Tải bản đầy đủ (.doc) (184 trang)

Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.3 KB, 184 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN KHẮC LUYỆN

KÕ THõA TRUN THốNG đánh giặc giữ nớc
của dân tộc trong BảO Vệ Tỉ QC VIƯT NAM
X· HéI CHđ NGHÜA HIƯN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN KHẮC LUYỆN

KÕ THõA TRUN THốNG đánh giặc giữ nớc
của dân tộc trong BảO Vệ Tỉ QC VIƯT NAM
X· HéI CHđ NGHÜA HIƯN NAY

Chun ngành:
Mã số:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử
62 22 03 02



LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS, TS Nguyễn Bá Dương
2. TS Đào Huy Hiệp

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tơi. Các số liệu, trích dẫn
trong luận án là trung thực và có nguồn
gốc xuất xứ rõ rng.
H Ni, ngy

thỏng

nm 2013

TáC GIả LUậN áN

Nguyễn Khắc Luyện


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 1 QUAN NIỆM VÀ NỘI DUNG KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG
ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ TỔ
QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Quan niệm về kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1.2. Nội dung kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Chương 2 KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA
DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA

2.1. Thực trạng kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
2.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc kế thừa truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
Chương 3 GIẢI PHÁP KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC
CỦA DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA HIỆN NAY

3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể kế thừa
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
3.2. Thực hiện đồng bộ việc kế thừa truyền thống đánh giặc giữ

nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hiện nay
3.3. Tạo lập các điều kiện thuận lợi cho kế thừa truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

4
8
21
21
39

69
69
98
110
110
124
142
150
152
153
165



4
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái qt về cơng trình nghiên cứu
Với tiêu đề: “Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay”, cơng trình nghiên cứu này
có tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của một số cơng trình khoa học đã
cơng bố ở nước ngồi, trong nước có liên quan và sử dụng các số liệu điều tra,
khảo sát của tác giả.
“Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay” là vấn đề nghiên cứu mới và phức tạp.
Vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu, làm rõ một số nội dung cơ bản của truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc với tư cách là những giá trị tiêu biểu cần kế thừa, phát triển trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kết cấu cơng trình gồm: Mở đầu, tổng quan vấn đề nghiên cứu, 3 chương (7
tiết), kết luận, danh mục các cơng trình của tác giả đã cơng bố có liên quan đến đề
tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Với dung lượng 3 chương (7
tiết), cơng trình đã triển khai làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất giải pháp kế
thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa hiện nay. Luận án là cơng trình nghiên cứu độc lập, khơng trùng
lặp với các cơng trình khoa học khác đã công bố.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam là hệ thống tri
thức, quan điểm lý luận quân sự đạt tới trình độ khái qt cao, có giá trị phổ
biến, là những vấn đề có tính quy luật về nghệ thuật tạo ra sức mạnh tổng hợp
của toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh để dựng nước và giữ nước qua hàng
nghìn năm lịch sử của dân tộc ta. Truyền thống đó đã được khẳng định trong lịch
sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc; được tích lũy, lưu truyền và không ngừng



5
bổ sung, phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành tài sản tinh thần vô
giá của dân tộc Việt Nam với những nét đặc trưng tiêu biểu: dựng nước đi đôi
với giữ nước, xây dựng gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc; cả nước chung sức đánh
giặc, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện; “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch
nhiều”; chăm lo bảo vệ Tổ quốc từ thời bình và nhân văn quân sự. Hiện nay, kế
thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc vẫn là phương châm cơ bản để
Đảng, Nhà nước, nhân dân và các lực lượng vũ trang nhân dân ta vận dụng sáng
tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước, các tầng lớp nhân dân và lực lượng vũ
trang đã nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn về truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc và kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tích cực kế thừa, vận dụng sáng tạo
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Qua đó, bổ sung, phát triển, làm sâu sắc hơn truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn
được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội được bảo đảm; thế trận
quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được củng cố; tiềm lực quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Tuy nhiên, trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên, nhân dân, lực lượng vũ trang về truyền thống và kế thừa truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cịn
chưa sâu sắc, có biểu hiện thờ ơ, thiếu quan tâm việc kế thừa truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc, nhất là một bộ phận thanh thiếu niên; chất lượng kế
thừa, vận dụng, bổ sung và phát triển truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc có những mặt, nội dung chưa tốt, chưa giải đáp kịp thời những vấn đề lý luận
và thực tiễn quân sự cấp thiết đang đặt ra, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.



6
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã và
đang đặt ra những yêu cầu mới đối với việc kế thừa truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những tác động cả tích cực và
tiêu cực của q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, nhất là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong lĩnh
vực qn sự, của cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đang đặt ra thời cơ, vận
hội và cả những thách thức mới đòi hỏi Đảng, Nhà nước, nhân dân và các lực
lượng vũ trang cần phân tích, đánh giá một cách khách quan, tồn diện nhằm
thực hiện có hiệu quả việc kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ những vấn đề trên cho
thấy: “Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay” vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài, vừa là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Góp phần nâng cao hiệu quả kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của
dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn
và đề xuất giải pháp kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Trong đó, tập trung nghiên
cứu, giải quyết năm vấn đề chủ yếu về truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc: dựng nước đi đôi với giữ nước, xây dựng gắn chặt với bảo vệ Tổ quốc; cả
nước chung sức đánh giặc, tiến hành chiến tranh tồn dân, tồn diện; “lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều”; chăm lo bảo vệ Tổ quốc từ thời bình và truyền
thống nhân văn quân sự. Đây cũng là cái trục xuyên suốt của đề tài luận án.



7
Thời gian nghiên cứu và sử dụng tài liệu phục vụ nghiên cứu của đề tài
chủ yếu từ năm 2002 đến nay. Đối tượng điều tra, khảo sát thực trạng chủ yếu
là cán bộ, chiến sĩ trong quân đội và đại diện các tầng lớp nhân dân ở ba miền
Bắc, Trung, Nam (chủ yếu là một số đơn vị, địa phương ở miền Bắc).
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đóng góp mới của đề tài:
- Làm rõ quan niệm, nội dung kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đánh giá đúng thực trạng, xác định những vấn đề đặt ra đối với việc kế
thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Đề xuất giải pháp kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận
án góp phần làm sâu sắc thêm lý luận - thực tiễn về kế thừa truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; tạo
ra sự thống nhất về nhận thức và hành động của chủ thể kế thừa, đồng thời góp
phần nâng cao hiệu quả kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Kết quả nghiên cứu
của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu,
giảng dạy và học tập lịch sử, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, giáo
dục quốc phòng, an ninh trong các nhà trường quân đội, các trường cao đẳng,
đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân và những người quan tâm về vấn đề
này.


8
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Các cơng trình khoa học đã cơng bố có liên quan đến đề tài luận án

1.1. Các cơng trình khoa học của nước ngồi
Các cơng trình khoa học nghiên cứu về bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Các cơng trình khoa học nghiên cứu về bảo vệ tổ quốc dưới dạng
những cuốn sách, tiêu biểu là: “Tư duy quân sự nước ngoài” của Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân [117]; “Một số điều chỉnh mới về an ninh, quốc phòng của Mỹ
sau sự kiện 11 - 9 - 2001” [14], “Chiến lược quân sự quốc gia Mỹ” [15] và “Chiến
lược quốc phòng Mỹ” [16] của Bộ Quốc phòng Mỹ; “Bản phác thảo về chiến lược
quân sự mới của Mỹ” của tác giả B. James và D. Goure [60]; “An ninh quốc tế
trong thời đại tồn cầu hóa” của tác giả Vương Dật Châu [18] đã phân tích, làm rõ
quá trình đổi mới tư duy bảo vệ tổ quốc; những tác động, ảnh hưởng của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự đến quá trình chuẩn bị
và tiến hành chiến tranh; đến củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội; nhấn
mạnh sự cần thiết phải điều chỉnh về mặt chiến lược quân sự, chiến lược quốc
phịng và an ninh; trên cơ sở đó, tập trung vào việc xây dựng “Chiến lược quân sự
quốc gia mới” hoặc “Chiến lược quốc phòng” để bảo vệ tổ quốc.
Các cơng trình khoa học nghiên cứu về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiêu
biểu là: “Xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu” của tác giả
M. V. Phrunde [85]; “Phép biện chứng và lĩnh vực quân sự hiện đại” của tác giả I.
A. Gruđinhin [52]; “Những vấn đề phương pháp luận của lý luận và thực tiễn quân
sự” của tác giả A. X. Gientop [51]; “Cuộc cách mạng về học thuyết quân sự của
Trung Quốc” của tác giả G. Munvenon và M. Phinhkenxten [78], v.v.. Các cơng
trình khoa học nêu trên đã phân tích, làm rõ bản chất q trình đổi mới tư duy bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; tác động, ảnh hưởng của q trình tồn cầu hóa, của
cuộc “cách mạng quân sự” đến nhận thức, tư duy của các chủ thể quân sự trong
quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh, trong hiện đại hóa nền quốc phòng,


9
hiện đại hóa vũ khí, trang bị và xây dựng quân đội, trong xây dựng kế hoạch và
chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các tác giả nhận định rằng, cách

mạng trong lĩnh vực quân sự đã và đang làm thay đổi một cách căn bản cách thức
tiến hành chiến tranh, phương thức tác chiến và tổ chức quân sự; tác động trực tiếp
đến sự thay đổi tư duy bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa về mặt chiến lược, chiến
dịch và chiến thuật; tác động to lớn đến sự thay đổi trong học thuyết quân sự, khoa
học và nghệ thuật qn sự.
Các cơng trình: “Chiến lược phịng thủ tích cực của Trung Quốc” của tác giả
Chu Phương Cầm [17]; “Chính sách quốc phịng của Trung Quốc” của tác giả Lý
Quang Kế [61]; “Chiến lược an ninh quốc gia Trung Quốc đầu thế kỷ XXI” của
tác giả Lưu Tĩnh Ba [3] đã phân tích, làm rõ quá trình đổi mới tư duy chiến lược
quân sự bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; xác định mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung
và phương thức tiến hành bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các tác giả cho
rằng, để thực hiện mục tiêu bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia và đối phó có hiệu quả với những cuộc chiến tranh bằng vũ
khí cơng nghệ cao thì các nước xã hội chủ nghĩa cần tập trung xây dựng “Chiến
lược phòng thủ”, “Chiến lược phát triển quốc phòng”, hoặc “Chiến lược an ninh
quốc gia”. Muốn vậy, phải ra sức “hiện đại hóa nền quốc phịng”; hiện đại hóa vũ
khí, trang bị và xây dựng các lực lượng vũ trang, nhất là xây dựng quân đội tinh
nhuệ; phát triển khoa học kỹ thuật quân sự và nghệ thuật quân sự; phát triển cơng
nghiệp quốc phịng hiện đại; kiện tồn và hồn thiện lực lượng dự bị động viên,
chuẩn bị cơ sở vật chất và tinh thần cho chiến tranh, v.v..
Các công trình khoa học nghiên cứu về truyền thống đánh giặc giữ nước,
kế thừa và phát triển truyền thống đánh giặc giữ nước trong bảo vệ tổ quốc, bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu là: “Bàn về chiến tranh” của tác giả C. Ph.
Claudơvit [22]; “Học thuyết quân sự” của tác giả Th. Arbonnean [2]; “Lịch sử
chiến tranh” của tác giả G. Parker [83]; “Lịch sử chiến tranh và nghệ thuật quân


10
sự” của tác giả I. K. Bagơramian [4]; “Lý thuyết quân sự Trung Hoa” của tác giả
Chen Ya Tien [104]. Nghiên cứu những cơng trình này cho thấy, các tác giả đã

bàn đến các vấn đề: truyền thống quân sự, truyền thống đánh giặc giữ nước, kế
thừa và phát triển truyền thống quân sự, truyền thống đánh giặc giữ nước trong
bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trong đó, hầu hết các tác giả
đã nhấn mạnh vai trị tích cực và “ưu thế” của truyền thống quân sự, truyền
thống đánh giặc giữ nước trong đổi mới tư duy bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, chỉ ra “sức ỳ” của việc kế thừa truyền thống quân sự, truyền
thống đánh giặc giữ nước và tác hại của nó đối với q trình đổi mới tư duy bảo
vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các tác giả cho rằng, đối với
những quốc gia, dân tộc ít xảy ra chiến tranh thì “sức ỳ” của truyền thống quân
sự, truyền thống đánh giặc giữ nước sẽ níu kéo, gây cản trở đến việc đổi mới tư
duy bảo vệ tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nên “truyền thống quân
sự ở đó cũng thay đổi chậm chạp”; ngược lại, ở những quốc gia, dân tộc thường
xuyên có chiến tranh xảy ra thì nhu cầu đổi mới tư duy bảo vệ tổ quốc và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trở nên mãnh liệt hơn, do đó, truyền thống quân sự ở
quốc gia, dân tộc đó thay đổi, phát triển nhanh chóng hơn.
Trong cơng trình “Lý thuyết qn sự Trung Hoa”, tác giả Chen Ya Tien đã
chứng minh rằng, “tính liên tục”, “tính kế thừa” của truyền thống quân sự,
truyền thống đánh giặc giữ nước không thể tách rời quá trình phát triển của mỗi
quốc gia, dân tộc, nhất là quá trình hình thành, phát triển của những tư tưởng,
lý thuyết, học thuyết quân sự, khoa học và nghệ thuật quân sự của mỗi nước.
Sự phát triển của những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết quân sự, khoa học và
nghệ thuật quân sự từ thời cổ đại cho đến ngày nay là một quá trình “phủ định
biện chứng”, là kết quả của sự “kế thừa có chọn lọc”, bổ sung, phát triển sáng
tạo những tư tưởng, lý thuyết, học thuyết quân sự, khoa học và nghệ thuật quân
sự truyền thống trong điều kiện lịch sử mới.


11
1.2. Các cơng trình khoa học ở trong nước

Các cơng trình khoa học nghiên cứu về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, tiêu biểu là những cuốn sách: “Đổi mới tư duy quân sự kiên trì chấp hành
và vận dụng sáng tạo đường lối quân sự của Đảng” của tác giả Lê Đức Anh [1];
“Một số vấn đề phương pháp luận triết học Mác - Lênin trong hoạt động quân
sự” của tác giả Trần Xuân Kiểm [64]; “Cách mạng trong quân sự và những vấn
đề đặt ra đối với quốc phòng Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đình Chiến [19],
v.v.. Trong các cơng trình này, hầu hết các tác giả đều cho rằng, cùng với công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước và dưới tác động của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ trong lĩnh vực quân sự hiện nay đã và đang đặt ra yêu cầu
khách quan phải đổi mới tư duy bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự
đổi mới đó bắt nguồn từ thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ hệ thống tư
tưởng - lý luận quân sự Việt Nam hiện đại, bao gồm lý luận về chiến lược quốc
phòng, chiến lược quân sự, chiến lược an ninh; lý luận về xây dựng nền quốc
phịng tồn dân và an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân
gắn với xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân; lý luận về sử dụng
phương thức vũ trang trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, nhất là trong
phịng, chống “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch;
phòng, chống “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Đổi mới tư
duy về quân sự, khoa học quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam; về xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật và
đổi mới trong huấn luyện, nhất là đào tạo cán bộ quân đội, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Các cuốn sách: “Quan điểm cơ bản bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” của
tác giả Đoàn Khuê [63]; “Quốc phịng, an ninh trong cơng cuộc đổi mới đất
nước” của tác giả Lê Khả Phiêu [84]; “Tăng cường sức mạnh quốc phòng dưới
ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng” của tác giả Phạm Văn Trà


12
[109]; “Về nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” của

tác giả Hồ Kiếm Việt [141]; “Nền quốc phịng tồn dân trong điều kiện tồn
cầu hố kinh tế hiện nay” [127] và “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ đổi mới” [131] của Viện Khoa học Xã hội Nhân văn qn sự - Bộ
Quốc phịng; “Quốc phịng tồn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và xây
dựng đất nước” của tác giả Lê Huy Hòa [56]; “Mấy vấn đề cơ bản về tăng
cường sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới” của tác giả Trần
Duy Hương [59]; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
thời kỳ mới” [99], “Quốc phòng - an ninh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” [100] và “Sự phát triển quan điểm lý luận bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa” [101] của tác giả Nguyễn Vĩnh Thắng; “Mối quan hệ
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong ý thức người dân Việt
Nam hiện nay” của tác giả Lê Minh Vụ, Trương Thành Trung, Nguyễn Bá
Dương [143]; “Học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng
của Đảng ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của tác giả Nguyễn
Bá Dương [143], v.v.. đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề quân sự, quốc phòng và an ninh; về
bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong đó, các tác giả tập trung
phân tích, làm rõ q trình phát triển nhận thức, tư duy lý luận chính trị, quân
sự; khái quát và làm sáng tỏ các quan niệm, quan điểm mới của Đảng, Nhà
nước ta về quân sự, quốc phòng và an ninh, về bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đến nay.
Các tác giả còn chỉ ra sự tác động của tình hình thế giới, khu vực sau khi Việt
Nam gia nhập ASEAN và WTO; sự tác động của tình hình trong nước; sự thay
đổi phương châm, chiến lược, âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt


13
Nam của các thế lực thù địch, nhất là những vấn đề mới về lý luận, thực tiễn

đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu, tìm lời giải đáp trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Các cuốn sách: “Quốc phòng Việt Nam trong quá trình đổi mới (1986 2005)” của tác giả Phùng Khắc Đăng [39]; “Tổng kết một số vấn đề lý luận thực tiễn qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc phòng (1991
- 2011)” của Đảng ủy Quân sự Trung ương [37] đã tổng kết thực tiễn - lý luận
quốc phòng Việt Nam qua 20 năm đổi mới đất nước và quá trình quán triệt, tổ
chức thực hiện Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội” về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa từ năm 1991 đến nay. Tổng kết thực tiễn - lý luận quốc phòng Việt Nam
qua 20 năm đổi mới đất nước, các tác giả đánh giá thành tựu lý luận - thực tiễn
trong lĩnh vực quốc phòng, những vấn đề đang đặt ra qua hơn 20 năm đổi mới
và triển vọng của nó trong thời kỳ mới. Thành tựu nổi bật là: tư duy mới về bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đổi mới về xây dựng nền quốc phịng
tồn dân và xây dựng lực lượng quốc phòng; phát triển lý luận về xây dựng thế
trận quốc phịng tồn dân; đổi mới cơ chế lãnh đạo, quản lý, điều hành công tác
qn sự, quốc phịng. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng tiếp tục đổi mới,
phát triển lý luận về quốc phịng, xây dựng nền quốc phịng tồn dân trong
những năm tới.
“Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm thực hiện Cương
lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc phòng (1991 - 2011)”, các tác giả tập trung phân
tích, làm rõ những nội dung về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, về
xây dựng nền quốc phịng tồn dân, về xây dựng lực lượng vũ trang và Quân
đội nhân dân, về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng, an ninh
với đối ngoại; đánh giá khái quát những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện Cương lĩnh năm 1991 về


14
nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, chỉ rõ những vấn
đề đặt ra cần bổ sung, phát triển trong Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát
triển năm 2011) về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; về xây dựng

nền quốc phịng tồn dân; về xây dựng lực lượng vũ trang và Quân đội nhân
dân; về kết hợp giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh, giữa quốc phòng, an ninh
với đối ngoại và ngược lại.
Các cơng trình khoa học nghiên cứu về truyền thống, truyền thống đánh
giặc giữ nước và kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Xung quanh vấn đề nghiên cứu
này có nhiều cơng trình khoa học đã cơng bố, tiêu biểu là: “Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam” của tác giả Trần Văn Giàu [50]; “Về giá trị
văn hoá tinh thần Việt Nam” của Viện Mác - Lênin và Tạp chí Cộng sản [140];
“Giá trị truyền thống trước những thách thức của tồn cầu hóa” của tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên [20]; “Một số vấn đề văn hóa Việt
Nam truyền thống và hiện đại” của tác giả Nguyễn Đăng Duy [28]; “Văn hóa và
phát triển trong bối cảnh tồn cầu hóa” của tác giả Nguyễn Văn Dân [23]; “Con
người Việt Nam, giá trị truyền thống và hiện đại” của tác giả Bùi Thanh Sơn và
Lê Thu Uyên [93]; “Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Duy Bắc [6], v.v..
Dưới góc độ đề tài, có cơng trình: “Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay” của tác giả Phan Huy Lê [67]. Trong các công trình khoa học
trên, các tác giả đã phân tích, làm rõ khái niệm truyền thống và những đặc trưng
cơ bản của truyền thống. Khi bàn về giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam,
tuy các tác giả có những quan niệm khác nhau nhưng đều thống nhất ở những
giá trị chủ yếu: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; tinh thần đoàn kết, cố kết cộng
đồng; tinh thần nhân ái, khoan dung và trọng nghĩa khí; tinh thần lao động cần
cù, sáng tạo; tinh thần hiếu học,…Trong đó, chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực
cao nhất của đạo lý Việt Nam, là tiêu chí chi phối mọi hành vi, cách ứng xử,
quan hệ giao tiếp của người dân Việt Nam; là tư tưởng chủ yếu, sợi chỉ đỏ xuyên


15
suốt lịch sử đấu tranh để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Các tác

giả cũng phân tích, làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của tồn cầu hóa,
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến truyền thống và các
giá trị truyền thống của dân tộc trên con đường phát triển, hội nhập; đặt ra yêu
cầu, đề xuất các giải pháp cơ bản để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa và các giá
trị truyền thống của dân tộc trong xu thế tồn cầu hóa, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong các cơng trình khoa học: “Tìm hiểu học thuyết quân sự Việt Nam”
của Viện Chiến lược quân sự - Bộ Quốc phòng [125]; “Phác thảo học thuyết
quân sự Việt Nam” [65] và “Tìm hiểu quan điểm giữ nước và sự hình thành học
thuyết quân sự Việt Nam” [66] của tác giả Bùi Phan Kỳ; “Tìm hiểu văn hoá giữ
nước Việt Nam” của Viện Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự - Bộ Quốc phòng
[128]; “Văn hoá quân sự Việt Nam” của tác giả Lê Văn Quang và Văn Đức
Thanh [86]; “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của tác giả Phan Ngọc [80]; “Nhân tố
văn hoá trong truyền thống quân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thế Vỵ [144];
“Lịch sử quân sự Việt Nam” của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc
phòng [136]; “Văn hóa quân sự một văn hóa độc đáo Việt Nam” của Nhà xuất
bản Quân đội nhân dân [124]; “Hệ giá trị văn hóa Thăng Long - Hà Nội trong
lịch sử giữ nước của dân tộc” của tác giả Nguyễn Văn Tài và Văn Đức Thanh
[94]; “Văn hóa giữ nước Việt Nam - những giá trị đặc trưng” của tác giả Vũ Như
Khơi [62], v.v.. Dưới góc độ luận án, đề tài khoa học, tiêu biểu có các cơng trình:
“Phát huy hệ giá trị văn hóa qn sự Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa hiện nay” của tác giả Dương Quang Hiển [55]; “Tư tưởng quốc
phòng Việt Nam” của tác giả Dương Quốc Dũng [26]. Nghiên cứu các cơng trình
trên, các tác giả đã phân tích, luận giải quan niệm về học thuyết quân sự, văn hoá
giữ nước và văn hoá quân sự Việt Nam; làm rõ quá trình hình thành, phát triển
của học thuyết quân sự, lịch sử quân sự Việt Nam, văn hoá giữ nước, văn hoá


16
quân sự và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam qua hàng

ngàn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước; làm rõ vai trò to lớn của văn hoá
giữ nước, văn hoá quân sự và truyền thống đánh giặc giữ nước đối với công cuộc
dựng nước và giữ nước của dân tộc; trong đó, truyền thống đánh giặc giữ nước
của dân tộc là nét nổi bật tiêu biểu của lịch sử Việt Nam và là nền tảng của mọi
thắng lợi quân sự, khi nào hoạt động quân sự theo đúng truyền thống dân tộc thì
thắng lợi, cịn nếu rời bỏ truyền thống dân tộc thì thất bại, nước mất nhà tan.
Các tác giả đều cho rằng, giá trị tiêu biểu của văn hóa giữ nước, văn hóa
quân sự và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam được thể
hiện tập trung ở “lòng yêu nước nồng nàn”, “ý thức cộng đồng, cố kết dân tộc”,
“tính nhân văn cao cả” và “nghệ thuật đánh giặc độc đáo”. Những giá trị tiêu
biểu ấy đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm,
giành và giữ vững nền độc lập dân tộc; là cơ sở để luận giải vấn đề vì sao Việt
Nam là một nước đất không rộng, người không đơng, tiềm lực kinh tế, qn sự,
quốc phịng có hạn mà lại đánh thắng những đội quân xâm lược nhà nghề, thiện
chiến. Các tác giả cịn phân tích, làm rõ những tác động của xu thế tồn cầu
hóa, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trong
lĩnh vực quân sự, tác động của tình hình trong nước đến văn hố giữ nước, văn
hố qn sự và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam; dự báo
xu hướng vận động, phát triển, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giữ gìn,
phát huy những giá trị của văn hố giữ nước, văn hoá quân sự, truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong các cơng trình khoa học: “Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc” của tác giả Võ Nguyên Giáp [49]; “Tìm hiểu tổ tiên ta đánh
giặc” của tác giả Hoàng Minh [72]; “Nghệ thuật quân sự Việt Nam cổ - trung đại”
của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng [133]; “Về chiến tranh nhân


17
dân Việt Nam” của tác giả Lê Duẩn [24]; “Nghệ thuật biết thắng từng bước” của

tác giả Trần Nhâm [81]; “Góp phần tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật qn sự Việt
Nam trong lịch sử giữ nước” của tác giả Hồ Đệ [40]; “Vấn đề thế trong nghệ thuật
quân sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Trình [113]; “Nghệ thuật lừa địch trong chiến
tranh” của tác giả Hoàng Đan [30]; “Nghệ thuật quân sự Việt Nam lý luận và thực
tiễn” của tác giả Văn Tiến Dũng [27]; “Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc
Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Sơn [92]; “Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong
chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc” của tác giả Hồng Minh Thảo [97]. Dưới
góc độ luận án, tiêu biểu có các cơng trình: “Mối quan hệ giữa chất và lượng trong
nghệ thuật “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều” của nghệ thuật quân sự Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Văn Thùy [103]; “Cơ sở triết học của quan điểm lấy nhỏ thắng
lớn, lấy ít địch nhiều trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh - lý luận và vận dụng” của
tác giả Vũ Văn Nhiên [82], v.v.. Nghiên cứu các cơng trình trên, các tác giả đã luận
giải quá trình hình thành, phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam gắn liền với
thực tiễn lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ khi ra đời đến nay,
nghệ thuật quân sự Việt Nam luôn kế thừa, phát triển những giá trị nghệ thuật quân
sự truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa nền nghệ thuật quân sự trên thế giới,
đồng thời bổ sung, phát triển những nội dung mới, làm cho nó phù hợp với thực tiễn
lịch sử Việt Nam qua từng thời kỳ, giai đoạn. Với tính cách là một bộ phận cấu thành
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc, nghệ thuật quân sự Việt Nam có nhiều
giá trị đặc sắc, độc đáo, hàm chứa những tư tưởng triết học quân sự sâu sắc và luôn là
một trong những nhân tố chính trị - tinh thần mang ý nghĩa quyết định thắng lợi trong
các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược.
Các cơng trình: “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng
lợi và bài học” [7], “Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi và
bài học” [8] và “Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975: thắng lợi và bài
học” [9] của Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị Ban chấp


18
hành Trung ương Đảng ta đã tiến hành tổng kết sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng

đối với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; rút
ra những bài học kinh nghiệm làm cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng
vũ trang tiếp tục kế thừa, vận dụng sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thông qua tổng kết, các tác giả khẳng định
rằng, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ
xâm lược, Đảng ta đã có nhiều “quyết định xuất sắc về chỉ đạo chiến lược”, đã
tìm ra cách đánh giặc độc đáo, khơng chỉ về nghệ thuật qn sự mà có cả những
vấn đề thuộc về phương thức tiến hành và kết thúc chiến tranh. Đó là sự vận
dụng sáng tạo những vấn đề có tính quy luật của đấu tranh cách mạng vào chiến
tranh nhân dân; kế thừa và phát triển những giá trị tiêu biểu trong truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc, tinh hoa quân sự của thế giới và vận dụng sáng
tạo học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, quân đội bảo vệ Tổ quốc; nhờ đó, đưa
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc nói chung và nghệ thuật quân sự
Việt Nam nói riêng phát triển đến đỉnh cao.
Ngồi ra, các cơng trình: “Tồn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” của tác giả Mai Thị
Quý [114]; “Kế thừa và phát triển trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay” của tác giả Bế Xuân Trường, Nguyễn Bá Dương [116]. Dưới góc độ
luận án, có các cơng trình: “Sự kế thừa và phát triển trong quá trình nhận thức phạm
trù “Quy luật” của tác giả Phạm Văn Đức [42]; “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo
đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Nguyễn Văn Lý [69]; “Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Võ Văn Thắng [102]; “Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thu Hằng [54], v.v.. đã
phân tích, làm rõ quan niệm về kế thừa và phát triển,...
2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết


19

Thơng qua tổng quan các cơng trình khoa học đã nghiên cứu ở nước
ngoài và trong nước, các tác giả đã làm rõ một số nội dung cơ bản có liên
quan đến đề tài luận án, tác giả cần kế thừa, phát triển như: quan niệm về
kế thừa, truyền thống; quan niệm về học thuyết quân sự, văn hóa giữ nước
và văn hóa quân sự Việt Nam; quan niệm về truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc, nhất là về nghệ thuật quân sự; quan niệm về vấn đề bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,... Trong đó, có những cơng trình
khoa học đã phân tích và làm nổi bật sự phát triển nhận thức, tư duy mới
của Đảng ta về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; phân tích, làm
rõ những tác động tích cực, tiêu cực của tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, của
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là khoa học và công nghệ
trong lĩnh vực quân sự, của tình hình trong nước tác động đến sự phát triển
tư duy bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đến truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc,... Ngoài những vấn đề nêu trên, liên quan đến
luận án của tác giả, các cơng trình nghiên cứu trên cịn có những nội dung
chưa được đề cập hoặc đã đề cập nhưng chưa đầy đủ, chưa sâu sắc. Đây là
những vấn đề đặt ra và là cơ sở để tác giả tiếp tục nghiên cứu, giải quyết,
làm sáng tỏ trong luận án.
3. Mục tiêu của đề tài
Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp cơ
bản kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
4. Nội dung nghiên cứu của đề tài
- Phân tích, luận giải quan niệm và nội dung kế thừa truyền thống đánh
giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


20
- Tiến hành khảo cứu, đánh giá thực trạng, xác định những vấn đề đặt ra
đối với việc kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trong bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản kế thừa truyền thống đánh giặc giữ
nước của dân tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời, sử dụng các phương pháp: lịch sử và
lơgíc, phân tích và tổng hợp, khái quát hoá và trừu tượng hoá, quy nạp và diễn
dịch, nghiên cứu tư liệu lịch sử và thu thập thông tin, điều tra xã hội học, so
sánh, đối chiếu, hệ thống - cấu trúc và phương pháp chuyên gia,… để làm sáng
tỏ vấn đề nghiên cứu.


21
Chương 1
QUAN NIỆM VÀ NỘI DUNG KẾ THỪA TRUYỀN THỐNG
ĐÁNH GIẶC GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC
VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Quan niệm về kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân
tộc trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Truyền thống và truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc
Khái niệm “truyền thống” được dùng trong tiếng Việt với nhiều nghĩa
khác nhau. Nhìn chung, người ta thường xem truyền thống như một thói quen
được lặp đi, lặp lại nhiều lần, ổn định, bền vững và được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Theo từ điển tiếng Việt, truyền thống là “thói quen hình thành
đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác” [121, tr. 1304]. Tiếp cận theo hướng này, có tác giả quan niệm: “Truyền
thống - đó là những yếu tố của di tồn văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực
hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của
một cộng đồng người được hình thành trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được
truyền từ đời này sang đời khác và được lưu giữ lâu dài” [20, tr. 9].

Tiếp cận truyền thống trên hai mặt tích cực và tiêu cực, quan niệm khác
cho rằng: “Truyền thống là những đức tính hay những thói tục kéo dài nhiều thế
hệ, nhiều thời kỳ lịch sử và hiện có nhiều tác dụng, tác dụng đó có thể tích cực,
cũng có thể tiêu cực” [51, tr. 50]. Ngồi ra, có quan niệm nhấn mạnh vai trị tác
động và sức mạnh của truyền thống trong quá trình phát triển của xã hội:
“Truyền thống là những hệ giá trị được hình thành nên từ thực tế cuộc sống sản
xuất và chiến đấu, sinh hoạt xã hội, của một cộng người, của một quốc gia qua
thời gian lịch sử. Dần dần những hệ giá trị đó trở nên bền vững, trở thành
những chuẩn mực xã hội để các thế hệ người trong quốc gia đó nối tiếp nhau
theo đó mà sinh sống, mà hành động” [6, tr. 263]; “Truyền thống là những gì ổn


22
định và bền vững in sâu vào tâm lý, tập quán từ thế hệ này sang thế hệ khác, có
sức mạnh tồn tại như một bản năng bẩm sinh thôi thúc từ bên trong con người
hành động, là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra
cái mới” [20, tr. 256].
Kế thừa các quan niệm nêu trên, tác giả cho rằng, truyền thống là tập hợp
những tư tưởng, tình cảm, những phong tục, tập qn, thói quen được hình thành
từ lâu đời, thể hiện trong tư duy, lối sống và ứng xử của một cộng đồng người nhất
định; có tính ổn định và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, truyền thống có các đặc trưng cơ bản sau.
Truyền thống được hình thành từ lâu đời trong lịch sử và được lưu truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Truyền thống khơng phải là cái bẩm sinh, có
sẵn, nó nảy sinh và phát triển trong những điều kiện, hồn cảnh lịch sử nhất
định. Do phải đối phó và thích nghi với những tác động của các yếu tố thường
xuyên đến cuộc sống của con người, những thói quen, phong tục, tập quán,
những tính cách, lối sống, cách ứng xử,… dần dần được định hình và phát triển
trong một cộng đồng người nhất định. Tuy truyền thống được bắt nguồn từ lịch
sử, nhưng không phải mọi thứ thuộc lịch sử đều là truyền thống và càng khơng

phải cái gì đã có trong quá khứ cũng trở thành truyền thống. Truyền thống được
hình thành từ lâu đời trong lịch sử và lặp đi, lặp lại; được chắt lọc qua thử thách
của thời gian và thực tiễn cuộc sống, được chọn lọc, nâng cao theo u cầu của
trình độ dân trí nhưng khơng xa rời cội nguồn sản sinh ra nó; được các thế hệ
người nối tiếp kế thừa, phát huy, làm phong phú thêm và được lưu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác.
Truyền thống mang tính ổn định và bền vững. Sau khi được hình thành,
truyền thống thường mang tính ổn định và bền vững. Nếu khơng có sự ổn định
và bền vững thì truyền thống trở nên vơ nghĩa. Tuy nhiên, sự ổn định và bền
vững đó chỉ là tương đối. Bởi vì, truyền thống khơng phải là cái “nhất thành bất


23
biến”, nó có thể thay đổi trong những điều kiện lịch sử nhất định. Chẳng hạn,
trong di sản truyền thống Việt Nam, tinh thần yêu nước là một trong những giá
trị truyền thống ổn định, bền vững và trường tồn, nhưng nội dung của nó cũng có
q trình hình thành, phát triển, biến đổi, nâng cao qua các thời kỳ lịch sử. Sở dĩ
có sự biến đổi trên là do cơ sở tạo nên truyền thống ít nhiều đã thay đổi; vì thế,
với tính cách ổn định tương đối, truyền thống đó vẫn được bảo tồn và lưu truyền
trong một thời điểm nhất định, nhưng luôn biến đổi cho phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh mới hoặc được thay thế bằng một truyền thống mới.
Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền thống là yếu tố đặc biệt quan
trọng của sự liên kết cộng đồng. Trong mỗi con người dù có ý thức tự giác hay
khơng thì đều mang trong mình những truyền thống của một cộng đồng người,
của một quốc gia, dân tộc nhất định và trong mỗi con người cịn có những
truyền thống riêng mang tính cá nhân. Truyền thống vừa mang tính cộng đồng,
vừa mang tính cá nhân không đối lập nhau mà tồn tại trong mối liên hệ biện
chứng, tác động, thâm nhập vào nhau, bổ sung và làm phong phú cho nhau.
Điều đó phản ánh tính thống nhất và tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của
truyền thống. Tuy nhiên, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, ở đây tác giả chỉ

nghiên cứu truyền thống của một cộng đồng người, của một quốc gia, dân tộc
nhất định, mà ở đó, mỗi cá nhân là một thành viên của cộng đồng, của quốc gia,
dân tộc. Chẳng hạn, nghiên cứu truyền thống Việt Nam, tức là nghiên cứu
truyền thống của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam, chứ không đi sâu nghiên
cứu truyền thống của một cá nhân hay truyền thống của một cộng đồng người
cụ thể. Bởi lẽ, trong truyền thống của dân tộc Việt Nam đã bao hàm trong nó
truyền thống của mỗi cá nhân và từng cộng đồng người.
Nghiên cứu truyền thống cần phân biệt sự khác nhau giữa truyền thống
với giá trị truyền thống. Tất nhiên, sự phân biệt này chỉ mang ý nghĩa tương
đối. Một mặt, truyền thống nói chung bao giờ cũng mang tính hai mặt: tốt và


24
xấu, hay và dở, tích cực và tiêu cực, tiến bộ và lạc hậu. Truyền thống cũng có
những tiềm lực to lớn bao gồm cả “sức đẩy và sức hút”, có tác dụng thúc đẩy
và có cả sự kìm hãm, níu kéo của cái cũ, lạc hậu. Nhưng khi nói đến giá trị
truyền thống là đã bao hàm sự gạn lọc, tuyển chọn và phân biệt, là những
truyền thống tốt đẹp mang ý nghĩa tích cực, tiến bộ và tiêu biểu cho bản sắc văn
hoá dân tộc. Mặt khác, truyền thống vốn là sản phẩm của cuộc sống, của lịch
sử, bản thân nó cũng có sự biến đổi và tuỳ theo quan điểm giá trị của các giai
cấp và thời đại khác nhau. Có những truyền thống, trong điều kiện lịch sử nhất
định, là tất nhiên và có ý nghĩa tích cực, tiến bộ, nhưng khi chuyển sang thời
đại khác thì khơng cịn phù hợp và trở nên thối hố, lạc hậu, bảo thủ, cản trở
sự phát triển. Theo quy luật phát triển tất yếu của lịch sử xã hội, những truyền
thống lỗi thời, lạc hậu sẽ bị phủ định và được thay thế bằng những truyền thống
tích cực, tiến bộ, có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Chỉ có phép biện
chứng duy vật về lịch sử mới giúp chúng ta nhận thức và luận giải một cách
đúng đắn, khoa học sự khác nhau giữa truyền thống và giá trị truyền thống.
Là một bộ phận cấu thành của truyền thống dân tộc, truyền thống đánh
giặc giữ nước có q trình hình thành, phát triển từ lâu đời, gắn với lịch sử

hàng nghìn năm đấu tranh để dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vì
vậy, nó mang đầy đủ những đặc trưng bản chất của truyền thống dân tộc. Tuy
nhiên, do tính chất đặc thù của lĩnh vực quân sự, quan niệm về truyền thống
đánh giặc giữ nước của dân tộc có những nét riêng. Theo đó, có thể tiếp cận
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc trên hai phương diện.
Phương diện giá trị, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc là tổng
thể những di sản tinh thần, tư tưởng của dân tộc về đánh giặc giữ nước, được hình
thành, phát triển từ lâu đời trong lịch sử; được hun đúc, thử thách và khẳng định
trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc; được tích lũy, lưu truyền và
không ngừng bổ sung, phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác, trở thành tài sản


×