyền thống
của dân tộc và tri thức kinh nghiệm thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin, mà trực
tiếp là những quan điểm chiến tranh và quân đội, về bạo lực cách mạng, về vũ
trang toàn dân, xây dựng Hồng quân công - nông... thực sự trở thành cơ sở
nền tảng cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự.
Quá trình tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tư tưởng quân sự của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có bước phát triển mới và làm phong phú thêm lý luận Mác - Lênin
trong lĩnh vực hoạt động quân sự và đấu tranh vũ trang.
1.2. Từ những bài học kinh nghiệm và tinh hoa quân sự thế giới

Hồ Chí Minh đã tiếp cận kho tàng tri thức quân sự nhân loại từ cổ chí

kim, từ Đông sang Tây. Người đã nghiên cứu tư tưởng quân sự của Trung Quốc
qua một số nhân vật tiêu biểu như Tôn Tử, Khổng Minh, đã dịch sách quân sự
Tôn Tử và viết bài về cách huấn luyện quân sự của Khổng Minh. Người cũng


3
nghiên cứu kinh nghiệm của các tướng lĩnh quân sự ở phương Tây như: Nenxơn
(người Anh), Napôlêông (người Pháp). Người viết: “Một nhà danh tướng về hải
quân là NenSông (Nelson) cũng có nói: “Giờ phút là đồng chí yêu quý của ta. Ta
nên quý trọng người đồng chí ấy hơn những đồng chí khác””1.
Người đã nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
ở Nga. Trong những năm đầu chiến tranh thế giới thứ hai, Người hoạt động ở
miền Nam Trung Quốc, trực tiếp chứng kiến cuộc chiến đấu của nhân dân Trung
Quốc chống phát xít Nhật. Sau này cùng với những ghi chép của Phùng Chí Kiên,
Người đã viết cuốn "Kinh nghiệm du kích Tầu". Trong thời gian bị giam giữ trong
nhà tù Tưởng Giới Thạch, Người vừa làm thơ, vừa ghi chép nhiều vấn đề quân sự,
về tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang và quân đội chính quy.
Có thể nói: Tinh hoa quân sự nhân loại là một trong những cơ sở hình
thành phát triển, làm phong phú, sâu sắc thêm tư duy quân sự Hồ Chí Minh.
1.3. Từ truyền thống quân sự của dân tộc và thực tiễn quân sự Việt Nam

Lịch sử dựng nước và giữ nước dân tộc ta thường phải đương đầu với
những thế lực xâm lược lớn. Với lòng yêu nước và trí thông minh sáng tạo,
cha ông chúng ta đã nghĩ ra trăm phương ngàn kế để đánh giặc và thắng giặc,
đã xây dựng nên truyền thống và nghệ thuật quân sự Việt Nam độc đáo. Theo
giáo sư Trần Văn Giàu: hiếm có một dân tộc nào như dân tộc ta trong lịch sử
phát triển của mình giành tới 2/3 thời gian cho cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm. Vì vậy, dân ta sớm có truyền thống đấu tranh quân sự, truyền thống của
một nước nhỏ luôn đánh thắng kẻ thù to. Nét tiêu biểu đó là:
Biết dựa vào dân làm kế sách dựng nước và giữ nước là đặc trưng sâu sắc

trong truyền thống quân sự Việt Nam, Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong tư
tưởng quân sự của Người. Truyền thống đó là niềm tin ở sức mạnh lòng dân,
truyền thống đoàn kết toàn dân, truyền thống quyết đánh quyết thắng.
Truyền thống quân sự, việc sử dụng sức mạnh quân sự và tư tưởng
nhân đạo (công tác binh vận) Việt Nam vừa thể hiện ý chí quyết tâm đánh
giặc giữ nước vừa thắm đượm tính nhân văn, nhân đạo cao cả "Lấy đại nghĩa
thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo", là truyền thống và kinh nghiệm
tổ chức xây dựng lực lượng, sự quan hệ phối hợp giữa các thứ quân. Truyền
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.231-232


4
thống quân sự Việt Nam còn được thể hiện ở nghệ thuật đánh giặc tài tình,
nghệ thuật lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy "đoản binh chế trường
trận..." đã góp phần làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử dân tộc
ta như Bạch Đằng, Đống Đa...
Những giá trị truyền thống dân tộc đã ảnh hưởng rất sâu sắc tới quá
trình hình thành tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh. Làm nên những giá trị đặc
trưng sâu sắc trong tư duy quân sự của Người.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, kể từ đó và những
năm sau này dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta đã anh dũng
đứng lên đấu tranh chống lại bọn xâm lược và bè lũ phong kiến tay sai. Tuy
nhiên các phong trào yêu nước dưới ngọn cờ của giai cấp phong kiến hoặc
khuynh hướng tư sản đều thất bại do hạn chế về đường lối, phương pháp đấu
tranh, cũng như quan điểm tổ chức xây dựng lực lượng. Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu tình hình thực tế này, nhận thấy rõ những hạn chế và những yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra cần phải giải quyết để đưa phong trào đấu tranh chống

thực dân Pháp xâm lược có thể đi đến thắng lợi.
Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước và đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, tìm thấy ở đó con đường yêu nước đúng đắn, con đường cách mạng vô
sản do Đảng Cộng sản, đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. Thực
tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới ánh sáng đường lối của Đảng
và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng phát triển. Chính thực tiễn đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, là cơ sở thực tiễn đặc biệt
quan trọng để Hồ Chí Minh hình thành và từng bước phát triển hệ thống quan
điểm về bạo lực cách mạng, về khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh cách mạng,
về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn
dân… Thực tiễn đấu tranh cách mạng là một trong những nguồn gốc, động
lực cho sự hình thành, phát triển tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh và cũng
chính thực tiễn kiểm nghiệm tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là tư tưởng quân
sự cách mạng, đúng đắn và sáng tạo.
2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ
CHÍ MINH


5
2.1. Dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng để giành
và giữ chính quyền. Tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân
đạo và hòa bình

Trong di sản tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, tư tưởng về bạo lực cách
mạng là nền tảng tư tưởng xuyên suốt. Đó là sự vận dụng sáng tạo lý luận về
bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn Việt Nam, có kế
thừa và phát triển kinh nghiệm về xây dựng, sử dụng bạo lực của dân tộc ta và
thế giới.
Ngay từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã đi sâu vào
nghiên cứu, phân tích vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân và chỉ rõ

chủ nghĩa thực dân tự bản thân nó đã là bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ
yếu. Người viết: “Lịch sử việc người Âu xâm chiếm châu Phi, cũng như bất
cứ lịch sử xâm chiếm thuộc địa nào – thì từ đầu đến cuối đều được viết
bằng máu những người bản xứ” 1. Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của
Hồ Chí Minh đã vượt qua tất cả những gì mà những nhà lý luận mác xít đề
cập tới. Thông qua sự phân tích Người muốn lưu ý giai cấp vô sản quốc tế
và nhân dân lao động thế giới: “Chủ nghĩa đế quốc hiện đại đặt nền móng
trên sự bóc lột hàng triệu người lao động ở các nước thuộc địa và nửa thuộc
địa. Bởi thế, nó chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ
được nền móng đó của lâu đài đế quốc chủ nghĩa” 2. Theo đó, Hồ Chí Minh
chỉ rõ nhiệm vụ của giai cấp vô sản và nhân dân các nước thuộc địa và nửa
thuộc địa là: “… trong thời gian ngắn nhất phải tạo ra một phong trào đối
kháng mang tinh thần cộng sản, chống chủ nghĩa tư bản và hai hình thức
đặc biệt của nó là chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa
pháo thuyền ở các thuộc địa” 3. Phong trào đối kháng mang tinh thần cộng
sản mà Hồ Chí Minh nói ở đây là sức mạnh của bạo lực cách mạng để
chống lại sự thống trị, bóc lột của kẻ thù.
Hồ Chí Minh đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa thực dân Pháp ở
Việt Nam, Người chỉ rõ để giành lấy chính quyền thì không thể ảo tưởng
trông chờ vào sự “khai hóa văn minh” của Pháp, càng không thể “cầu xin”
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.326.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr.126.
33
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.445.
2


6

để có được độc lập, tự do, mà chỉ có thể thông qua con đường bạo lực cách
mạng. Đối với đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ bản chất của nó
“chết thì chết, nết không chừa”, chúng sẽ dùng bạo lực phản cách mạng để
thực hiện âm mưu thâm độc với cách mạng nước ta. Cho nên, cũng như các
dân tộc bị áp bức thống trị trên thế giới, dân tộc ta phải sử dụng sức mạnh
của bạo lực cách mạng để chống lại kẻ thù. Hồ Chí Minh viết: “Trong cuộc
đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và
bảo vệ chính quyền” 1.
Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự
nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, dưới sự lãnh đạo, tổ chức,
hướng dẫn của giai cấp tiến bộ, cách mạng; Hồ Chí Minh xác định việc giành
và giữ chính quyền bằng bạo lực cách mạng là phải bằng bạo lực của quần
chúng nhân dân có tổ chức và được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng. Sức
mạnh của bạo lực cách mạng chính là sức mạnh của quần chúng nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, bạo lực cách mạng là sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, trong đó hai lực lượng cơ bản: Lực lượng chính trị và
lực lượng quân sự (vũ trang), với hai hình thức đấu tranh chủ yếu là đấu vũ
trang và đấu tranh chính trị. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tuỳ tình hình cụ thể mà
quyết định những hình thức đấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và
khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành
thắng lợi cho cách mạng”2. Trên cơ sở phân tích cụ thể tình hình thực tế và
xác định vai trò của từng hình thức đấu tranh và sử dụng cho phù hợp, có hiệu
quả. Đặc biệt là sự kết hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị phải
phù hợp từng điều kiện hoàn cảnh, phải có sự chuẩn bị sẵn sàng về lực lượng,
không để bị động bất ngờ. Trong sử dụng hình thức bạo lực cách mạng cần
phòng ngừa và khắc phục tư tưởng “tả khuynh”, “hữu khuynh”, xem nhẹ hoặc
tuyệt đối hoá hình thức nào cũng đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh không đối lập mà có

sự thống nhất với chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu chuộng hoà bình, vừa
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.304
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.304


7
mang đậm bản sắc của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam “thương người như thể
thương thân”. Với Hồ Chí Minh, bạo lực không phải là mục tiêu, là công cụ
vạn năng mà chỉ là phương tiện buộc người cách mạng phải sử dụng để
chống lại bạo lực phản cách mạng. Là người yêu chuộng hoà bình, có tình
yêu thương con người rộng lớn, Hồ Chí Minh luôn chú trọng sử dụng các
hình thức đấu tranh hòa bình nhằm giành thắng lợi và giảm đến mức thấp
nhất những tổn thất về sinh mạng con người. Người đã từng nhân nhượng,
thoả hiệp có nguyên tắc để tránh chiến tranh, kêu gọi phía Pháp thực hiện
hợp tác vì tự do, bình đẳng và độc lập. Người đã chủ động ký hiệp định sơ
bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9 mong tìm phương sách cứu vãn hòa bình.
Nhưng đó phải là “một nền hoà bình chân chính, trong độc lập và tự do thực
sự”1. Khi cơ hội hòa bình không còn, hòa hoãn, nhân nhượng đã đến giới
hạn cuối cùng thì Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm
“Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ”2. Đồng thời kiên trì kêu gọi chính phủ Pháp chấm dứt chiến
tranh, kêu gọi nhân dân tiến bộ Pháp và các nước dân chủ trên thế giới tích
cực ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa bình.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc sử dụng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng đã thể hiện tính nhân văn cao cả. Người
không bao giờ muốn con người phải đổ máu và đau khổ. Ngay cả đối với kẻ
thù, Người cũng chỉ rõ, chúng ta chiến đấu để “quét sạch” nó đi, để “đánh cho

Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, chứ không phải là giết sạch. Người thường
xuyên giáo dục và yêu cầu nhân dân, cán bộ, chiến sĩ mở rộng lòng nhân ái,
bao dung, độ lượng, đối xử nhân đạo đối với tù hàng binh và đối với người
Việt Nam lầm đường lạc lối.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về việc sử dụng bạo lực cách mạng chống
lại bạo lực phản cách mạng hoàn toàn đối lập và xa lạ với tư tưởng đam
mê, say sưa và sùng bái bạo lực của các thế lực quân phiệt, hiếu chiến.
Quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh mang tính cách mạng,
thể hiện lòng nhân ái, tinh thần yêu chuộng hòa bình, nhưng cũng không
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.488.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.480.


8
ảo tưởng hòa bình, bó tay mất cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn
xảo quyệt của kẻ thù.
2.2. Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang toàn dân

Từ nghiên cứu lý luận Mác – Lênin về khởi nghĩa vũ trang và đúc rút
những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam từ khi Pháp xâm lược.
Hồ chí Minh đã chỉ ra khởi nghĩa vũ trang nhằm giải phóng dân tộc Việt Nam
phải do toàn dân tiến hành, lấy liên minh công nông làm nòng cốt dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của toàn dân,
của mọi người Việt Nam yêu nước; toàn dân nổi dậy bằng tất cả các lực
lượng, lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, bằng tất cả các hình thức đấu
tranh chính trị và đấu tranh quân sự thì mới đủ sức quật ngã kẻ thù để giải
phóng dân tộc là một vấn đề mà Hồ Chí Minh suy ngẫm nung nấu từ lâu.

Người cũng đã nêu lên những điều kiện bảo đảm thắng lợi:
Một là, lực lượng đế quốc thống trị bị lung lay, bối rối, không đủ sức
giữ địa vị của chúng như trước nữa.
Hai là, có một cao trào cách mạng trong quảng đại quần chúng. Dân
chúng đói khổ căm tức đến cực điểm quyết hy sinh nổi dậy đấu tranh với đế
quốc đến cùng vì hiểu rằng ngồi yên sẽ chết.
Ba là, có một chính đảng lãnh đạo, chính đảng ấy lập được một đoàn
thể cách mạng kiên quyết, có một chính sách đúng, có một lực lượng khá để
lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa là được dân chúng tin cậy.
Về hình thức khởi nghĩa, Người chỉ rõ: Ở Việt Nam, khởi nghĩa có thể
diễn ra dưới hình thức chuyển từ đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang để
chống lại bọn phát xít tàn bạo, phát động chiến tranh du kích ở từng địa
phương, thực hiện khởi nghĩa từng phần, chớp thời cơ tiến hành tổng khởi
nghĩa cả nông thôn và thành thị. Đó cũng là quan điểm nền tảng trong đường
lối của Đảng, trong lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Những
quan điểm tư tưởng đó không ngừng được bổ sung phát triển với những nội
dung cơ bản sau:
Một là, xác định đúng ngay từ đầu con đường giành chính quyền
bằng bạo lực cách mạng của quần chúng tiến hành với phương thức khởi
nghĩa vũ trang, con đường khởi nghĩa vũ trang phải đi từ khởi nghĩa từng


9
phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước khi có thời
cơ thuận lợi.
Hai là, lực lượng tiến hành khởi nghĩa vũ trang là lực lượng toàn dân.
Việc xây dựng lực lượng để tiến hành khởi nghĩa phải lấy xây dựng lực lượng
chính trị của quần chúng làm cơ bản, trên cơ sở đó coi trọng xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân.
Ba là, khởi nghĩa vũ trang phải có tình thế và thời cơ chín muồi.

Khi cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, vừa mới giành được chính
quyền, chúng ta đã phải tiến hành liên tục hai cuộc kháng chiến để bảo vệ
thành quả cách mạng. Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến, tư
tưởng của Người là những quan điểm nền tảng trong đường lối kháng chiến
của Đảng ta.
2.3. Tư tưởng kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức
mình là chính

- Kháng chiến toàn dân: trên cơ sở nắm vững truyền thống đoàn kết
của dân tộc Việt Nam, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh càng
hiểu rõ vai trò to lớn của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng,
Người khẳng định những quan điểm rất cơ bản: dân là chủ; kháng chiến,
kiến quốc là sự nghiệp của dân; có dân là có tất cả; khởi nghĩa toàn dân để
giành lại nền độc lập cho dân tộc; kháng chiến toàn dân để giữ vững nền
độc lập ấy. Toàn dân theo tư tưởng Hồ chí Minh, là toàn thể dân tộc, là mọi
con dân nước Việt, mọi người con Lạc cháu Hồng. Điều này được Người
nói rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp: “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có
gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân
Pháp cứu nước”1.
Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta đã động viên được lực lượng toàn
dân tham gia cuộc kháng chiến ác liệt lâu dài chưa từng có trong lịch sử
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Làm được như vậy, trước hết là do
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.480.



10
Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, đáp ứng mong muốn ngàn đời
của dân tộc và phù hợp với xu thế thời đại. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, con đường giải phóng triệt để cho dân tộc, xã hội và con
người. Mục tiêu chính trị của cuộc kháng chiến toàn dân không chỉ là giữ và
giành lại nền độc lập cho Tổ quốc, mà còn xây dựng một chế độ xã hội mới
không còn áp bức, bóc lột, bất công. Chính vì vậy, nó đã tạo khả năng động
viên được sức mạnh, nghị lực và tinh thần sáng tạo to lớn của nhân dân khi đi
vào chiến tranh, đi vào kháng chiến.
Để biến khả năng thành hiện thực, Hồ Chí Minh đã nêu cao chính sách
đại đoàn kết dân tộc, tập hợp rộng rãi các lực lượng yêu nước vào trong một
Mặt trận dân tộc thống nhất, dựa trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân
và trí thức. Người rất coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục, động viên tinh
thần nhân dân, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ, mọi người dân hiểu rõ mục tiêu
của cách mạng, tính chất của chiến tranh, của kháng chiến, nâng cao lòng yêu
nước, ý chí kiên cường, bất khuất, giác ngộ sâu sắc lợi ích tối cao của dân tộc
để tự giác tham gia kháng chiến và đóng góp tích cực vào cuộc kháng chiến
thần thánh của cả dân tộc.
- Kháng chiến toàn diện: tức là đánh giặc trên tất cả các mặt trận: quân
sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá, tư tưởng…
Đấu tranh quân sự: là hình thức chủ yếu nhất của chiến tranh. Bởi vì,
cuối cùng bao giờ cũng phải thắng địch bằng quân sự, phải đập tan quân đội
nhà nghề là công cụ chủ yếu của kẻ xâm lược. Phải đánh địch ở khắp mọi nơi,
kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh
vừa, đánh lớn… nhằm tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Phải vừa đánh,
vừa xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang làm nòng cốt, xây dựng bộ đội
chủ lực mạnh để quyết định ở chiến trường.
Đấu tranh chính trị: là hình thức cơ bản nhất của chiến tranh nhân dân.
Tập hợp, mở rộng và củng cố tổ chức quần chúng, xây dựng và phát triển lực
lượng chính trị rộng khắp. Tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh với các

hình thức và quy mô phù hợp, để phối hợp với đấu tranh quân sự chống địch
ở khắp nơi, làm cho địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Phối hợp tiến
công chính trị của quần chúng với binh, địch vận, đánh vào tinh thần và tổ


11
chức của địch tạo nên những suy yếu ngay từ trong hàng ngũ của địch. Xây
dựng cơ sở quần chúng tạo điều kiện cho đấu tranh quân sự phát triển.
Đấu tranh ngoại giao: cũng là mặt trận có ý nghĩa chiến lược, phối
hợp với mặt trận quân sự và chính trị. Hồ Chí Minh coi trọng công tác
tuyên truyền đối ngoại, vạch rõ tính chất phi nghĩa, phản động của địch,
khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến của ta và ý chí quyết
tâm giành và giữ độc lập dân tộc của nhân dân ta. Người khéo lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ của kẻ thù để tập trung mũi nhọn vào kẻ thù
chính. Vừa đánh vừa đàm, đánh là chủ yếu, đàm là hỗ trợ. Trong đàm phải
hết sức kiên trì, tỉnh táo và có nguyên tắc.
Đấu tranh kinh tế: là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây
dựng hậu phương vững mạnh có đủ sức, đủ người phục vụ cho tuyền tuyến.
Phải phát triển kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch.
Đấu tranh văn hóa – tư tưởng: Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chiến tranh về
mặt văn hoá hay tư tưởng so với những mặt khác cũng không kém phần quan
trọng” “văn hóa là một mặt trận”… Phải đấu tranh chống thói hư tật xấu…
xây dựng đạo đức mới…
- Kháng chiến trường kỳ, dựa vào sức mình là chính.
Hồ Chí Minh giải thích “kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân
ta ít, nước ta nghèo, ta phải có sự chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn
diện của toàn dân”1 và “Muốn trị lửa phải dùng nước. Địch muốn tốc chiến,
tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua, ta nhất
định thắng”2. Kháng chiến trường kỳ nhưng không có nghĩa là phải kéo dài vô
thời hạn mà phải nỗ lực vượt bậc, vừa tiêu diệt địch, vừa bồi dưỡng phát triển

lực lượng của ta, càng đánh ta càng mạnh, địch càng yếu, đánh bại từng âm
mưu chiến lược của địch, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong tình hình
đó, phải biết tạo thời cơ để giành thắng lợi càng sớm càng tốt.
Dựa vào sức mình là chính là sự tiếp nối truyền thống độc lập tự chủ, tự
lực, tự cường của dân tộc ta. Dựa vào sức mình là chính không có nghĩa là tự
mình cô lập. Mà phải luôn xác định rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.164.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.485.


12
của cách mạng thế giới và phải liên hệ mật thiết với cách mạng thế giới thì
mới giành được thắng lợi...
2.4. Nghệ thuật quân sự theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự rất phong phú và rất đặc
sắc, đó là những tư tưởng cốt lõi, chủ yếu làm nền tảng lý luận và định hướng
hành động cho Đảng ta, nhân dân ta, quân đội ta bổ sung, hoàn thiện trong
khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng trở thành nghệ thuật quân sự
của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ
thuật quân sự bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công luôn giành thế chủ động. Có
tư tưởng chiến lược tiến công mới có hành động tiến công. Có chủ động mới
phát triển được thế tiến công “Kiên quyết không ngừng thế tiến công” là biểu
hiện cao nhất của tư tưởng tiến công, đây là biểu hiện cao nhất của tư tưởng
tiến công Người nói: “giữ quyền chủ động là khôn khéo sử khiến quân thù
(khôn khéo điều khiển quân thù), muốn đánh nó ở chỗ nào thì đưa nó đến đó

mà đánh, muốn đưa nó vào bẫy của mình có thể đưa được… giữ được chủ
động thì thế nào cũng thắng, không thắng to thì thắng nhỏ”1.
Tư tưởng chiến lược tiến công không loại trừ cách đánh phòng ngự.
Nhưng, như Người phân tích, phòng ngự là phòng ngự thế chủ động, là
“phòng ngự thế tiến công”, là “Tiến công, thoái thủ nhanh như chớp”, là
“Tiến công, phòng ngự không sơ hở”.
Tiến công phải nắm vững nguyên tắc chắc thắng, không phiêu liêu mạo
hiểm. Người luôn giáo dục cán bộ không được chủ quan khinh địch, tích cực
tiêu diệt địch nhưng phải biết bảo toàn lực lượng… chắc thắng thì đánh,
không chắc thắng thì kiên quyết không đánh.
- Kết hợp chặt chẽ lực, thế, thời, mưu.
Lực: là sức mạnh tinh thần và vật chất.
Thế: là không gian, địa bàn hoạt động, cách bố trí lực lượng, chọn
hướng tấn công.
Thời: là thời gian, thời điểm, thời cơ tấn công địch.
Hồ Chí Minh khái quát:
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.473.


13
“Lạc nước hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời một tốt cũng thành công”1
Mưu: là mưu trí, mưu lược, mưu kế.
Muốn vận dụng lực - thế - thời cho có kết quả thì phải dùng mưu, phải quyết
đoán, dũng cảm, khi tiến đánh thì phải thật nhanh nếu trù trừ do dự sẽ mất thời cơ.
Nhưng đánh nhanh không phải là hấp tấp vội vàng mà quên cả cơ mưu,
phải vừa nhanh lại vừa có mưu kế giỏi mới đánh thắng được địch.
- Phải đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi qui mô, mọi cách đánh, mọi

thứ vũ khí trang bị, kết hợp đánh du kích với đánh tập trung, đánh tiêu hao với
đánh tiêu diệt.
Trong kháng chiến toàn dân, toàn diện phải đánh địch bằng mọi lực
lượng: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Phải đánh địch
bằng mọi qui mô: đánh từng người, từng đơn vị, có đánh nhỏ, đánh lớn. Phải
đánh bằng mọi thứ vũ khí trang bị sẵn có trong tay đặc biệt phải cướp vũ khí
của địch để tiêu diệt địch. Phải đánh từ du kích tiến lên đánh tập trung và kết
hợp chặt chẽ hai hình thức đó để tiêu hao, tiêu diệt ngày càng nhiều sinh lực
địch. Phải đánh địch bằng mọi cách: tập kích, phục kích, đánh phá đồn bốt…
Cách đánh của “đặc công”, “biệt động” là sáng tạo đặc sắc của tư tưởng lấy
nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều “xuất quỉ nhập thần, thiên biến vạn hoá” theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đánh vào lòng người, kết hợp tác chiến với binh vận, địch vận.
Người rất coi trọng việc đánh vào lòng người, binh vận, địch vận. Cần
vận động không chỉ binh sĩ trong quân đội viễn chinh của bọn thực dân đế
quốc, mà cả binh sĩ trong nguỵ quân do chúng dựng nên. Người đã nói với
những cán bộ làm công tác định vận: sách quân sự có câu: đánh mà thắng
địch là giỏi, không đánh mà thắng lại càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là
nhờ địch vận. Nếu các chú khéo nguỵ vận thì đó cũng là cách đánh tiêu diệt địch.
Người rất tin vào khả năng cảm hoá binh sỹ địch, một khi ta làm cho họ
rõ được cuộc chiến tranh mà họ đang tiến hành là phi nghĩa, thức tỉnh lương
tri của họ hướng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của ta. Người rất coi trọng

12

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.287.


14
chính sách khoan hồng, nhân đạo đối với tù binh và những binh sĩ bỏ hàng

ngũ địch chạy sang hàng ngũ của ta.
- Biết khởi đầu và biết kết thúc chiến tranh.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta tiến hành chiến
tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc khi không còn con đường nào
khác, không còn chút hy vọng nào để cứu vãn nền hòa bình. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đều bắt đầu như vậy.
Khi đã bước vào kháng chiến thì toàn quân, toàn dân ta quyết kháng chiến
cho đến thắng lợi cuối cùng.
Mục tiêu của ta là chiến thắng bọn xâm lược, thời hạn kết thúc chiến
tranh không thể nói trước, điều đó tuỳ thuộc vào quyết tâm, cố gắng của quân
và dân ta trong cả nước, chủ yếu là làm thay đổi tương quan so sách lực lượng
giữa ta và địch trên chiến trường và trong toàn bộ cuộc chiến tranh, bên cạnh
đó là những biến đổi của tình hình thế giới có ảnh hưởng đến nước ta.
Trong điều kiện lực lượng so sánh địch - ta quá chênh lệch lúc đầu,
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta là phải giành thắng lợi
từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn, phải biết kết thúc chiến tranh
vào thời điểm thích hợp và có lợi cho ta.
2.5. Tư tưởng về xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
nhân dân

Trong khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng bao gồm 2 lực lượng: lực
lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Trong đó: xây
dựng lực lượng chính trị là nhiệm vụ hàng đầu, để làm cơ sở xây dựng lực
lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Người đặc biệt chăm lo bồi dưỡng ý thức chính trị và xây dựng bản
chất cách mạng cho các lực lượng vũ trang nhân dân.
“Quân đội ta trung với nước, hiếu với dân”, nhiệm vụ của quân đội là
vừa chiến đấu, vừa công tác, vừa sản xuất. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao
thì phải thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Hồ Chí Minh nêu lên
quan điểm hết sức quan trọng “người trước, súng sau”. Muốn nói đến mối


15
quan hệ giữa con người với vũ khí trong xây dựng lực lượng vũ trang, nhưng
yếu tố quyết định là con người cầm vũ khí. Do đó phải thường xuyên chăm lo
giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sỹ có bản lĩnh chính trị, có tri thức quân
sự, có trình độ văn hóa, có sức khoẻ, năng lực… Trong khi nêu cao vai trò
của con người Hồ Chí Minh không coi nhẹ vũ khí, kỹ thuật.
Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ
quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích. Người cũng đặc
biệt coi trọng công tác huấn luyện, giáo dục bộ đội. Quan tâm chăm lo đến đời
sống vật chất của bộ đội với tinh thần “thực túc thì binh cường”, đảm bảo vật chất
kỹ thuật cho bộ đội là hết sức quan trọng.
Xây dựng đội ngũ cán bộ quân sự, vì “Tướng là kẻ giúp nước. Tướng
giỏi đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm thì nước mạnh. Tướng xoàng thì
nước hèn”1.
Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi không ngừng nâng cao chất lượng của quân
đội, sức chiến đấu của quân đội “Quân đội ta phải tiến đến chính qui và hiện
đại hoá”2.
2.6. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu
phương, xây dựng nền quốc phòng toàn dân

Trong chuẩn bị khởi nghĩa, khởi nghĩa và chiến tranh Hồ Chí Minh
coi trọng việc xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng hậu phương để tạo
tiềm lực và chỗ đứng chân trong khởi nghĩa vũ trang cũng như trong chiến
tranh cách mạng. Theo Người: Phải triệt để dựa vào nhân dân, đi từ xây
dựng cơ sở chính trị của quần chúng từng bước xây dựng, mở rộng và củng
cố căn cứ địa cách mạng và hậu phương trong chiến tranh. Chăm lo xây

dựng củng cố chính quyền và các đoàn thể cách mạng. Xây dựng căn cứ
hậu phương phải toàn diện vững mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, v.v…
Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, huy động sức dân phải gắn với bồi dưỡng
sức dân. Phải dựa chắc vào dân “Căn cứ hậu phương vững chắc nhất là
lòng dân”. Chú trọng xây dựng căn cứ hậu phương ở rừng núi, ở đồng
bằng, nhưng phải quan tâm đến xây dựng cơ sở chính trị và căn cứ ngay ở
thành thị, tạo thế cài răng lược, tạo điều kiện cho tiến công và nổi dậy, nổi
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 3, tr.519.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tập 8, tr.163.


16
dậy và tiến công rộng khắp. Trong kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc xã hội
chủ nghĩa phải thành hậu phương lớn của cách mạng miền Nam và là nhân
tố quyết định đối với sự nghiệp cách mạng của cả nước.
Sau Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Hồ Chí Minh và Đảng ta mong
muốn là cố gắng phấn đấu để thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử. Nhưng
đế quốc Mỹ và bọn bè lũ tay sai cố tình phá hoại hiệp định, chúng lê máy
chém đi khắp miền Nam và hô hào “Bắc tiến”. Vấn đề xây dựng và bảo vệ
miền Bắc được đặt ra, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 12, khoá II
(1957) Hồ Chí Minh đã chính thức đặt vấn đề xây dựng và củng cố nền quốc
phòng toàn dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là: nền quốc phòng toàn dân
do toàn dân xây dựng, dựa vào sức mạnh của toàn dân, sức mạnh toàn diện
của đất nước nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng,
bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện chuẩn bị cho
miền Bắc đủ sức ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu và hành động xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc. Tư tưởng đó sau này được Người tiếp tục bổ sung

hoàn thiện và đã trở thành những quan điểm nền tảng trong đường lối xây
dựng nền quốc phòng toàn dân của Đảng ta.
3. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG QUÂN SỰ HỒ CHÍ MINH ĐỐI
VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
HIỆN NAY

3.1. Nhận thức rõ những khó khăn thách thức đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay

Ngày nay sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta diễn ra trong bối
cảnh tình hình thế giới có những diễn biến nhanh chóng và phức tạp chứa
đựng nhiều yếu tố khó lường. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra gay gắt,
quyết liệt dưới nhiều hình thức khác nhau. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là
đế quốc Mỹ không từ bỏ âm mưu chống phá chủ nghĩa xã hội, chống phá
sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Với chiến lược “diễn biến hoà bình”
kết hợp với “bạo loạn lật đổ”, chúng chống phá chủ nghĩa xã hội quyết liệt
với nhiều hình thức, biện pháp tinh vi xảo quyệt hơn. Các cuộc chiến tranh
dân tộc, sắc tộc, xung đột khu vực, những cuộc chiến tranh được ngụy
trang dưới các chiêu bài "tự do, dân chủ, nhân quyền" thực chất là âm mưu


17
áp đặt sự chỉ đạo của các nước lớn nhằm biến các nước nhỏ và yếu trở
thành các nước phụ thuộc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay đó là: bảo vệ Tổ quốc gắn với bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân không thể tách rời.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ: “Bảo vệ vững chắc
Tổ quốc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, an ninh tư tưởng – văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ

cương, an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước; ngăn ngừa
đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu hoạt động chống phá thù địch, không để
bị động, bất ngờ”1. Hơn nữa cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đang phát triển mạnh mẽ dẫn đến phương thức tiến hành chiến tranh có sự
phát triển mới, những đặc điểm mới của bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện
nay đặt ra những yêu cầu mới cho sự vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
và chủ trương đường lối quân sự của Đảng.
3.2. Phương hướng, giải pháp vận dụng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện của đất nước tăng cường tiềm
lực sức mạnh quân sự, chính trị tinh thần, kinh tế, văn hóa… Muốn phát huy
sức mạnh toàn dân trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần thực hiện tốt các giải
pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục,
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho
nhân dân.
Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục quốc phòng phải phù hợp với
từng đối tượng và phải phổ cập hết cho mọi đối tượng (nhất là đối với thanh
niên) trong các trường. Chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức rõ về đối
tượng và đối tác. Trong đối tượng có đối tác và trong đối tác có đối tượng.
Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan
hệ hữu nghị hợp tác, bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của
chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.108.



18
nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu
tranh. Đó là nguyên tắc, là tiêu chí để xác định đối tượng, đối tác của ta trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay giữa đối tượng và đối tác luôn có sự đan xen.
Trong khi là đối tượng đấu tranh nhưng vẫn có những mặt cần tranh thủ hợp
tác; ngược lại là đối tác trong quan hệ làm ăn, nhưng vẫn có những mặt đối
lập cần cảnh giác và đấu tranh… Giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm và
tinh thần cảnh giác cách mạng. Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ
đoạn diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ.
Hai là, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng
và an ninh, trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước.
Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an
ninh nhân dân. Đẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố.
Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc
phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập
trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên
biên giới đất liền, biển đảo. Xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống
công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính
phủ, đầu tư có chọn lọc theo hướng hiện đại, vừa phục vụ quốc phòng vừa
phục vụ dân sinh.
Ba là, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng chính quy - tinh nhuệ - từng bước hiện đại.
Xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó cần tập trung:
thường xuyên làm tốt công tác giáo dục để mọi cán bộ, chiến sỹ đều có sự
thống nhất cao về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ. Chú trọng xây dựng nhân tố
chính trị tinh thần, tăng cường bản chất giai cấp công nhân… Tiếp tục đổi
mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, huấn luyện, đào tạo cho
phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Huấn luyện cần nắm vững phương châm: “cơ
bản, thiết thực, vững chắc, đồng bộ và chuyên sâu”. Huấn luyện phải sát với
thực tiễn chiến đấu, sát đối tượng tác chiến, sát yêu cầu nhiệm vụ, sát địa bàn

hoạt động của từng lực lượng, đơn vị. Phù hợp với tổ chức biên chế, khả năng


19
trang bị. Phù hợp với nghệ thuật quân sự, kinh nghiệm và cách đánh truyền
thống. Xây dựng đội ngũ cán bộ chú trọng cả đức và tài…
Bốn là, xây dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước đối với hoạt động quốc phòng - an ninh.
Thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ,
chính trị viên, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Bổ
sung quy chế phối hợp hoạt động giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại và các
bộ, ngành có liên quan trong phân tích, dự báo tình hình và làm tham mưu đề
xuất các giải pháp thực hiện. Bổ sung, xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật, các chính sách xã hội có quan hệ đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Khẩn trương chỉ đạo xây dựng và ban hành các chiến lược quốc gia: chiến
lược quốc phòng, chiến lược an ninh và các chiến lược chuyên ngành khác.
KẾT LUẬN

Hồ Chí Minh là nhà chiến lược quân sự thiên tài, là người cha thân yêu
của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người đã kế thừa, phát triển
truyền thống quân sự dân tộc, học thuyết quân sự Mác - Lênin và kinh nghiệm
quân sự các nước trên thế giới và xây dựng lý luận quân sự Việt Nam trong thời
đại mới. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là một bộ phận hữu cơ cực kỳ quan
trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Đó không
phải là tư tưởng thuần tuý quân sự, mà luôn là tư tưởng quân sự chính trị nhằm
thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng
con người. Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối
với lịch sử mà còn là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn hiện nay.




×