Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích về các doanh nhân việt nam dưới góc độ quản trị marketing

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.02 KB, 12 trang )

Bài tập cá nhân môn Marketing
(Individual assignment)

Phân tích về các Doanh nhân Việt Nam dưới góc độ quản trị Marketing

Bài viết cá nhân/Individual assignment
Phân tích những đặc điểm của doanh nhân Việt Nam?
•Mức độ dám chấp nhận rủi ro trong KD/risk taking
•Tính đổi mới, sáng tạo/innovativeness (về SP, kênh phân phối, hoạt động khuyếch
trương…)
•Tính tiên phong, đi trước đối thủ trong các hoạt động kinh doanh/proactiveness
Đánh giá thực trạng mức độ & vai trò từng khía cạnh trên (thang điểm 1-5, 1: rất thấp,
3: TB, 5: rất cao); so sánh mức độ theo tuổi tác, giới tính, khu vực KT (tư nhân, nhà
nước, nước ngoài/LD,…), qui mô DN, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động,…Nêu ví du
minh họa. Hãy sử dụng cả số liệu thứ cấp có sẵn (phải trích dẫn tài liệu tham khảo) và
số liệu sơ cấp (qua quan sát, phỏng vấn, điều tra) để minh họa cho bài viết.

Trả lời:

Doanh nhân là ai? Nói một cách chặt chẽ, doanh nhân là những chủ doanh nghiệp
trực tiếp kinh doanh doanh nghiệp của mình, những người được cử hoặc được thuê để
quản lý doanh nghiệp, thực hiện nhiệm vụ kinh doanh; trách nhiệm và lợi ích của họ
gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, mà yêu cầu đầu tiên là họ phải có
đủ điều kiện để sáng tạo, không ngừng phát triển doanh nghiệp.

1


I. Dám chấp nhận rủi ro trong kinh doanh, Tính đổi mới, sáng tạo, Tính tiên
phong, đi trước đối thủ
Doanh nhân là những người dám chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, nhưng điều đó không có


nghĩa là để khởi nghiệp, bạn phải là người chấp nhận đối mặt ngay với rủi ro mà ngược
lại, bạn phải là người biết cách phòng tránh, hạn chế rủi ro. Trong quá trình khởi
nghiệp, thường xuất hiện hai nhóm rủi ro chính: Rủi ro do môi trường xung quanh có
nhiều bất ổn và rủi ro khi doanh nghiệp gặp thất bại.

Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp không thể tránh khỏi các rủi ro này nhưng họ hoàn
toàn có thể thực hiện một số biện pháp để giảm thiểu chúng.

Rủi ro do môi trường xung quanh có nhiều bất ổn. Không có một môi trường kinh
doanh nào là chắc chắn tuyệt đối. Tuy nhiên, chúng ta có thể giảm thiểu sự bất ổn của
môi trường kinh doanh bằng cách phân tích ba yếu tố: thị trường, mô hình vận hành và
mô hình tài chính của doanh nghiệp.

Rủi ro từ thị trường là kết quả của nhiều yếu tố: thị trường có đủ lớn để duy trì sự tồn
tại của doanh nghiệp không, thị trường đang có những xu hướng nào, mức độ cạnh
tranh ra sao, các hệ thống phân phối hoạt động thế nào. Chẳng hạn, nếu theo các xu
hướng của thị trường, khách hàng sẽ không tiếp tục sử dụng sản phẩm hay dịch vụ của
doanh nghiệp nữa, hay các khách hàng tiềm năng sẽ bị đối thủ cạnh tranh “giữ chân“,
tất yếu là doanh nghiệp sẽ gặp nhiều bất lợi. Quy mô của thị trường cũng rất quan trọng
trong việc đánh giá tính khả thi khi đưa sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu các quy định, luật lệ có ảnh hưởng trực tiếp
lên ngành hàng và thị trường mà mình đang theo đuổi.

2


Rủi ro từ mô hình vận hành. Đó là những rủi ro liên quan đến quá trình sản xuất, tác
nghiệp, phân phối, công tác hậu cần - những yếu tố có ảnh hưởng đến chất lượng và giá
thành sản phẩm hay dịch vụ. Nên nhớ rằng, doanh nghiệp có thành công hay không phụ
thuộc rất nhiều vào việc thực hiện những công việc nói trên. Trong trường hợp doanh

nghiệp chọn hình thức gia công thì những rủi ro này sẽ rất lớn.

Rủi ro từ mô hình tài chính. Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập ra các phương án,
các dự đoán về tài chính để xác định khi nào sẽ hoà vốn và những yếu tố nào sẽ thúc
đẩy sự tăng trưởng về mặt tài chính và nắm chắc những yếu tố nào gây ra tác động
nhiều nhất đến doanh thu và chi phí. Chẳng hạn, nếu các yếu tố ảnh hưởng chủ yếu lên
chi phí là lao động và nguyên vật liệu đầu vào thì doanh nghiệp phải tập trung vào việc
tìm ra các biện pháp để sử dụng lao động có hiệu quả hơn cũng như cắt giảm chi phí
nguyên vật liệu đầu vào.
Ở đây có hai loại rủi ro chính: rủi ro cơ hội và rủi ro tài chính.

- VD: Những doanh nghiệp chấp nhận rủi ro và đi tiên phong:
Vinamilk, Hud, café trung nguyên, Công ty Cp cơ điện lạnh REE

II. Doanh nhân Việt Nam: Đại diện cho sức sản xuất mới
Làm sao để phát huy được vai trò của doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là chủ đề câu chuyện mà TS. Vũ Tiến
Lộc - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trao đổi trong dịp
đầu Xuân Tân Mão.

3


- Thưa ông, trong những năm qua, đội ngũ doanh nhân Việt
Nam đã có được những bước phát triển mạnh mẽ. Từ góc
nhìn của người đứng đầu cơ quan đại diện cho cộng đồng
doanh nghiệp Việt Nam, cá nhân ông đã thấy yên tâm với sự
phát triển này chưa?

Ông Vũ Tiến Lộc:

“Xây dựng đội ngũ
doanh nhân lớn mạnh
là bước đột phá góp
phần thúc đẩy phát
triển đất nước, đẩy lùi
nguy cơ tụt hậu, nâng
cao vị thế của Việt Nam
trong thời đại mới”
Trong những năm qua, có thể nói, các doanh nhân đã đóng vai trò quyết định trong việc
huy động các nguồn lực tạo ra sản phẩm và dịch vụ cho xã hội. Doanh nhân đóng góp
quan trọng vào việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội.
Riêng khu vực doanh nghiệp đã đóng góp trên 60% GDP, 70% nguồn thu ngân sách
nhà nước, thu hút được trên 7,4 triệu lao động, chiếm 16,3% lực lượng lao động của
toàn xã hội. Nếu tính cả khu vực của hộ kinh doanh cá thể thì mức đóng góp của các
doanh nhân cho nền kinh tế còn cao hơn nhiều.
Tuy vậy, cũng phải nghiêm túc nhìn nhận một thực tế, số lượng và chất lượng đội ngũ
doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Quy mô doanh nghiệp
nước ta còn nhỏ bé, kém xa so với khu vực và thế giới, hiệu quả hoạt động chưa cao.

4


Nhiều doanh nhân thiếu kiến thức về pháp luật và kinh doanh, thiếu kinh nghiệm quản
lý và tính chuyên nghiệp, còn bị động trong cạnh tranh và hội nhập. Đội ngũ doanh
nhân chưa xây dựng được văn hóa kinh doanh chung, chưa liên kết chặt chẽ trong hoạt
động.
- Việt Nam chưa bao giờ đứng trước cơ hội lớn như hiện nay để phát triển, nhưng cũng
phải đối diện với nhiều thử thách đến mức chỉ cần chủ quan hay lơi lỏng là có thể kẹt
vào bẫy “nước thu nhập trung bình”. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có vai trò thế nào

trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, thưa ông?
Trong giai đoạn phát triển tới của đất nước, cần xác định đội ngũ doanh nhân Việt Nam
là đại diện cho sức sản xuất mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định để thực hiện mục tiêu chiến
lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng đội ngũ doanh nhân
lớn mạnh là bước đột phá góp phần thúc đẩy phát triển đất nước, đẩy lùi nguy cơ tụt
hậu, nâng cao vị thế của Việt Nam trong thời đại mới.
Để thúc đẩy phát triển đội ngũ doanh nhân, cần thống nhất nhận thức về vai trò của đội
ngũ doanh nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khuyến khích
tinh thần kinh doanh trong xã hội, tôn vinh doanh nhân, khẳng định sự cống hiến và bảo
hộ thu nhập hợp pháp của doanh nhân. Xác định đúng quyền lợi, nghĩa vụ của doanh
nhân đối với công cuộc phát triển đất nước.
- Thưa ông, bàn đến sự phát triển của đội ngũ doanh nhân, không thể tách khỏi yếu tố
môi trường kinh doanh. Muốn tạo dựng một môi trường hấp dẫn cho thu hút đầu tư,
cần phải chú trọng điều gì?
Cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường sản xuất kinh
doanh bình đẳng và thuận lợi để doanh nhân phát huy ý chí kinh doanh. Công khai
minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách hỗ trợ,
để bảo đảm quyền lợi đầu tư và giảm rủi ro kinh doanh cho doanh nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế. Chúng ta cũng cần phải xây dựng và hoàn thiện pháp luật về sở

5


hữu, quyền kinh doanh, tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình
đẳng, xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh. Bên cạnh đó, không thể thiếu việc
xây dựng pháp luật cho việc tạo lập đồng bộ các thị trường, nhất là thị trường bất động
sản, thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học - công nghệ.
Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, cải cách pháp luật thuế. Hoàn thiện pháp luật về
tài nguyên môi trường, bảo vệ người tiêu dùng. Nâng cao hiệu lực xét xử của tòa án,

khuyến khích giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Giai đoạn qua, chúng ta đã xây dựng và thực hiện tốt cơ chế đối thoại, tham vấn ý kiến
của doanh nhân trong quá trình ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Quá trình này cần phải tiếp tục được đẩy mạnh hơn nữa. Những kết quả tích cực từ quá
trình cải cách hành chính đã tạo cho chúng ta động lực và quyết tâm để tiếp tục quá
trình cải cách chính mình này. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều
kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, bảo đảm các cơ quan
và người thi hành công vụ hỗ trợ, đồng hành cùng doanh nhân.
- Hiện nay vẫn còn nghịch lý về việc các doanh nghiệp chưa được đối xử công bằng
trong việc tham gia vào khu vực kinh doanh chính thức. Vậy làm sao để có được đội
ngũ doanh nghiệp đa dạng và phát triển mạnh mẽ, thưa ông?
Đúng là chúng ta cần phải xây dựng hệ thống các biện pháp hỗ trợ doanh nhân tham gia
khu vực kinh doanh chính thức, cũng như mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp. Song song với đó, cũng cần chú trọng phát triển doanh nhân ở khu vực nông
thôn.
Muốn có đội ngũ doanh nhân mạnh, chúng ta cần thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ
trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quan tâm hỗ trợ khu vực hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi
thành doanh nghiệp và đăng ký đầy đủ theo Luật Doanh nghiệp. Khuyến khích liên kết,
mua bán và sáp nhập doanh nghiệp và áp dụng các biện pháp phù hợp để tăng nhanh số
lượng doanh nghiệp có quy mô vừa, thúc đẩy hình thành và phát triển một số doanh
nghiệp lớn, đủ sức thực hiện vai trò dẫn dắt, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thâm
nhập vào thị trường thế giới thông qua các chuỗi sản xuất và cung ứng.
6


Cũng cần phải triển khai các biện pháp hỗ trợ doanh nhân xúc tiến thương mại, đầu tư,
nghiên cứu phát triển, đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm dịch vụ. Cải thiện khả
năng tiếp cận tài chính, công nghệ và thị trường của các doanh nhân.
- Văn hóa doanh nhân là vấn đề đã được đề cập nhiều như “gót chân Ashin” của
doanh nhân Việt Nam. Điều này phải chăng xuất phát từ chính việc chúng ta thiếu một

hệ thống đào tạo căn bản cho đội ngũ này?
Muốn tạo được chuyển biến căn bản trong đào tạo và bồi dưỡng doanh nhân, cần phải
xây dựng và triển khai thực hiện chương trình quốc gia về đào tạo doanh nhân, từng
bước tiếp cận chuẩn mực quốc tế trong đào tạo quản trị kinh doanh. Bên cạnh đó, cần
triển khai rộng khắp chương trình đào tạo về khởi sự doanh nghiệp, bảo đảm các doanh
nhân được trang bị những kiến thức cần thiết về kinh doanh, về pháp luật và trách
nhiệm xã hội. Tổ chức thường xuyên các khóa đào tạo nâng cao và cập nhật kiến thức
5 triệu là số lượng
doanh nhân Việt
Nam đang hoạt
động trong các
doanh nghiệp, HTX
và hộ kinh doanh cá
thể
cho doanh nhân.
Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo về kinh tế và quản trị kinh
doanh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, chú trọng
nội dung giáo dục đạo đức, ý thức trách nhiệm, sự trung thực, tinh thần hợp tác, ý thức
dân tộc, ý thức cộng đồng trong giáo dục công dân và đào tạo doanh nhân. Cần phải đề
cao văn hóa kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nhân, xây dựng quan hệ lao
động hài hòa, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

7


- Liên quan đến hệ thống các tổ chức đại diện của cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ
doanh nhân, “bà đỡ” phải khỏe thì doanh nghiệp mới mạnh?
Chúng tôi nhìn nhận, cần tiếp tục xây dựng và củng cố VCCI thành một tổ chức chính
trị - xã hội vững mạnh của đội ngũ doanh nhân. Song song đó, mở rộng và liên kết hệ
thống hiệp hội doanh nghiệp trong cả nước, triển khai đồng thời hai nhiệm vụ đại diện

cho các doanh nghiệp và giới sử dụng lao động, xúc tiến hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và trong lĩnh vực quan hệ lao động, xây dựng quan hệ lao
động thuận hòa; tăng cường quan hệ đối thoại, hợp tác giữa các cơ quan chính quyền
với VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp.
- Thưa ông, một vấn đề cốt yếu nữa là việc thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng
đối với doanh nhân. Cần phải có những chương trình hành động cụ thể gì?
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển đội ngũ doanh nhân
thông qua những chương trình như: Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược phát
triển đội ngũ doanh nhân. Cần thể chế hóa đường lối chính sách đối với doanh nhân của
Đảng bằng các chương trình hành động cụ thể. Triển khai công tác phát triển Đảng,
phấn đấu có tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp, ngành nghề giữ vị trí quan trọng của
nền kinh tế. Nâng cao giác ngộ chính trị cho người sử dụng lao động và người lao động,
bảo đảm cho hoạt động của doanh nghiệp, doanh nhân theo đúng chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương Đảng viên làm kinh tế tư nhân và
thí điểm kết nạp các chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng, trước mắt có
thể thực hiện thí điểm ở một số địa phương, hiệp hội doanh nghiệp. Tăng cường đại
diện của doanh nhân trong cơ cấu của các cơ quan thuộc hệ thống chính trị.
- Liên quan đến việc xây dựng những chuẩn mực của doanh nhân, theo nhìn nhận của
ông, cần phải chú trọng đến những tiêu chí gì?
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đội ngũ doanh nhân cần
hướng tới các phẩm chất quan trọng: có lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc, có khát
vọng kinh doanh, có trách nhiệm với người lao động, với cộng đồng và xã hội, có văn

8


hóa và tuân thủ pháp luật. Doanh nhân thân thiện với môi trường, thân ái với cộng
đồng, thân thuộc với người lao động.
( Bài phóng vấn của Pv với Ông Vũ Tiến Lộc- trên báo dddn.com.vn)
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa doanh nghiệp Việt

Nam có 4 đặc điểm nổi bật

Thứ nhất, tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thể
thành viên doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành, có tính tập thể.
Thứ hai, tính quy phạm: Văn hóa doanh nghiệp có công năng điều chỉnh kết hợp: trong
trường hợp lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công nhân viên chức
phải phục tùng các quy phạm, quy định của văn hóa mà doanh nghịêp đã đề ra, đồng
thời doanh nghiệp cũng phải biết lắng nghe và cố gắng giải quyết hài hòa để xóa bỏ
xung đột.
Thứ ba, tính độc đáo: Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, doanh nghiệp khác nhau
ở cùng một quốc gia đều cố gắng xây dựng văn hóa doanh nghiệp độc đáo trên cơ sở
văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa doanh nghiệp phải bảo
đảm tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa các doanh nghiệp
khác nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình.
Thứ tư, tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa doanh
nghiệp mới được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa. Chỉ khi nào văn hóa doanh nghiệp
phát huy được vai trò của nó trong thực tiễn thì lúc đó mới thực sự có ý nghĩa.
Để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế
toàn cầu, khi đối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cần
phải xem xét và kiện toàn hơn nữa vấn đề văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp
khi được xây dựng hoàn thiện không những kích thích sức phát triển
sản xuất mà còn có ý nghĩa quan trọng để xây dựng uy tín và thương

9


hiệu của doanh nghiệp. Hiện nay, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở nước ta cần
chú ý đồng bộ 5 phương diện sau:
Một là, xây dựng quan niệm lấy con người làm gốc. Văn hóa doanh nghiệp lấy việc
nâng cao tố chất toàn diện của con người làm trung tâm để nâng cao trình độ quản lý

doanh nghiệp, làm cho quan niệm giá trị của doanh nghiệp thấm sâu vào các tầng chế
độ chính sách, từng bước chấn hưng, phát triển doanh nghiệp. Điều đó bao gồm các nội
dung cơ bản: 1- Bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm của công nhân viên chức để phát huy
tính tích cực, tính chủ động của họ; 2- Bồi dưỡng quan điểm giá trị doanh nghiệp và
tinh thần doanh nghiệp để nó trở thành nhận thức chung của đông đảo công nhân viên
chức và trở thành động lực nội tại khích lệ tất cả mọi người phấn đấu; 3- Tăng cường
đào tạo và phát triển tài nguyên văn hóa trong doanh nghiệp nhằm tạo ra không khí văn
hóa tốt đẹp để nâng cao tố chất văn hóa và trình độ nghiệp vụ của công nhân viên chức;
4- Có chế độ thưởng, phạt hợp lý, có cơ chế quản lý dân chủ khiến cho những người có
cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi ích
vật chất xứng đáng với công sức mà họ đã bỏ ra.
Hai là, xây dựng quan niệm hướng tới thị trường. Việc các doanh nghiệp phải trở thành
doanh nghiệp tự chủ để phù hợp với kinh tế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh
chóng hình thành quan niệm thị trường linh động, sát với thực tiễn. Quan niệm thị
trường bao gồm nhiều mặt như giá thành, khả năng tiêu thụ, chất lượng đóng gói và
chất lượng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng, các kỳ khuyến mãi nhằm thu hút khách
hàng… Tất cả phải hướng tới việc tăng cường sức cạnh tranh, giành thị phần cho doanh
nghiệp của mình. Cần phải coi nhu cầu thị trường là điểm sản sinh và điểm xuất phát
của văn hóa doanh nghiệp.
Ba là, xây dựng quan niệm khách hàng là trên hết. Doanh nghiệp hướng ra thị trường
nói cho cùng hướng tới khách hàng. Phải lấy khách hàng làm trung tâm, cụ thể: 1- Căn
cứ vào yêu cầu và ý kiến của khách hàng để khai thác sản phẩm mới và cung cấp dịch
vụ chất lượng cao; 2- Xây dựng hệ thống tư vấn cho người tiêu dùng, cố gắng ở mức
cao nhất để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng cùng với việc nâng cao chất lượng

10


phục vụ để tăng cường sức mua của khách hàng; 3- Xây dựng quan niệm phục vụ là thứ
nhất, doanh lợi là thứ hai. Tiến hành khai thác văn hóa đối với môi trường sinh tồn của

doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp tốt đẹp.
Bốn là, xí nghiệp trong quá trình phát triển phải tăng cường ý thức đạo đức chung, quan
tâm đến an sinh xã hội. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề
sản xuất các loại hàng hóa tiêu dùng không độc hại đã thành định hướng giá trị mới của
tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các doanh
nghiệp. Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng nhưng hậu quả
của sự phát triển ấy cũng hết sức nặng nề mà biểu hiện rõ nhất là ô nhiễm môi trường
và lãng phí tài nguyên. Để khắc phục tình trạng đó, cần thông qua văn hóa doanh
nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững tránh được tình trạng phát triển
vì lợi ích trước mắt mà bỏ quên lợi ích con người. Định hướng của phát triển là phải kết
hợp một cách hữu cơ sự phát triển của doanh nghiệp với tiến bộ của loài người nhằm
bảo đảm sự phát triển doanh nghiệp một cách liên tục, ổn định, hài hòa.
Năm là, xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp không những phải
coi sản phẩm của mình là một bộ phận làm nên quá trình phát triển nhân loại mà còn
phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp mình là một bộ phận của văn hóa nhân
loại. Doanh nghiệp đóng góp cho xã hội không chỉ ở số lượng của cải mà còn phải thỏa
mãn được nhu cầu văn hóa nhiều mặt của xã hội hiện đại như tích cực ủng hộ, tài trợ
cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển và tiến
bộ. Thông qua các hoạt động nhân đạo và văn hóa này hình ảnh doanh nghiệp sẽ trở
nên tốt đẹp hơn, uy tín của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể. Đó cũng là hướng
phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp ngày càng nhiều hơn vào
công cuộc đổi mới, vì mục đích: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”
mà Đảng ta đã đề ra và được toàn dân ủng hộ.

Tài liệu tham khảo:

11


1. dddn.com.vn

2. trên internet
3. Giáo trình MBA của Gisggs

12



×