Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề TRIẾT học lý LUẬN NHÂN THỨC và NGUYÊN tắc THỐNG NHẤT GIỮA lý LUẬN và NHẬN THỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.58 KB, 20 trang )

LÝ LUẬN NHÂN THỨC VÀ NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC - VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI
NHẬN THỨC

1.1. Bản chất của nhận thức
1.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
2. CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
CHÂN LÝ

2.1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng
2.2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
2.3. Vấn đề chân lý
3. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3.1. Cơ sở của nguyên tắc
3.2. Nội dung và yêu cầu của nguyên tắc
KẾT LUẬN

2
3
3
7
11
11
13
14


17
17
18
21


2
LỜI NÓI ĐẦU

Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ phận
quan trọng trong triết học Mác - Lênin, là học thuyết về khả năng nhận thức
của con người, về sự nảy sinh, phát triển cũng như con đường và phương
pháp nhận thức về chân lý, tiêu chuẩn chân lý… Chính vì vậy, việc nghiên
cứu lý luận nhận thức có ý nghĩa to lớn, không chỉ trang bị hệ thống tri thức
khoa học về nhận thức thế giới mà còn trang bị cho con người một công cụ
mạnh mẽ để cải tạo thế giới.
1. BẢN CHẤT CỦA NHẬN THỨC - VAI TRÒ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI
NHẬN THỨC

1.1. Bản chất của nhận thức

- Quan niệm ngoài mácxít về nhận thức
Trong lịch sử triết học, cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề “con người
có thể nhận thức được thế giới được hay không, cơ sở nền tảng của nhận thức
là gì” luôn diễn ra gay go, phức tạp giữa nhiều trường phái khác nhau.
Chủ nghĩa duy tâm do không thừa nhận thế giới vật chất tồn tại độc lập
với ý thức nên đã phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, hoặc
nếu thừa nhận thì cho đó chỉ là sự áp đặt, chi phối từ những lực lượng "siêu
nhiên" và kết quả nhận thức không phải sự phản ánh hiện thực khách quan.
Các nhà duy tâm khách quan, mặc dù không phủ nhận khả năng nhận

thức thế giới, song luôn coi nhận thức không phải là sự phản ánh hiện thực
khách quan mà chỉ là "tự nhận thức" của ý niệm. Hêghen (1770 - 1831) coi "ý
niệm tuyệt đối" là linh hồn của nhận thức khoa học chân chính; nhận thức của
con người là "ý niệm tuyệt đối tự nhận thức bản thân mình". Hêghen quy
"thực tiễn" vào hoạt động tinh thần; Hơn nữa, do chưa thoát khỏi lập trường
giai cấp nên ông đánh giá không đúng về thực tiễn, đặc biệt là vai trò của sản
xuất vật chất đối với sự phát triển xã hội.
Các nhà duy tâm chủ quan hoàn toàn không thừa nhận khách thể khi đề
cập đến nhận thức luận. Họ cho rằng, tất cả mọi cái đang tồn tại đều là "phức
hợp của cảm giác" của con người. Beccơli (1685-1753) cho rằng "tồn tại có
nghĩa là cảm giác được", đối tượng nhận thức và cảm giác chỉ là một. Tất cả
mọi cái đều từ cảm giác mà ra, và mọi sự vật đều là sự kết hợp của những cảm


3

giác chủ quan; không có chủ thể thì không có khách thể. Cũng như Beccơli,
nhà duy tâm chủ quan và nhà bất khả tri luận Hium (1711-1766) đã tuyệt đối
hoá vai trò của cảm giác. Theo ông, năng lực chủ quan là kim chỉ nam cho
cuộc sống, nhận thức chỉ là quá trình tâm lý xảy ra trong con người; thậm chí
mối liên hệ nhân quả cũng không phải là quy luật của tự nhiên mà chỉ là thói
quen tâm lý.
Những nhà bất khả tri luận khẳng định thế giới là không thể biết được; lý
trí con người có tính chất hạn chế và ngoài giới hạn của cảm giác, con người
không thể biết được gì. E.Cantơ cho rằng: Con người chỉ nhận thức được "hiện
tượng, còn "vật tự nó" thuộc về "siêu nghiệm" tuyệt đối không biết được,
không phải là đối tượng nhận thức, là cái đứng giữa chủ thể và "vật tự nó".
Chủ nghĩa duy vật trước Mác với các đại biểu như: Hêraclit, Đêmôcrit,
Bêcơn, Hôpxơ, đặc biệt là Phơbách, đã đấu tranh quyết liệt chống lại chủ nghĩa
duy tâm, cố gắng lý giải bản chất nhận thức trên lập trường duy vật. Họ thừa

nhận khả năng nhận thức của con người đối với thế giới và coi nhận thức là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Song, do hạn chế bởi điều
kiện xã hội và trình độ nhận thức nên những quan điểm triết học của họ còn
thiếu cơ sở khoa học, còn mang tính siêu hình, trực quan máy móc chưa phản
ánh đúng bản chất của nhận thức. Hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước
Mác là không đề cập vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, nên giải thích một
cách siêu hình mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức.
Như vậy, xung quanh vấn đề nhận thức đã được các trường phái triết
học luận giải ở nhiều góc độ khác nhau. Song, tất cả các quan niệm của các
trường phái triết học này chưa phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhận thức
trên cơ sở khoa học.
- Quan niệm duy vật biện chứng về bản chất nhận thức
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm, nguyên tắc nền tảng
khi trình bày lý luận nhận thức. C.Mác đã vạch ra khuyết điểm chủ yếu của
toàn bộ chủ nghĩa duy vật kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơbách là: “… sự vật,
hiện thực, cái có thể cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách
thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác


4

của con người, là thực tiễn, không được nhận thức về mặt chủ quan"1: Đồng
thời, ông phê phán chủ nghĩa duy tâm đã tuyệt đối hoá vấn đề tư duy, tuyệt đối
hoá "lực lượng tinh thần" ngoài con người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra
quan điểm đúng đắn về thực tiễn, vai trò của nó đối với nhận thức.Theo quan
điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng chủ nghĩa Mác - Lênin:
Nhận thức là sự thu nhận tri thức vào ý thức con người, đời sống xã hội
về bản chất là có tính thực tiễn; ý thức, nhận thức chỉ là sự phản ánh hiện thực
khách quan vào đầu óc con người…
V.I.Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng

thời phát triển sâu sắc lý luận về nhận thức và xác định nhận thức là bộ phận
cấu thành hệ thống triết học Mácxít hoàn chỉnh. Người viết: "nhận thức là sự
phản ánh giới tự nhiên bởi con người. Nhưng đó không phải là một phản ánh
đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh mà là một quá trình cả một chuỗi những sự
trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành các khái niêm, các quy luật…". "Nhận
thức là quá trình xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên…", "Nhận thức là sự
tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến khách thể…" 1. Trong tác phẩm
"chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán", V.I.Lênin kết luận:
1) Có những sự vật tồn tại độc lập với ý thức của chúng ta, độc lập với
cảm giác của chúng ta, ở ngoài chúng ta…
2) Dứt khoát là không có và không thể có bất kỳ sự khác biệt nào về
nguyên tắc giữa hiện tượng và vật tự nó. Chỉ có sự khác nhau giữa cái đã nhận
thức và cái chưa được nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn…".
3) Trong lý luận nhận thức, cũng như trong tất cả những lĩnh vực khác
của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng
nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẳn…”2.
Với các kết luận trên, V.I.Lênin đã chỉ ra những vấn đề bản chất của
nhận thức như: Đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan
của con người và biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức. Điều đó khẳng
định rõ tính thứ nhất của vạn vật và làm rõ vấn đề cơ bản của triết học trên lập
trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi khái quát về khả năng nhận
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập3, Nxb CTQG, Hà Nội 1985, tr. 9.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ M.1981, tr.207.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ M.1980, tr.117.
1



5

thức của con người đối với thế giới khách quan, V.I.Lênin đã phê phán sâu
sắc các quan điểm duy vật siêu hình, duy tâm, thuyết không thể biết.
Như vậy, nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con
người, là quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực
khách quan.
Bản chất nhận thức: Là quá trình phản ánh biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo thế giới khách quan vào óc người trên cơ sở thực tiễn.
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể
nhận thức. Chủ thể nhận thức không phải là người riêng lẻ, trừu tượng ngoài
xã hội, mà chính là những con người, những thành viên của những cộng đồng
xã hội nhất định. Với chủ quan của mình, chủ thể nhận thức đã tác động tích
cực tới khách thể, làm cho nó bộc lộ bản chất, quy luật và như vậy chủ thể
nhận thức đã tác động để nhận thức về khách thể. Quá trình nhận thức diễn ra
mang tính tích cực, chủ động, sáng tạo. Điều này được thể hiện ở sự nhận
thức có mục đích; sự phản ánh thông qua hoạt động thực tiễn; nội dung phản
ánh là do hiện thực khách quan quy định, nhưng sự phản ánh đó đã thông qua
lăng kính chủ quan của chủ thể, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”, là “cái vật chất được di chuyển vào óc người” nhưng đã được cải biến
ở trong đó. Để khắc phục những giới hạn của các giác quan, con người luôn
luôn chế tạo ra công cụ, “nối dài” các giác quan của mình để khám phá thế
giới - đây cũng là vấn đề căn bản thể hiện tính tích cực, chủ động sáng tạo của
quá trình nhận thức.
Nhận thức là một quá trình phản ánh biện chứng phức tạp của con
người đối với hiện thực khách quan, thông qua các giai đoạn và mối quan hệ
chặt chẽ giữa các giai đoạn. Theo V.I.Lênin: “Nhận thức là quá trình xâm
nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên vô cơ, để làm cho giới tự nhiên ấy chịu sự
chi phối của chủ thể và để khái quát (nhận thức cái chung trong các hiện
tượng của tự nhiên ấy)…”1. “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của

tư duy đến khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người
phải được hiểu không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không phải

1

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Bảng Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ M.1981, tr.206-207.


6

không vận động, không mâu thuẫn mà là quá trình trong vĩnh viễn của vận
động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết các mâu thuẫn đó”2.
Xuất phát từ sự vận động phong phú, phức tạp của thế giới vật chất cho
nên nhận thức của con người là quá trình biện chứng phức tạp, là quá trình
“vĩnh viễn của vận động” từ chưa hoàn thiện tới ngày càng hoàn thiện. Những
thành quả nhận thức của những thế hệ kế tiếp nhau đã làm cho tri thức của
nhân loại ngày càng phong phú, sâu sắc và đầy đủ hơn. Quá trình nhận thức
thế giới là kết quả tổng hợp tri thức của mỗi cá nhân, của các thế hệ kế tiếp
nhau và chịu sự chế ước của điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định. Con
người ngày càng nhận thức sâu sắc những thuộc tính và mối liên hệ mới của
thế giới. Song, con người không thể nhận thức được hết thế giới khách quan,
bởi vì nhận thức là “quá trình vô hạn của việc tìm ra những mặt mới, những
quan hệ mới”1, là “quá trình vô hạn của sự đi sâu nhận thức của con người về
các sự vật hiện tượng”2, đó là sự tiến gần mãi mãi và vô hạn của tư duy đến
khách thể, là quá trình xâm nhập của lý trí vào hiện thực, là quá trình không
ngừng làm phong phú trí tuệ của nhân loại bằng tri thức mới. Quá trình phản
ánh đó theo trình tự từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ hiện tượng
tới bản chất, từ bản chất kém sâu sắc tới bản chất sâu sắc hơn.
1.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
1.2.1. Phạm trù thực tiễn


Theo quan điểm mácxít: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất
có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên
và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật
chỉ hoạt động theo bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới
bên ngoài, thì con người, nhờ vào thực tiễn như hoạt động có mục đích, có
tính xã hội của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích
nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Trong
hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ vật chất tác động trực
tiếp vào những đối tượng làm cho chúng biến đổi theo những mục đích của
2

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Bảng Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ M.1981, tr.207-208.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Bảng Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ M.1981, tr. 240.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Bảng Tiếng Việt, Nxb Tiến bộ M.1981, tr. 240.
1


7

mình. Hoạt động này được thực hiện một cách khách quan và không ngừng
phát triển bởi con người qua các thời kì lịch sử. Vì vậy, thực tiễn bao giờ cũng
là hoạt động vật chất có mục đích và mang tính lịch sử xã hội. Hoạt động thực
tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức, ngày càng phong phú, song có ba hình
thức cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt
động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của
thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng những công cụ lao

động tác động giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều kiện thiết yếu
nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội là hoạt động của các tổ chức cộng đồng
người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để
thúc đẩy xã hội phát triển.
Thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn. Hoạt động
thực nghiệm khoa học là hoạt động mà con người tạo ra gần giống, giống
hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các quy
luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu góp phần cải tạo thực
tiễn. Hoạt động thực nghiệm khoa học ngày nay càng có vai trò quan trọng
trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong thời kì cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Mỗi hình thức hoạt động cơ bản của thực tiễn có chức năng quan trọng
riêng, song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau. Trong mối quan hệ đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản
nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác. Bởi vì, nó là hoạt
động tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đối với sự
sinh tồn và phát triển của con người và xã hội. Các hình thức hoạt động khác
suy cho cùng cũng xuất phát từ hoạt động sản xuất vật chất và phục vụ cho
hoạt động sản xuất vật chất của con người. Chính sự tác động qua lại lẫn nhau
của các hình thức hoạt động cơ bản đó làm cho thực tiễn vận động, phát triễn
không ngừng và ngày càng có vai trò quan trọng đối với nhận thức.
1.2.2. Vai trò thực tiễn đối với nhận thức


8

Quan niệm thực tiễn giữ vai trò cơ bản nhất trong việc xây dựng lý luận
về nhận thức của chủ nghĩa Mác. Điều này, trước hết được đi từ vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức: thực tiễn là cơ sở, mục đích, là động lực chủ yếu

và trực tiếp của nhận thức nói chung, trong đó có lý luận. V.I.Lênin nhấn
mạnh: “thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), không những của tính phổ biến,
mà cả của tính hiện thực trực tiếp”1.
Con người bắt đầu quan hệ với tự nhiên không phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn, chính trong quá trình thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức lý
luận của con người mới hình thành và phát triển. Hơn nữa, để đáp ứng nhu
cầu của mình con người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn, trong
quá trình đó con người biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển năng lực, trí
tuệ; theo đó, con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế giới, khám phá
những bí mật của thế giới, làm phong phú và sâu sắc hơn tri thức của mình.
Có thể nói, thông qua thực tiễn đã xuất hiện nhu cầu, nhiệm vụ, phương
hướng của nhận thức; xuất hiện nhu cầu tổng kết kinh nghiệm, tìm kiếm tri
thức, khái quát lý luận của con người và thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các
ngành khoa học.
Trên cơ sở thực tiễn, con người mới có khả năng trực tiếp tạo ra công
cụ, phương tiện phục vụ cho quá trình nhận thức, - hoạt động tinh thần không
thể có khả năng trực tiếp về vấn đề đó. Với hệ thống công cụ, phương tiện
ngày càng hiện đại giúp con người có khả năng nhận thức một cách nhanh
hơn, xa hơn, trong những điều kiện khó khăn phức tạp hơn, nhận thức ngày
một hiệu quả hơn.
Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới, buộc thế
giới phải bộc lộ những thuộc tính, những quy luật để con người có điều kiện,
khả năng nhận thức. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Thế giới bí ẩn sẽ hoàn toàn bí
ẩn với con người nếu không có sự tác động của con người vào đó. Sự tác
động của con người vào thế giới khách quan diễn ra một quá trình từ việc thu
thập những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành phân tích,
tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá… để phát triển thành lý luận. Không
có thực tiễn thì không có nhận thức; mọi tri thức dù trực tiếp hay gián tiếp,
1


V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1981, tr.230.


9

đối với người này hay người kia, thế hệ này hay thế hệ khác, dù ở giai đoạn
cảm tính hay lý tính xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện: thực tiễn là tiêu
chuẩn của chân lý. C.Mác viết: "vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đi tới chân lý khách quan hay không hoàn toàn không phải là vấn đề nhận
thức mà là vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng
minh chân lý"1. Và C.Mác còn khẳng định rằng: Nếu đứng ngoài thực tiễn mà
xem xét chân lý khách quan có phù hợp với tư duy con người hay không, thì
như thế là triết học kinh viện.
Thực tiễn luôn vận động, biến đổi không ngừng, do vậy chân lý cũng
thường xuyên bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn mới.
Ngày nay, để đảm bảo yêu cầu trước sự phát triển phong phú, phức tạp
của tri thức người ta có thể lấy "tiêu chuẩn lôgic", "tính không mâu thuẫn"
của tư duy… làm tiêu chuẩn của chân lý. Tuy nhiên, những cách kiểm nghiệm
này suy đến cùng đều phải trên cơ sở thực tiễn.
Qua phân tích vai trò to lớn của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chủ
thể hoạt động phải luôn quán triệt đúng đắn quan điểm thực tiễn. Trong nhận
thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu, đi sát thực
tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực
tiễn. Nếu xa rời thực tiễn dẫn tới các sai lầm của bệnh chủ quan, giáo điều,
quan liêu và chủ nghĩa xét lại.
Trong lĩnh vực quân sự, mọi hoạt động phải luôn gắn liền với thời gian,
không gian, điều kiện hoàn cảnh cụ thể gắn với thực tiễn chiến đấu, bảo đảm
chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, thực tiễn công tác chính trị, tư tưởng. Trong
các hình thức thực tiễn quân sự đó, thực tiễn chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu

là hình thức cơ bản nhất.
Thông qua hoạt động thực tiễn quân sự, các mối quan hệ, các thành
phần, các thuộc tính… trong lĩnh vực quân sự được bộc lộ, cung cấp cho chủ
thể quân sự những nhận biết để từ đó khái quát thành lý luận, đồng thời làm
cho chủ thể phát triển năng lực trí tuệ của mình. Thực tiễn quân sự luôn luôn
vận động biến đổi không ngừng, thường xuyên xuất hiện những đối tượng và
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập3, Nxb Sự thật, Hà Nội 1986, tr. 19-20.


10

tình huống mới buộc chủ thể phải nâng cao khả năng nhận thức đáp ứng yêu
cầu thực tiễn quân sự đặt ra. Thực tiễn quân sự còn có vai trò kiểm nghiệm
nhận thức và lý luận quân sự. Nhận thức quân sự qua kiểm nghiệm bằng thực
tiễn quân sự mới khẳng định được tính chân lý.
2. CON ĐƯỜNG BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CHÂN LÝ

2.1. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng

Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn ra phức tạp bao gồm nhiều
giai đoạn, trình độ, vòng khâu và các hình thức khác nhau. Tuỳ theo tính chất
sự nghiên cứu mà quá trình đó được phân chia thành các cấp độ khác nhau
như: nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhận thức kinh nghiệm và nhận
thức lý luận hay nhận thức thông thường và nhận thức khoa học. Tuy nhiên
biện chứng của quá trình nhận thức được hiểu theo nghĩa chung nhất như
Lênin đã chỉ ra: "từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân
lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan"1.

Trực quan sinh động (hay còn gọi nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu
của quá trình nhận thức, nó là cơ sở, tiền đề cho toàn bộ quá trình nhận thức.
Đó là giai đoạn mà chủ thể tiếp cận, phản ánh trực tiếp các đối tượng.
Phản ánh của giai đoạn nhận thức cảm tính thông qua các hình thức:
cảm giác, tri giác, biểu tượng.
Cảm giác là hình thức đầu tiên của quá trình nhận thức và là nguồn gốc
của mọi hiểu biết con người. Cảm giác là sự phản ánh từng mặt, từng thuộc
tính bên ngoài sự vật của từng giác quan con người (chẳng hạn như cảm giác
về màu sắc, mùi, vị, âm thanh, nhiệt độ…). Cảm giác là kết quả của sự tác
động vào các giác quan con người, là sự chuyển hoá năng lượng kích thích
bên ngoài thành yếu tố của ý thức.Cảm giác, theo Lênin, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Tri giác là sự tổng hợp nhiều cảm giác; nó đem lại hình ảnh hoàn
chỉnh hơn về sự vật. Tri giác nẩy sinh trên cơ sở cảm giác, là sự kết hợp các
cảm giác thành hình ảnh tương đối trọn vẹn về sự vật khi sự vật đó đang trực
1

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1981, tr.179.


11

tiếp tác động vào các giác quan của con người, là hình thức nhận thức cao
hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn cảm giác.
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Do Sự
tiếp xúc trực tiếp nhiều lần với sự vật sẽ để lại trong chúng ta những ấn tượng,
những hình ảnh về sự vật đó. Những ấn tượng, hình ảnh này đậm nét và sâu
sắc đến mức còn trong ký ức của chúng ta ngay cả khi sự vật không còn ở
trước mặt. Biểu tượng là "hình ảnh lưu trữ của tri giác", là hình thức chuyển
tiếp trung gian từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Hình thức cao

nhất của biểu tượng là sự tưởng tượng ; sự tưởng tượng đã mang tính chủ
động, sáng tạo. Tưởng tượng có vai trò rất to lớn trong hoạt động sáng tạo
khoa học và sáng tạo nghệ thuật.
Như vậy, cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức kế tiếp nhau
của giai đoạn nhận thức cảm tính, những hình thức này là tiền đề, là quá trình
tiến tới giai đoạn nhận thức cao hơn.
Tư duy trừu tượng (hay còn gọi là nhận thức lý tính) là giai đoạn tiếp
theo nhưng cao hơn về chất so với nhận thức cảm tính, nó phản ánh một cách
toàn diện, sâu sắc bản chất, quy luật bên trong của sự vật hiện tượng. Đây là
giai đoạn phản ánh gián tiếp, trừu tượng hiện thực khách quan, chủ thể không
trực tiếp với khách thể, mà chỉ dựa vào những tài liệu cảm tính để phân tích,
thông qua các thao tác tư duy để so sánh, tổng hợp, tìm ra cái chung, cái bản
chất và quy luật của khách thể. Giai đoạn tư duy trừu tượng của quá trình
nhận thức diễn ra qua các hình thức: khái niệm, phán đoán, suy luận.
Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay một lớp sự
vật. chẳng hạn các khái niệm “cái nhà”, “con người”, “giai cấp”...
Phán đoán là hình thức cơ bản của tư duy, nó liên kết các khái niệm lại
với nhau để khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó
của đối tượng.
Suy luận cũng là hình thức cơ bản của tư duy, liên kết các phán đoán lại
với nhau để rút ra tri thức mới. Khái niệm, phán đoán, suy luận là các hình


12

thức cơ bản kế tiếp nhau trong giai đoạn nhận thức lý tính có mối quan hệ
thống nhất với nhau.
Ví dụ: Từ 2 phán đoán tiền đề: “Mọi kim loại đều dẫn điện” và “sắt là

kim loại” đi đến một phán đoán mới làm kết luận “sắt dẫn điện”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức cảm tính
và nhận thức lý tính là hai giai đoạn khác nhau về chất, có đặc điểm và vai trò
khác nhau trong việc nhận thức sự vật khách quan. Nhận thức cảm tính là sự
phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động sự vật; còn nhận thức lý tính là phản ánh
gián tiếp, mang tính trừu tượng khái quát. Nhận thức cảm tính đem lại những
hình ảnh bề ngoài, chưa sâu sắc về sự vật; còn nhận thức lý tính phản ánh
được những mối liên hệ bên trong, bản chất, phổ biến, tất yếu của sự vật. Do
đó, nhận thức lý tính phản ánh sự vật sâu sắc hơn và đầy đủ hơn. Tuy nhiên,
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính lại thống nhất biện chứng với nhau,
liên hệ, tác động lẫn nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tách rời nhau.
Chúng đều cùng phản ánh thế giới vật chất. Nhận thức cảm tính là cơ sở của
nhận thức lý tính; không có nhận thức cảm tính thì không có nhận thức lý
tính. Trái lại, nhận thức cảm tính mà không có nhận thức lý tính thì không thể
nắm bắt được bản chất và quy luật của sự vật.
2.2. Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn

Tư duy trừu tượng trở về thực tiễn thông qua việc tham gia vào mọi
hình thức của thực tiễn, định ra mục đích, nhiệm vụ, phương hướng cho hoạt
động thực tiễn. Từ đó nhận thức được kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển.
Những tri thức lý luận được kiểm nghiệm đúng sẽ trở thành chân lý, tri thức
sai lầm hoặc không phù hợp sẽ bị loại bỏ, tri thức mới phù hợp thực tiễn sẽ
được bổ sung phát triển. Mặt khác, tư duy trừu tượng phản ánh gián tiếp sự
vật, nó phản ánh bản chất bên trong sự vật, quy luật vận động, phát triển của
sự vật nên chưa thể khẳng định ngay tri thức đó đã đạt đến chân lý hay chưa,
nó phải được kiểm nghiệm qua thực tiễn. Chỉ có trở về thực tiễn thì tri thức
mới được xác nhận là chân lý hay sai lầm. Ở đây thực tiễn đóng vai trò tiêu
chuẩn kiểm tra chân lý. Trở về thực tiễn, tư duy trừu tượng phát huy chức
năng chỉ đạo thực tiễn, vì nhận thức không dừng lại ở hiểu biết mà còn là kim
chỉ nam cho hành động cải tạo khách thể, cho hoạt động thực tiễn. Từ nhận



13

thức đến thực tiễn là khâu rất quan trọng và không thể thiếu được trong quá
trình phản ánh thế giới. Cũng thông qua thực tiễn sẽ đặt ra những vấn đề tiếp
tục phải giải quyết về mặt lý luận.
Từ nhận thức lý tính trở về thực tiễn là một công việc khó khăn, đòi hỏi
phải qua bước nhảy với ý chí, quyết tâm cao và có năng lực tổ chức hoạt động
thực tiễn của con người.
Như vậy, các yếu tố nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính và thực tiễn
là quá trình vô tận của nhận thức. Đó là quá trình quanh co theo những chu kỳ
kế tiếp nhau, chu kỳ sau cao hơn chu kỳ trước; là quá trình con người mãi mãi
tiến gần tới khách thể, cho nên phải luôn chống chủ nghĩa duy cảm và chủ
nghĩa duy lý trong quá trình nhận thức.
Hoạt động quân sự là lĩnh vực xã hội đặc thù, sự nguy hiểm và ác liệt
nhất, thể hiện quan hệ giữa người với người trong sử dụng công cụ bạo lực vũ
trang, nó ảnh hưởng lớn và toàn diện tới mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó,
hoạt động trong lĩnh vực quân sự luôn đòi hỏi cao hơn bất cứ lĩnh vực nào về
sự vận dụng sáng tạo giữa nhận thức và thực tiễn. Mỗi thành viên trong lĩnh
vực quân sự, đặc biệt là đội ngũ sĩ quan chỉ huy cấp phân đội và các cơ quan
trong lĩnh vực quân sự phải biết vận dụng sáng tạo những nguyên tắc, lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn quân sự. Đồng thời phải nâng cao
khả năng xem xét, nắm bắt thực tiễn để thường xuyên đúc rút kinh nghiệm,
tổng kết, khái quát về lý luận.
Người cán bộ phân đội trực tiếp tổ chức chỉ huy các hoạt động quân sự,
chiến đấu, công tác phải luôn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong nhận
thức hoạt động quân sự, có khả năng nhận thức nhanh nhạy trong mọi điều kiện,
tình huống đặc biệt, không ngừng sáng tạo giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra.
2.3. Vấn đề chân lý


Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm. Như vậy, chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức
về thế giới của con người, nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước,
phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn
và hoạt động nhận thức của con người. V.I.Lênin đã nhận xét: "sự phù hợp
giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên


14

hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình
ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động"1.
Các tính chất của chân lý: Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính
tuyệt đối và tính tương đối, tính cụ thể.
Tính khách quan của chân lý (hay chân lý là khách quan) nói lên nội
dung của nó do hiện thực khách quan quy định không phụ thuộc vào ý thức
con người. Ví dụ, luận điểm của khoa học khẳng định “quả đất có trước con
người và loài người”. Như vậy nội dung của những tri thức đúng đắn không
phải là sản phẩm thuần tuý chủ quan, không phải là sự xác lập tuỳ tiện của
con người hoặc có sẵn trong nhận thức mà nội dung đó thuộc về thế giới
khách quan, do thế giới khách quan quy định. Đối với một khách thể nhất
định có thể có nhiều người phản ánh, nhưng chỉ có kết quả phản ánh nào được
thực tiễn kiểm nghiệm đúng thì đó mới là chân lý. “Là người duy vật, có
nghĩa là thừa nhận chân lý khách quan" 1. Điều này hoàn toàn đối lập với chủ
nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật siêu hình và thuyết không thể biết. Chủ
nghĩa duy tâm muốn phủ định tính khách quan của chân lý. Họ gắn chân lý
với "tinh thần vũ trụ", hoặc với "cảm nghĩ chủ quan", hoặc đồng nhất giữa
những tín điều tôn giáo với chân lý. Chủ nghĩa duy vật siêu hình lại coi chân
lý như một cái gì đó có sẵn, bất biến, Đuyrinh coi chân lý là cái vĩnh viễn

tuyệt đỉnh cuối cùng.
Lênin cho rằng: là người duy vật "vì chúng ta thừa nhận một nguồn gốc
khách quan, độc lập với con người, của cảm giác của chúng ta” 2. Vì vậy,
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực
khách quan, hoạt động theo quy luật khách quan, chống chủ quan duy ý chí.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Tính tuyệt đối và tương đối của
chân lý là do tính tuyệt đối và tương đối của nhận thức quy định. Ph.Ăngghen
viết: "tư duy của con người vừa tối cao, vừa không tối cao và năng khiếu nhận
thức của con người vừa vô hạn vừa có hạn. Xét theo bản tính, sứ mệnh, khả
năng và mục đích cuối cùng của nó thì tư duy của người là tối cao và vô hạn,

1

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Máccơ va, 1981, tr.209.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1981, tr. 207.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1980, tr .155.
1


15

xét theo sự thực hiện cá biệt và theo thời gian hoạt động nhất định nào đó thì
tư duy của con người là không tối cao và có hạn".
Chân lý tương đối là những tri thức đúng nhưng chưa đầy đủ, chưa
hoàn thiện, tri thức đó cần tiếp tục bổ sung hoàn thiện làm cho nhận thức
ngày càng sâu sắc hơn. Chân lý có tính tương đối được quy định bởi khả năng
nhận thức của từng con người, từng thế hệ cụ thể, cho nên trong những điều
kiện lịch sử - xã hội nhất định không thể nhận thức được toàn bộ thế giới. Qua
các thế hệ, các giai đoạn lịch sử kế tiếp, không có cái gì con người không

nhận thức được, chỉ có cái con người chưa nhận thức được mà thôi. Tính
tuyệt đối của chân lý được thể hiện trong một phạm vi những giới hạn nhất
định. Tri thức đó hoàn toàn đúng không ai có thể bãi bỏ được.
Chân lý tuyệt đối là tổng số những chân lý tương đối, mỗi chân lý
tương đối là những nấc thang trên con đường nhận thức chân lý tuyệt đối.
V.I.Lênin viết: "theo bản chất của nó, tư duy của con người có thể cung cấp
và đang cung cấp cho chúng ta chân lý tuyệt đối mà chân lý này chỉ là tổng số
những chân lý tương đối. Mỗi giai đoạn phát triển của khoa học lại đem thêm
những hạt mới vào cái tổng số ấy của chân lý tuyệt đối"…"chân lý tuyệt đối
được cấu thành từ tổng số những chân lý tương đối". Ngược lại mỗi chân lý
tương đối đều chứa đựng những yếu tố, thành phần, bộ phận của chân lý tuyệt
đối, những thành phần này phù hợp với điều kiện lịch sử nhất định mà sau
này không ai bác bỏ. V.I.Lênin viết: "…mỗi chân lý khoa học dù là có tính
tương đối vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối" 1. Và chân lý tuyệt
đối khác nhau về phạm vi và khả năng phản ánh, khác nhau về mức độ hoàn
thiện song chúng đều là chân lý khách quan và có mối quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau. Điều đó biểu hiện mối quan hệ giữa quá trình nhận thức
vô tận thế giới khách quan với quá trình nhận thức cái riêng lẻ, cụ thể có hạn
của từng cá nhân, từng thế hệ trong điều kiện lịch sử - xã hội nhất định.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương
đối và tính tuyệt đối của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và
khắc phục những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường
điệu hoá tính tuyệt đối của chân lý, hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào
1

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1980, tr. 185.


16


quan điểm siêu hình, chủ quan, giáo điều, bệnh bảo thủ trì trệ. Ngược lại, nếu
tuyệt đối hóa tính tương đối của chân lý, hạ thấp vai trò của tính tuyệt đối sẽ
rơi vào chủ nghĩa tương đối, sẽ “… phủ định mọi tiêu chuẩn, mọi mẫu mực
khách quan, tồn tại không phụ thuộc vào loài người, những tiêu chuẩn và mẫu
mực mà nhận thức tương đối của chúng ta ngày một tiến gần" 1. Từ đó dẫn tới
chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và
thuyết không thể biết.
Tính cụ thể của chân lý: Chân lý đạt được trong quá trình nhận thức
bao giờ cũng gắn với nội dung cụ thể của hiện thực và được phát triển trong
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đó. V.I.Lênin đã khẳng định: "Không có
chân lý trừu tượng", "rằng chân lý luôn luôn là cụ thể".
Chân lý có tính cụ thể vì nội dung phản ánh của chân lý bao giờ cũng
gắn với đối tượng nhất định, diễn ra trong không gian, thời gian hay một hoàn
cảnh nào đó trong mối liên hệ, quan hệ cụ thể.
Tính chất cụ thể của chân lý có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng
trong nhận thức và thực tiễn. Nguyên lý này đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử
cụ thể khi xem xét, đánh giá mọi sự vật hiện tượng, phải xuất phát từ những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà vận dụng những nguyên lý chung cho phù hợp.
Như vậy, mỗi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt
đối và tính cụ thể. Các tính chất đó của chân lý có quan hệ chặt chẽ với nhau
trong một tổng thể thống nhất, thiếu một trong các tính chất đó thì các tri thức
đạt được trong nhận thức không thể có giá trị với lịch sử, xã hội và con người.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, từ tổng kết
thực tiễn của 20 năm đổi mới, Đảng ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm
lãnh đạo quản lý, và rút ra một số bài học lớn sau đây: “Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”2.
3. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3.1. Cơ sở của nguyên tắc


Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản
ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
1

. V.I.Lênin :Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1981, tr. 207.
. Đảng Cộng sản Việt Nam: V ăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG H.70.

2


17

Thực tiễn là cơ sở, động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực
tiễn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được vận
dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa phương pháp luận to lớn, đặc
biệt là đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
V.I.Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng” và “ chỉ một đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn
thì mới có thể làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”1.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của
loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong
quá trình lịch sử”2. Hồ Chí Minh là người rất chú trọng gắn lý luận với thực
tiễn. Người cho rằng: Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính
chất sáng tạo; lý luận luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra
từ trong thực tiễn sinh động.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối quan hệ giữa
con người với thế giới khách quan. Con người luôn tác động tích cực vào thế

giới khách quan tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách quan bằng thực
tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người và sự biến đổi
thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự thống nhất
biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của cá nhân và
cộng đồng.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa phương
pháp luận to lớn, đặc biệt là đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
3.2. Nội dung và Yêu cầu của nguyên tắc

Thực tiễn và lý luận là hai mặt hoạt động của con người, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau, xâm nhập và tạo
điều kiện cho nhau cùng phát triển. Trong sự thống nhất ấy vai trò của lý luận
và thực tiễn không ngang bằng nhau. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn,
phản ánh được yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của
1

. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Máccơ va, 1977, tr. 30.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, Tập 8, Tr 497.

2


18

thực tiễn. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo, khi vận dụng lý luận
phải phù hợp với điều kiện lịch sử - cụ thể. Khắc phục bệnh kinh nghiệm,
bệnh giáo điều.
Nắm vững nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chúng ta
cần chú ý luôn đem những vấn đề lý luận để đối chiếu với thực tiễn. Làm như
vậy, để tránh căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, tránh cho lý luận xa rời thực

tế. Bản thân lý luận được đúc kết từ thực tiễn, nhưng nó phải luôn luôn được
sống động, vận động không ngừng. Đây là một quá trình phát triển biện
chứng, làm cho lý luận ngày càng được sinh động, và đúng đắn hơn, đồng
thời làm cho thực tiễn phát triển đúng hướng hơn, phù hợp với quy luật phát
triển của xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ
sở tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới, phân tích đánh giá tình hình và triển
vọng của đất nước. Đảng ta luôn vận dụng đúng đắn sáng tạo lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đảng ta tiếp tục khẳng định có được thành tựu của 20 năm đổi mới trước hết
do đường lối đổi mới của Đảng đúng đắn, phù hợp với thực tiễn cách mạng
nước ta. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Hai mươi
năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử… Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng
đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam”1.
Trong quá trình đổi mới phải: “Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ
sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt
ra”2. Đặc biệt, trong phát triển khoa học xã hội đến năm 2010, Đảng ta xác
định phải: “Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận; dự báo tình
hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước, cung cấp luận
cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước”3, tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng, tăng
cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: V ăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần th ứ X, Nxb CTQG H, tr.70.
Đảng Cộng sản Việt Nam: V ăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần th ứ X, Nxb CTQG H, tr.80.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: V ăn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần th ứ X, Nxb CTQG H, tr.74.
2



19

Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ và phức tạp đòi hỏi lý luận phải đi
sâu nghiên cứu để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn cách mạng nước ta
đặt ra. Chẳng hạn, đó là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về kinh tế thị trường;
về đổi mới hệ thống chính trị, thời đại ngày nay… Qua việc làm sáng tỏ
những vấn đề do thực tiễn đặt ra trên đây, lý luận sẽ có được vai trò quan
trọng, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Việc quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc đấu tranh khắc phục bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều..
Thực tiễn hoạt động quân sự đòi hỏi phải vận dụng nắm chắc bản chất
lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng
vào thực hiện mọi nhiệm vụ của quân đội, đơn vị. Quản lý bộ đội phải bám
sát thực tiễn đơn vị, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của Quân đội trong tình
hình mới. Giáo dục bộ đội phải xuất phát từ thực tiễn đơn vị (học đi đôi với
hành). Nhà trường gắn liền với chiến trường. Nắm vững mối quan hệ thống
nhất giữa lý luận vào thực tiễn quân sự, đây là sự thống nhất trong mâu thuẫn,
thống nhất khi lý luận phản ánh đúng thực tiễn, mâu thuẫn khi phản ánh
không đúng thực tiễn. Cán bộ cấp phân đội phải luôn coi trọng lấy thực tiễn
quân sự là cơ sở, động lực, mục đích, tiêu chuẩn cho lý luận quân sự; đồng
thời coi trọng lấy lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời sĩ quan chỉ
huy phải có tri thức lý luận cao vừa phải có kinh nghiệm nhanh nhạy trong
nắm bắt thực tiễn.
KẾT LUẬN


Lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là một nội dung
quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin và triết học Mác – Lênin, nó chỉ ra bản
chất nhận thức, qui luật nhận thức hoàn toàn khoa học. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã kế thừa những thành tựu về khoa học, kỹ thuật và thực tiễn xã hội để xây
dựng nên lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, giải quyết mặt
thứ hai vấn đề cơ bản của triết học. Qua đó có một hệ thống phương pháp


20

nhận thức về sự vật, hiện tượng, các phương pháp đó có mối quan hệ biện
chứng bổ sung cho nhau trong quá trình nhận thức. Giúp con người nhận thức
và cải tạo hiện thực ngày càng tốt hơn.



×