Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHUYÊN đề TRIẾT học và VAI TRÒ của nó TRONG đời SỐNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.88 KB, 11 trang )

TRIẾT HỌC VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

3

1.1. Triết học là gì

3

1.2. Vấn đề cơ bản của triết học

4

1.3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình

6

2. ĐỐI TƯỢNG, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

7

2.1. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin


7

2.2. Đặc điểm triết học Mác - Lênin

7

2.3. Vai trò của triết học Mác - Lênin

8

2.4. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của mơn học

10

KẾT LUẬN

12
LỜI NĨI ĐẦU

Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa
Mác - Lênin, do C.Mác - Ph.Ăngghen sáng lập và V.I.Lênin là người kế thừa,
bảo vệ và phát triển trong giai đoạn mới - giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát
triển thành chủ nghĩa đế quốc. Triết học Mác – Lênin là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới, vũ khí lý luận
của giai cấp cơng nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp
bức bóc lột.
1. TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC

1.1. Triết học là gì


Triết học ra đời khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI tr. CN gắn liền với
những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ
và Hy Lạp.


2
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan điểm, quan niệm
khác nhau về triết học. Ở phương Đông, theo quan niệm của người Trung
Quốc cổ đại, thuật ngữ “triết học” được hiểu là toàn bộ sự hiểu biết của con
người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người. Ở phương Tây, thuật
ngữ “triết học” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại “philosophia” nghĩa là u
thích sự thơng thái. Như vậy, ngay từ đầu thuật ngữ “triết học” được hiểu là
toàn bộ sự hiểu biết của con người, là hình thái cao nhất của tri thức, là “khoa
học của các khoa học”.
Trong suốt "đêm dài trung cổ" ở Châu Âu, triết học phát triển một cách
khó khăn trong mơi trường hết sức chật hẹp, nó khơng phải là một khoa học
độc lập mà chỉ là một bộ phận của thần học, nền triết học “tự nhiên” thời kỳ
cổ đại bị thay bởi triết học kinh viện. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào
thế kỷ XV - XVI đã tạo ra một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng
triết học. Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập, chuyên ngành từng
bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trị "khoa học của
các khoa học". Triết học Hêghen là học thuyết cuối cùng mang tham vọng đó.
Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định
Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý
luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Sự
khẳng định này được xuất phát từ nhu cầu cuộc sống và quá trình lao động
sản xuất, con người trong cuộc sống ln tìm hiểu về thế giới xung quanh
mình và hình thành nên những quan niệm về thế giới. Các khoa học khác
cũng cung cấp cho con người những quan niệm về thế giới nhưng đó mới là

những quan niệm, những hiểu biết từng mặt, từng lĩnh vực cụ thể của thế giới.
Trái lại, triết học cung cấp cho con người những hiểu biết về thế giới một
cách tồn diện, có hệ thống và bao quát nhất. Vì vậy, triết học là khoa học giữ
vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan của con người, từ đó định hướng
cho con người nhận thức và hành động theo một xu hướng nhất định.
Sự ra đời của triết học gắn liền với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định trong lịch sử. Trong xã hội có giai cấp triết học mang tính giai cấp, bởi xét
đến cùng, triết học là vũ khí lý luận của một giai cấp nhất định trong nhận thức
và cải tạo thế giới. Mỗi giai cấp trong xã hội vì lợi ích của giai cấp mình ln


3
luôn nắm lấy và củng cố một trào lưu triết học nhất định làm vũ khí tinh thần
định hướng cho nhận thức và hành động của giai cấp đó.
1.2. Vấn đề cơ bản của triết học

Ph.Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt
là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”1.
Nói cách khác, vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay giữa ý
thức và vật chất là vấn đề cơ bản của triết học. Việc giải quyết vấn đề này là
cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học và là tiêu
chuẩn để phân định lập trường của các triết gia và các trường phái trong lịch
sử triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và
cái nào quyết định?
Tùy vào cách trả lời mà triết học được phân chia thành hai trường phái:
Nếu khẳng định ý thức có trước, ý thức sinh ra vật chất và quyết định vật chất
đó là trường phái triết học duy tâm (chủ nghĩa duy tâm). Trong lịch sử phát
triển, chủ nghĩa duy tâm đã tồn tại hai hình thức cơ bản đó là chủ nghĩa duy

tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Chủ nghĩa duy tâm khách
quan cho rằng: có một thế giới tồn tại đâu đó ngồi thế giới vật chất, có trước
thế giới vật chất, là bản nguyên đầu tiên sinh ra thế giới vật chất, thế giới vật
chất là cái có sau, cái bóng của một thế giới khác, thế giới “ý niệm” hay tinh
thần tuyệt đối, chúa, thượng đế… Với chủ nghĩa duy tâm chủ quan thì tất cả
mọi thứ (kể cả thế giới vật chất và con người) đều do cảm giác của con người
sinh ra, còn các sự vật, hiện tượng bên ngồi chỉ là phức hợp của các cảm giác
mà thơi.
Nếu khẳng định vật chất có trước, sinh ra ý thức và quyết định ý thức
đó là trường phái duy vật (chủ nghĩa duy vật). Chủ nghĩa duy vật đã phát triển
qua ba hình thức cơ bản:
Hình thức lịch sử đầu tiên của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
chất phác, ngây thơ thời cổ đại. Do trình độ khoa học, trình độ nhận thức của
con người trong thời kỳ này chưa phát triển, nên các nhà triết học duy vật thời
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 21, Nxb. CTQG, H, 1995.tr. 403.


4
cổ đại giải thích thế giới dựa trên sự quan sát trực tiếp, mang tính trực quan
các hiện tượng, quá trình xảy ra trong thế giới. Các quan điểm của chủ nghĩa
duy vật thời kỳ này nhìn chung là đúng nhưng cịn mang nặng tính phỏng
đốn thơ ngây, chất phác. Nhưng dù sao, với những phỏng đoán thiên tài ấy
họ đã đưa lại cho con người bức tranh chung, đầu tiên về thế giới.
Hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật
máy móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII. Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật
siêu hình gắn liền với sự phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên thế kỷ XVII
– XVIII, đặc biệt là cơ học. Phương pháp tư duy máy móc trong lĩnh vực
khoa học tự nhiên đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của khoa học thời

kỳ này. Nhưng khi được đưa vào triết học và coi đó là phương pháp tư duy
của triết học đã khiến các nhà duy vật máy móc xem giới tự nhiên và con
người như những hệ thống máy móc phức tạp khác nhau mà thơi. Vì thế xét
về mặt triết học, phương pháp tư duy siêu hình là một bước vận động thụt lùi
của triết học.
Quá trình khắc phục các thiếu sót máy móc, siêu hình và duy tâm khi
xem xét các hiện tượng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII
cũng đồng thời là quá trình ra đời hình thức thứ ba của chủ nghĩa duy vật – đó
là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng
gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin.
Ngồi các hình thức cơ bản trên đây, trong lịch sử phát triển của chủ
nghĩa duy vật cịn có những dạng tồn tại khác như: chủ nghĩa duy vật tầm
thường; chủ nghĩa duy vật kinh tế vào cuối thế kỷ XIX phản ánh sự bế tắc của
các nhà tư tưởng trước những chuyển biến phức tạp của lịch sử.
Ngoài hai trường phái triết học duy vật và triết học duy tâm, trong lịch
sử còn tồn tại quan điểm cho rằng vật chất và ý thức song song tồn tại, khơng
có cái nào quyết định cái nào. Đây là phái nhị nguyên luận trong triết học,
biểu hiện sự dao động lập trường của các nhà triết học, trên thực tế có ảnh
hưởng rất ít đến triết học cũng như trong đời sống xã hội và cuối cùng cũng
đều rơi vào chủ nghĩa duy tâm mà thôi.


5
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
Tùy thuộc vào cách trả lời mà triết học được chia thành hai khuynh hướng:
khả tri (có thể nhận thức) và bất khả tri (không thể nhận thức).
Nếu khẳng định con người có thể nhận thức được thế giới, đó là q
trình con người phản ánh thế giới vào bộ não của mình diễn ra trong đời sống
hoạt động cải tạo thực tiễn. Sự hiểu biết đó là q trình từ biết ít đến biết
nhiều, từ thấp đến cao và ngày càng sâu sắc về thế giới. Đó là những người

thuộc khuynh hướng khả tri.
Nếu phủ nhận khả năng nhận thức của con người, hoặc cho rằng nhận
thức của con người là do một lực lượng siêu nhiên như Chúa, Thượng đế,
thần thánh ban phát cho chứ không phải là kết quả hoạt động thực tiễn và
nghiên cứu khoa học của con người… đó là những người theo phái “Bất khả
tri luận”.
Tóm lại: Trong lịch sử triết học tồn tại hai trường phái triết học nhau là
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm và hai khuynh hướng nhận thức đối
lập nhau là khả tri và bất khả tri. Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái, hai
khuynh hướng trong triết học diễn ra trong suốt lịch sử phát triển của triết học
và cho đến ngày nay.
1.3. Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình trong triết học

Trong lịch sử triết học, cùng với việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học, triết học còn phải trả lời câu hỏi: Thế giới tồn tại như thế nào? Trả lời câu
hỏi đó trong triết học đã xuất hiện hai phương pháp xem xét thế giới đối lập
nhau đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét thế giới tồn tại trong
trạng thái cô lập, tách rời nhau khơng vận động, phát triển, khơng nhìn thấy
mối liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng, nếu có vận động chỉ là sự vận
động cơ học, sự vận động lặp lại những cái cũ mà thôi. Theo Ph.Ăngghen: tư
duy của các nhà siêu hình dựa trên những phản đề tuyệt đối khơng thể dung
hồ được, họ nói có là có, nói khơng là khơng. Đối với họ một sự vật hoặc tồn
tại hoặc không tồn tại, một hiện tượng khơng thể vừa là chính nó lại vừa là cái
khác, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau.


6
Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét thế giới trong mối
liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trong sự vận động và phát triển không

ngừng, không chỉ thấy sự sinh tồn mà cả sự tiêu vong của sự vật, không chỉ
thấy trạng thái tĩnh mà thấy cả trạng thái động của sự vật.
Tóm lại: Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức thế giới
khơng khoa học, ít có giá trị, là một tư duy cứng nhắc. Phương pháp biện
chứng là phương pháp nhận thức đúng đắn là một tư duy mềm dẻo, linh hoạt
là cơ sở cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người góp phần thúc
đẩy xã hội phát triển.
2. ĐỐI TƯỢNG, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

Triết học Mác - Lênin là một khoa học nghiên cứu những quy luật
chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy, là một trong ba bộ phận cấu
thành chủ nghĩa Mác, là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của giai cấp
vô sản trong nhận thức cải tạo thế giới. Triết học Mác - Lênin do C.Mác và
Ph.Ăngghen sáng lập, được V.I.Lênin bảo vệ và phát triển trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa.
2.1. Đối tượng của triết học Mác - Lênin
2.1.1. Khái niệm triết học Mác – Lênin

Triết học Mác - Lênin ra đời từ hoàn cảnh kinh tế xã hội và sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học thế kỷ XIX. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm
triết học là "khoa học của các khoa học", triết học Mác – Lênin lần đầu tiên
xác định rõ đối tượng, chức năng của nó. Triết học Mác – Lênin là hệ thống
quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy, thế giới quan,
phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Triết học Mác – Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng, là kết quả của sự kế thừa và phát triển cao nhất của tư
tưởng triết học nhân loại. Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin là
đỉnh cao của tư tưởng triết học nhân loại.

2.1.2. Đối tượng nghiên cứu của triết học Mác - Lênin


7
Triết học Mác - Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp
tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt
để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp riêng của mình khác
với mọi khoa học cụ thể. Triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể để giải
quyết và làm rõ vấn đề cơ bản của triết học. Trong đó, triết học Mác - Lênin
nghiên cứu những quy luật chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và con người,
mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế
giới xung quanh nhằm giúp cho giai cấp vô sản, nhân dân lao động tiến bộ
trên thế giới trong nhận thức và hành động cách mạng, để xây dựng một xã
hội tốt đẹp hơn cho con người.
2.2. Đặc điểm của triết học Mác - Lênin

Triết học Mác - Lênin có sự thống nhất chặt chẽ giữa tính đảng và tính
khoa học, điều đó thể hiện ở chỗ: Triết học Mác - Lênin thống nhất giữa lập
trường duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng khoa học. Sự thống
nhất này đã thể hiện rõ đặc điểm nổi bật so với tất cả các tư tưởng, quan điểm
triết học trong lịch sử. Chính vì vậy, triết học Mác - Lênin đã trở thành vũ khí
lý luận của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến bộ trong đấu tranh vì sự
tiến bộ của xã hội.
Triết học Mác - Lênin ln có gắn bó chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Bởi vì, triết học Mác - Lênin được hình thành từ địi hỏi của thực tiễn xã hội,
ra đời, tồn tại và được bổ sung phát triển trong thực tiễn. Đây là một đặc điểm
thể hiện vừa là kết quả của sự khái quát hiện thực đồng thời còn là lý luận
khoa học cho việc định hướng chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Từ khi ra đời đến
nay triết học Mác - Lênin luôn là lý luận cách mạng khoa học, vũ khí lý luận

cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh cải tạo xã hội cũ và
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” 1. Vận dụng tư tưởng đó Đảng
ta coi cơng tác lý luận trước hết hướng vào những vấn đề cấp bách đang cần
giải quyết thông qua nghiên cứu và tổng kết thực tiễn làm rõ căn cứ khoa học
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.8, tr. 496.


8
cho các giải pháp về những vấn đề đặt ra của cơng cuộc đổi mới. Như vậy, lý
luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà cịn là mục đích
cho hoạt động thực tiễn tiếp theo và sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử
luôn được lý luận khái qt. Chính vì lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng
quy luật mà lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
Trong đó, lý luận Mác - Lênin khơng chỉ hình thành trong những điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội, trong sự phát triển của khoa học tự nhiên cũng như
những thành tựu của lý luận thế kỷ XVIII - XIX mà còn được khái quát từ
thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng lao động, đồng thời nó phù
hợp với thực tiễn của thời đại.
Triết học Mác - Lênin cịn mang tính sáng tạo. Bởi vì, triết học Mác Lênin khơng “nhất thành, bất biến” mà ln ln địi hỏi được bổ sung,
phát triển trong sự vận động của cách mạng và thực tiễn xã hội, do vậy khi
vận dụng triết học Mác - Lênin vào hoạt động thực tiễn phải gắn với sự
phát triển trong tình hình cụ thể của mỗi đất nước, mỗi hoàn cảnh nhất
định. Nếu áp đặt một cách máy móc ngun xi, khơng có sự vận dụng sáng
tạo triết học Mác - Lênin vào thực tiễn, điều đó sẽ khơng thốt khỏi sai lầm
và thậm chí thất bại.
2.3. Vai trị của triết học Mác – Lênin trong nhận thức, giải quyết những

vấn đề lý luận, thực tiễn hiện nay

Triết học Mác - Lênin là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận cho
con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vai trò của triết học Mác Lênin được thể hiện ở các chức năng như: Chức năng nhận thức, chức năng
dự báo, chức năng giáo dục, chức năng thế giới quan và chức năng phương
pháp luận. Trong đó, chức năng thế giới quan và phương pháp luận là hai
chức năng cơ bản, chủ yếu nhất của triết học Mác - Lênin.
Triết học ra đời với tư cách hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho
thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn và tri thức do khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan
của triết học, tuỳ theo trường phái triết học và quan điểm của giai cấp trong xã
hội mà chức năng này thể hiện vai trị của nó. Chức năng thế giới quan của triết
học Mác - Lênin cung cấp cho giai cấp vô sản, nhân dân tiến bộ trên thế giới


9
những nhận thức khoa học chung nhất về thế giới (tự nhiên và xã hội) những
hiểu biết về quy luật vận động và biến đổi của thế giới và vũ trụ, quy luật về sự
biến đổi của xã hội loài người, vị trí vai trị của giai cấp vơ sản và nhân dân lao
động tiến bộ trong cuộc đấu tranh để giải phóng mình và tồn xã hội thốt khỏi
ách áp bức, bóc lột. Triết học Mác - Lênin đã khái quát nên hệ thống các quy
luật vận động, phát triển của thế giới, điều mà từ khi con người xuất hiện đến
nay ln tìm kiếm để phục vụ cho cuộc sống.
Cùng với chức năng thế giới quan, triết học cịn có chức năng phương
pháp luận. Đây là phương pháp nhận thức và hành động được rút ra từ một thế
giới quan nhất định. Phương pháp luận của triết học Mác - Lênin là hệ thống
những qui tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn được rút ra
từ thế giới quan của triết học Mác - Lênin. Đó là phương pháp luận khoa học
nhất của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ trên thế giới trong nhận thức
và hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo xã hội cũ xây dựng thành công một xã hội

mới tốt đẹp vì những lợi ích của con người xã hội chủ nghĩa.
Với vai trò thế giới quan, phương pháp luận của mình, triết học Mác Lênin đã có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của các khoa học
khác, đặc biệt là mở đường cho khoa học tự nhiên phát triển, nhờ có sự phát
triển của khoa học tự nhiên đã khắc phục quan điểm triết học là khoa học của
mọi khoa học. Mặt khác càng thấy rõ vai trò của tư duy lý luận, trong đó là sự
cần thiết của phép biện chứng rất quan trọng đối với các khoa học cụ thể
Ph.Ăngghen đã nhận xét: Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận.
Trong tình hình hiện nay Đảng ta nhận định: “Nước ta đang đứng trước
nhiều thách thức lớn, đan xen tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp không thể
coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thối về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn
với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra là nghiêm trọng chưa
được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu hiện xa rời mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện


10
âm mưu diễn biến hồ bình, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo hịng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”2.
Trước tình đó, địi hỏi vai trị ngày càng tăng của triết học Mác - Lênin
trong đời sống xã hội và quân đội. Triết học Mác - Lênin là hạt nhân lý luận
trong nhận thức và hành động cách mạng của cán bộ đảng viên trong quá
trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh”, tránh những sai lầm do bệnh chủ quan và phương pháp tư duy siêu
hình gây ra… Vì vậy, trong quá trình học tập tại trường, phải khơng ngừng
nâng cao thế giới quan, phương pháp luận triết học Mác - Lênin trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn, kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai

trái ở đơn vị và sự chống phá của các thế lực thù địch trong lĩnh vực tư tưởng
lý luận hiện nay.
2.4. Phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của môn học

Triết học ra đời ln gắn với giai cấp và mang tính giai cấp, là vũ khí
lý luận của một giai cấp nhất định trong lịch sử xã hội. Triết học Mác Lênin là vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản và nhân dân lao động trong nhận
thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Do vậy,
nghiên cứu triết học Mác - Lênin phải đứng vững ở lập trường của giai cấp
vô sản. Triết học Mác - Lênin là kết quả tư duy khái quát từ hiện thực sinh
động, vì vậy nghiên cứu triết học Mác - Lênin phải vận dụng phương pháp tư
duy trừu tượng. Mặt khác, nghiên cứu triết học Mác - Lênin phải gắn lý luận
với thực tiễn, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực hành.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản đang điều chỉnh thích nghi,
chủ nghĩa xã hội tuy đã sụp đổ ở một số nước song trong bước phát triển
quanh co ấy, chủ nghĩa xã hội đang lấy lại sức sống của mình, có bước phát
triển ở một số nước như thành tựu đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc… đòi hỏi
nhận thức của mỗi cán bộ đảng viên hiện nay cần phải đứng vững ở lập
trường giai cấp vô sản, vận dụng tốt tư duy biện chứng của triết học Mác Lênin, tránh rơi vào quan điểm duy tâm, siêu hình trong nhận thức và hành
động cách mạng.
2


11
Nghiên cứu triết học Mác - Lênin giúp cho người sĩ quan chỉ huy cấp
phân đội ở các đơn vị cơ sở có quan điểm đúng đắn về thế giới, về nhiệm vụ
của quân đội và đơn vị, từ đó có phương pháp luận khoa học trong nhận thức
và hành động ở đơn vị, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước
và Quân đội giao cho. Vận dụng sáng tạo thế giới quan, phương pháp luận
triết học Mác - Lênin vào lãnh đạo, quản lý và giáo dục cho cán bộ chiến sĩ ở
đơn vị thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần to lớn vào sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
KẾT LUẬN

Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa
Mác - Lênin, đóng vai trò là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận chung, là
vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản trong nhận thức và cải tạo thế giới. Bởi vậy,
nghiên cứu và nắm vững triết học Mác - Lênin là cơ sở khoa học để nâng cao
nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả, qua đó đấu tranh
chống mọi biểu hiện lệch lạc sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng. Xây dựng quân đội nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, xứng đáng là lực lượng
nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



×