Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.54 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯƠNG LINH

THỎA THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU THEO PHÁP LUẬT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Trung Tín

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Phương Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
VÔ HIỆU........................................................................................................... 5


1.1. Khái quát về thỏa thuận trọng tài ...................................................................... 5
1.2. Khái quát về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ...................................................... 12
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI
VÔ HIỆU VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI VÔ HIỆU TẠI VIỆT NAM ...................................................... 24
2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam ............. 24
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam . 33
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
THỎA THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN TRỌNG TÀI VÔ HIỆU TẠI VIỆT
NAM................................................................................................................ 47
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận trọng tài
vô hiệu .................................................................................................................... 47
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài
vô hiệu tại Việt Nam ............................................................................................... 50
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế diễn ra vô cùng mạnh mẽ như hiện
nay, các hoạt động thương mại diễn ra rất đa dạng về hình thức và nhanh
chóng về tốc độ. Sự đa dạng đó cũng dẫn tới những tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại ngày một nhiều và phức tạp. Vì vậy đòi hỏi phải có
những phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng nhưng hiệu quả. Giải
quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài chính là một phương thức giải
quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm như nhanh gọn, không công khai, hiệu quả
nên ngày càng trở nên phổ biến.
Để một tranh chấp thương mại có thể được giải quyết bằng trọng tài,

điều kiện đầu tiên cần có là phải có thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa
thuận trọng tài thì tranh chấp thương mại không thể được giải quyết bằng
trọng tài. Trong quy định về thỏa thuận trọng tài còn nhiều điểm chưa được
giải thích rõ ràng trong Luật Trọng tài Thương mại 2010, gây khó khăn cho
việc hiểu và áp dụng pháp luật đối với những tổ chức, cơ quan trực tiếp áp
dụng đó là các tổ chức Trọng tài Thương mại, Tòa án và đặc biệt là các doanh
nghiệp có tranh chấp yêu cầu trọng tài giải quyết. Bên cạnh đó, nhiều doanh
nghiệp chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của thỏa thuận trọng tài cũng như
chưa có được kiến thức đầy đủ về thỏa thuận trọng tài nên việc soạn thảo thỏa
thuận trọng tài còn một số hạn chế dẫn tới thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Thỏa
thuận trọng tài vô hiệu khiến cho thẩm quyền giải quyết tranh chấp không còn
thuộc thẩm quyền của trọng tài, khiến việc giải quyết tranh chấp bị kéo dài
hơn và trong nhiều trường hợp dẫn tới những thiệt hại về kinh tế cho các bên
tranh chấp.
Vì vậy việc nghiên cứu những quy định của pháp luật và thực trạng áp
dụng pháp luật trọng tài thương mại thông qua một số vụ việc liên quan đến
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
1


của việc áp dụng pháp luật trọng tài thương mại về thỏa thuận trọng tài vô
hiệu là rất cần thiết. Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Thỏa thuận trọng
tài vô hiệu theo pháp luật trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay” làm
luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề thỏa thuận trọng tài và hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã
được khá nhiều tác giả phân tích từ nhiều góc độ khác nhau. Có nhiều công
trình nghiên cứu khá công phu, có tính hệ thống những vấn đề pháp lý về
trọng tài, trong từng nội dung cụ thể, cùng với việc phân tích các quy phạm
pháp luật của Việt Nam (Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và Luật trọng

tài thương mại 2010), so sánh với những quy định tương ứng trong các công
ước quốc tế, luật mẫu về trọng tài, pháp luật ở các quốc gia khác, các tác giả
cũng đã minh họa, bình luận các vụ việc thực tiễn liên quan đến thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Bên cạnh đó, cũng đã có nhiều khóa luận cử nhân và luận
văn thạc sĩ nghiên cứu về vấn đề hiệu lực của thỏa thuận trọng tài như:
-Khóa luận cử nhân Luật: “Các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài” của tác giả Nguyễn Thị Ly Na năm 2010.
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài
thươngmại” của tác giả Tống Thị Lan Hương năm 2011.
- Luận văn Thạc sĩ Luật: “Pháp luật về thỏa thuận trọng tài ở Việt
Nam” của tác giả Đặng Thu Hằng năm 2014.
Những nghiên cứu của các tác giả kể trên nói chung và những đề tài
khóa luận, luận văn tốt nghiệp nói riêng chủ yếu nghiên cứu chung các
phương diện về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, và những
điều kiện để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Vấn đề thỏa thuận trọng tài vô
hiệu chỉ được đề cập ở mức độ hết sức khái quát, chiếm một phần nhỏ trong
những công trình nghiên cứu nói trên.

2


Vì vậy việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề thỏa thuận
trọng tài vô hiệu mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp
của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các
quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở Việt Nam.

Luận văn tìm hiểu về trọng tài thương mại, hậu quả pháp lý của thỏa
thuận trọng tài vô hiệu, từ đó đánh giá ý nghĩa của việc nghiên cứu về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu đối với việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Phân
tích, đánh giá thực trạng thỏa thuận trọng tài vô hiệu, nghiên cứu, nhận xét
một số vụ tranh chấp điển hình trên thế giới và Việt Nam làm cơ sở rút ra
những điều cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được những mục đích trên, tác giả đặt ra việc giải quyết các
nhiệm vụ sau:
+ Phân tích những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài vô hiệu
+ Đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu và
thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam
+ Xây dựng các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu tại Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các quan hệ liên quan thỏa thuận trọng tài

3


- Phạm vi nghiên cứu: Các quan hệ liên quan đến thỏa thuận trọng tài
vô hiệu ở Việt Nam hiện nay
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận chung là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận chung đó, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp thống kê, so
sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở Việt
Nam;
- Thứ hai: Luận văn phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu thông qua một số ví dụ cụ thể;
- Thứ ba: Đề xuất những biện pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở Việt
Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về thỏa thuận trọng tài vô hiệu
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu và
thực tiễn áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Việt Nam
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về thỏa thuận trọng
tài vô hiệu tại Việt Nam

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN
TRỌNG TÀI VÔ HIỆU
1.1. Khái quát về thỏa thuận trọng tài
1.1.1. Khái niệm thỏa thuận trọng tài
- Định nghĩa thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là nền móng của tố tụng trọng tài thương mại.
Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng

tài sẽ không có tố tụng trọng tài”. Vì vậy, thỏa thuận trọng tài được định
nghĩa rõ ràng trong các đạo luật quốc gia cũng như trong các văn bản luật
quốc tế về trọng tài thương mại.
Theo Điều 7 Luật mẫu của UNCITRAL: “Thỏa thuận trọng tài là
thỏa thuận mà các bên đưa ra trọng tài tất cả hoặc một số tranh chấp phát
sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên trong quan hệ pháp lý xác định cho
dù đó có là quan hệ hợp đồng hay không. Thoả thuận trọng tài có thể dưới
hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả
thuận riêng”.
Điều 2 Công ước New York 1958 thể hiện khái niệm về thỏa thuận
trọng tài như sau: “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận
bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp
đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là
quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải
quyết được bằng trọng tài”.
Khoản 2 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 định nghĩa: “Thỏa
thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”.

5


Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một cách hiểu chung về thỏa
thuận trọng tài như sau: thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động
thương mại mà pháp luật cho phép giải quyết bằng thể thức trọng tài.
- Bản chất của thỏa thuận trọng tài
Bản chất của thỏa thuận trọng tài là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Điều này khác với việc các
bên tranh chấp yêu cầu giải quyết tại Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xét xử

bất kỳ tranh chấp trong nước nào (trừ khi các bên có thỏa thuận khác).Trọng
tài chỉ có thẩm quyền xét xử khi các bên tranh chấp có thỏa thuận chọn trọng
tài để giải quyết tranh chấp. Có thể nói thỏa thuận trọng tài là điều kiện tiên
quyết để tiến hành tố tụng trọng tài.
- Nội dung của thỏa thuận trọng tài
Nội dung của thỏa thuận trọng tài là việc xác định cách thức, trình tự,
thủ tục, thẩm quyền và trách nhiệm của các bên liên quan khi cần giải quyết
những tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng chính. Việc xác lập nội
dung các điều khoản trong thỏa thuận trọng tài phụ thuộc vào sự tự nguyện
thỏa thuận của các bên mà không chịu sự can thiệp của pháp luật. Tuy nhiên,
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quá trình giải quyết
tranh chấp, pháp luật quy định một số điều khoản cơ bản của thỏa thuận trọng
tài như: phương thức trọng tài, tổ chức trọng tài, ngôn ngữ, luật áp dụng, địa
điểm trọng tài, chi phí, cam kết thi hành quyết định trọng tài. Một thỏa thuận
trọng tài chỉ có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những yêu cầu của pháp luật
về nội dung.
- Hình thức của thỏa thuận trọng tài
Pháp luật hầu hết các nước quy định thỏa thuận trọng tài phải bằng
văn bản. Thông thường có hai cách thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng
6


trọng tài dựa vào thời điểm hình thành thỏa thuận trọng tài: Điều khoản trọng
tài và Thỏa thuận trọng tài riêng biệt.
+ Điều khoản trọng tài là một điều khoản nằm trong hợp đồng chính
giữa các bên và thường liên quan đến các tranh chấp có thể phát sinh trong
tương lai. Điều khoản trọng tài thường chỉ mang tính dự liệu vì vào thời điểm
ký kết hợp đồng các bên chưa lường được những loại tranh chấp nào sẽ phát
sinh, do đó các điều khoản này thường rất ngắn gọn, không đi vào chi tiết.
Trên thực tế, các bên thường lấy một điều khoản mẫu ngắn gọn của một tổ

chức trọng tài.
+ Thỏa thuận trọng tài riêng biệt liên quan đến tranh chấp đã phát sinh
trên thực tế. Thỏa thuận này thường dưới hình thức một văn bản thỏa thuận
riêng và được coi như gắn liền với hợp đồng chính. Vì thỏa thuận này được
lập khi tranh chấp đã phát sinh, các bên đã biết rõ về loại tranh chấp, tính chất
và mức độ của tranh chấp nên nội dung của thỏa thuận khá chi tiết, có tính
khả thi cao. Tuy nhiên, khi tranh chấp đã xảy ra thì việc các bên ngồi lại đàm
phán cho thỏa thuận trọng tài riêng biệt sẽ phức tạp hơn nhiều so với đàm
phán về điều khoản trọng tài trong hợp đồng.
1.1.2. Ý nghĩa của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là điều kiện đầu tiên và quan trọng của tố tụng
trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài được xác lập trên cơ sở ý chí tự nguyện và bình
đẳng của các bên, bởi vậy nó có vai trò ràng buộc các bên phải tiến hành giải
quyết tranh chấp tại trọng tài đúng như thỏa thuận đã được xác lập.
Thỏa thuận trọng tài là bằng chứng cho thấy các bên lựa chọn trọng tài
chứ không phải tòa án để giải quyết tranh chấp. Thông qua thảo thuận trọng
tài, các bên gián tiếp khước từ thẩm quyền xét xử của tòa án. Tòa án phải từ
chối thụ lý khi thỏa thuận trọng tài giữa hai bên có hiệu lực. Tuy nhiên thỏa
7


thuận trọng tài không loại trừ sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết
tranh chấp trong trường hợp có khiếu nại liên quan đến thỏa thuận trọng tài vô
hiệu, yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và khi có căn cứ pháp
luật để đề nghị Tòa án hủy quyết định trọng tài.
Như vậy, yếu tố cơ bản nhất trong phương thức trọng tài là yếu tố thỏa
thuận. Thỏa thuận trọng tài có vai trò quyết định trong việc sử dụng trọng tài
như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Không có thỏa
thuận trọng tài sẽ không có giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.Tuy nhiên để

thỏa thuận trọng tài thực sự có ý nghĩa thì nó phải có hiệu lực.
1.1.3. Hiệu lực của thỏa thuận trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để xác định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài. Chính vì vậy, giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài là vô
cùng quan trọng.
Thỏa thuận trọng tài thực chất là một hợp đồng dân sự. Điều 385 Bộ
luật dân sự 2015 quy định “Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Thỏa thuận trọng
tài là sự thỏa thuận giữa các bên, bên cạnh đó khi giữa các bên đã có thỏa
thuận trọng tài thì một bên không thể đơn phương yêu cầu giải quyết tranh
chấp tại Tòa án nếu bên kia không đồng ý, nói cách khác giữa các bên tồn tại
quan hệ nghĩa vụ dân sự. Như vậy thỏa thuận trọng tài có đầy đủ các đặc điểm
để được coi như một hợp đồng dân sự.
Về điều kiện hiệu lực của hợp đồng dân sự, cần quan tâm đến các yếu
tố: Chủ thể, hình thức và nội dung của hợp đồng. Tương tự như vậy, điều kiện
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài cũng có thể được xem xét dưới 3 điều kiện:
- Điều kiện về chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài
Người tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi
dân sự, nói cách khác, chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài phải là người có khả
8


năng xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự bằng hành vi của mình theo
quy định của pháp luật. Ngoài ra người tham gia ký kết thỏa thuận trọng tài
phải hoàn toàn tự nguyện về mặt lý trí, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
Đối tượng ký thỏa thuận trọng tài có thể là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước… nhưng các đối tượng này phải đủ năng lực hành vi dân sự, đủ thẩm
quyền theo pháp luật hoặc thẩm quyền theo ủy quyền thì thỏa thuận trọng tài
mới có hiệu lực.
- Điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài

Hình thức của thỏa thuận trọng tài là sự thể hiện ra bên ngoài sự thống
nhất ý chí giữa các bên. Theo pháp luật của hầu hết quốc gia, hình thức của
thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản với mục đích dựa vào hình thức của
thỏa thuận trọng tài để làm căn cứ xác nhận rằng thỏa thuận giữa các bên đã
đạt được. Yêu cầu hình thức văn bản đối với thỏa thuận trọng tài là nhằm đảm
bảo khả năng chứng minh một cách dễ dàng hơn về sự tồn tại của một thỏa
thuận trọng tài cũng như các nội dung chứa đựng trong đó. Một thỏa thuận chỉ
có giá trị pháp lý khi nó tuân thủ điều kiện về hình thức.
- Điều kiện về nội dung của thỏa thuận trọng tài
Ngoài các điều kiện về chủ thể ký kết và hình thức, thỏa thuận trọng
tài cần phải thỏa mãn các điều kiện về nội dung thì mới có hiệu lực.
Thứ nhất, tranh chấp phải phát sinh từ một mối quan hệ pháp lý xác
định. Tuy nhiên không phải một tranh chấp bất kỳ phát sinh giữa các bên đều
có thể đưa ra trọng tài giải quyết. Thỏa thuận trọng tài này phải liên quan đến
một mối quan hệ pháp lý cụ thể mà thông thường là hợp đồng giữa các bên.
Thứ hai, tranh chấp đó phải thuộc lĩnh vực có thẩm quyền giải quyết
của trọng tài. Không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết bằng trọng tài
dù các bên có tự nguyện thỏa thuận. Các tranh chấp liên quan đến các quyền

9


nhân thân, quan hệ hôn nhân, gia đình, thừa kế, phá sản…. thường là các
tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài.
1.1.4. Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài
Tính độc lập của thỏa thuận trọng tài thể hiện ở những điểm sau:
- Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng
không làm ảnh hưởng tới hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Nói cách khác,
hợp đồng có thể bị vô hiệu từng phần hoặc vô hiệu toàn bộ nhưng trong hai
trường hợp này cũng không tự động kéo theo sự vô hiệu của điều khoản trọng

tài [8, tr.22]. Như vậy khi hợp đồng vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài vẫn có
hiệu lực, cho phép xác định thẩm quyền của trọng tài giải quyết vụ tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng đó
- Luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài và luật điều chỉnh nội dung
hợp đồng trong các hợp đồng thương mại quốc tế là khác nhau. Chính vì tính
độc lập nên luật điều chỉnh nội dung hợp đồng và luật điều chỉnh thỏa thuận
trọng tài không cần thiết phải giống nhau. Việc xem xét luật điều chỉnh hiệu
lực của thoả thuận trọng tài phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng trọng tài
như, luật nơi tiến hành trọng tài, luật nơi phán quyết được tuyên, luật điều
chỉnh nội dung tranh chấp. Vì thế khi giao kết hợp đồng, đặc biệt là các hợp
đồng thương mại quốc tế, các bên nên thỏa thuận rõ luật điều chỉnh thỏa
thuận trọng tài để tránh những rắc rối có thể phát sinh trong quá trình tố tụng
trọng tài sau này.
- Nguyên tắc “thẩm quyền của thẩm quyền” cũng cho thấy tính độc
lập của thỏa thuận trọng tài. Theo nguyên tắc này thì Hội đồng trọng tài có
thẩm quyền xem xét thẩm quyền của chính mình. Việc xác định sự độc lập
của thỏa thuận trọng tài tạo cơ sở cho Hội đồng trọng tài xem xét hiệu lực của
hợp đồng. Nếu có khiếu nại của các bên về thỏa thuận trọng tài, Hội đồng

10


trọng tài sẽ tiến hành xem xét mình có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nữa
hay không.
Khoản 1 Điều 16 Luật Mẫu quy định: “…Điều khoản trọng tài trở
thành bộ phận của hợp đồng sẽ được coi là thỏa thuận độc lập với các điều
khoản khác của hợp đồng. Quyết định của ủy ban trọng tài về hợp đồngbị vô
hiệu không làm cho Điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo”.Theo quy định này
thì điều khoản trọng tài là độc lập với các điều khoản khác của hợp đồng.
Trường hợp hợp đồng vô hiệu thì điều khoản trọng tài cũng không bị vô hiệu

theo.
Tương tự Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng quy định: “Thỏa
thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng.Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ
hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài”.
Sở dĩ ngay cả khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản nằm trong
hợp đồng chính thì nó vẫn độc lập với hợp đồng chính vì thỏa thuận trọng tài
có đối tượng pháp lý là xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường
hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên, trong khi đối tượng của hợp đồng là
xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ pháp luật nhất
định.
Như vậy dù thỏa thuận trọng tài là một văn bản riêng biệt hay một
điều khoản trong hợp đồng thì thỏa thuận trọng tài cũng tồn tại độc lập với
hợp đồng, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không phụ thuộc hiệu lực hợp
đồng.
Tuy nhiên tính độc lập về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài với hợp
đồng chính cũng không phải là tuyệt đối mà là tương đối. Nếu nguyên nhân
dẫn đến hợp đồng chính và thỏa thuận trọng tài vô hiệu trùng nhau, ví dụ như
chủ thể ký kết không đủ thầm quyền theo quy định của pháp luật, thì khi hợp
11


đồng chính vô hiệu, thỏa thuận trọng tài với tư cách là một điều khoản trong
hợp đồng chính cũng vô hiệu.
1.2 . Khái quát về thỏa thuận trọng tài vô hiệu
1.2.1. Định nghĩa thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Các văn bản pháp luật không đưa ra định nghĩa cụ thể về thỏa thuận
trọng tài vô hiệu tuy nhiên có thể hiểu bản chất của thỏa thuận trọng tài vô
hiệu là thỏa thuận trọng tài rơi vào tình trạng mất hiệu lực ngay từ ban đầu.
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu khác với thỏa thuận trọng tài không còn

hiệu lực và thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được. Nếu thỏa thuận
trọng tài không còn hiệu lực tức là ban đầu thỏa thuận trọng tài đã từng có
hiệu lực nhưng hiệu lực đó đã không còn; thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được là thỏa thuận trọng tài không thể tiến hành được do các cản trở về
vật lý hoặc pháp lý thì thỏa thuận trọng tài vô hiệu tức là ngay từ ban đầu đã
mất hiệu lực.
1.2.2. Ý nghĩa của việc quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong các
văn bản pháp luật về trọng tài thương mại
Thỏa thuận trọng tài là kết quả của quá trình đàm phán, cân nhắc giữa
các bên, là bằng chứng cho thấy sự tự nguyện của các bên trong lựa chọn
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trọng tài, với tư cách là
một thiết chế tài phán tư, luôn tôn trọng sự tự nguyện của các bên tranh chấp.
Và thỏa thuận trọng tài chính là biểu hiện đầu tiên của sự tự nguyện thỏa
thuận đó. Cũng tương tự như một hợp đồng dân sự, tính hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài cũng rất cần được quy định rõ để đảm bảo thỏa thuận trọng tài
có đủ điều kiện pháp lý để được thực hiện.
Việc quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu có ý nghĩa quan trọng với
cả các bên tranh chấp khi soạn thảo thỏa thuận trọng tài và đồng thời tạo cơ sở
pháp lý cho Hội đồng trọng tài xác định thẩm quyền của mình cũng như Tòa
12


án khi cần đánh giá tính hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Đối với các bên khi
soạn thảo thỏa thuận trọng tài, quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu giúp
các bên tránh được các lỗi khiến thỏa thuận trọng tài vô hiệu dẫn tới tranh
chấp không giải quyết được bằng phương thức trọng tài. Quy định về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu là căn cứ để Hội đồng trọng tài xác định xem mình có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp không. Bên cạnh đó, khi thỏa thuận trọng
tài vô hiệu thì tòa án hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Nếu
trọng tài đã giải quyết thì quyết định trọng tài đó sẽ bị tòa án hủy theo quy

định của pháp luật.
1.2.3. Những trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Thỏa thuận trọng tài vô hiệu dẫn đến thẩm quyền giải quyết tranh chấp
của trọng tài bị loại bỏ. Công ước New York 1958 và Luật mẫu UNCITRAL
đều không có quy định cụ thể nào về định nghĩa cũng như các trường hợp
thỏa thuận trọng tài vô hiệu, vì vậy có thể dựa vào các điều kiện có hiệu lực
của thỏa thuận trọng tài để suy ra các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu.
- Chủ thể của thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền, không có đủ
năng lực hành vi dân sự hoặc bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Chỉ người có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật mới được
ký kết thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận do người không có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật ký kết sẽ trở nên không có hiệu lực.
Tương tự như vậy, những người không đủ năng lực hành vi dân sự
như người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế
năng lực hành vi dân sự nếu ký kết thỏa thuận trọng tài sẽ khiến thỏa thuận
trọng tài trở nên vô hiệu.
Nếu trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài, một bên bị bên kia
lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, sau đó có yêu cầu Tòa án tuyên bố thỏa thuận
trọng tài vô hiệu thì thỏa thuận trọng tài sẽ bị vô hiệu.
13


- Hình thức của thỏa thuận trọng tài không đáp ứng yêu cầu của luật
điều chỉnh
Pháp luật hầu hết các quốc gia quy định hình thức của thỏa thuận
trọng tài là văn bản hoặc các hình thức khác được coi là văn bản.Nếu thỏa
thuận trọng tài vi phạm quy định về hình thức xác lập thì thỏa thuận trọng tài
bị vô hiệu. Tuy nhiên khái niệm “văn bản” ở mỗi nguồn luật lại có những
điểm khác nhau. Đặc biệt theo Công ước New York, thỏa thuận trọng tài phải
bằng văn bản có chữ ký của các bên. Theo luật của các quốc gia thì quy định

này không phải là bắt buộc, miễn là thỏa thuận trọng tài được lập bằng văn
bản là đã thỏa mãn điều kiện về hình thức.
- Nội dung của của thỏa thuận trọng tài không đáp ứng yêu cầu của
luật điều chỉnh
+ Tranh chấp phát sinh không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài
Không phải mọi tranh chấp đều có thể giải quyết bằng trọng tài.Vì vậy
dù thỏa thuận trọng tài thỏa mãn các điều kiện về chủ thể và hình thức nhưng
nếu tranh chấp không nằm trong thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng
tài thì thỏa thuận này cũng được coi là vô hiệu. Dù các bên có tự nguyện thỏa
thuận dùng trọng tài để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau thì
thảo thuận này cũng bị coi là vô hiệu nếu những loại tranh chấp này không
được pháp luật cho phép giải quyết bằng trọng tài.
Thoả thuận trọng tài về vụ tranh chấp thuộc lĩnh vực mà pháp luật
quy định không thuộc thẩm quyền của trọng tài, có thể xảy ra các trường
hợp sau:
Thứ nhất, theo pháp luật quốc gia A tranh chấp không thuộc lĩnh
vực mà trọng tài có thẩm quyền, song theo pháp luật quốc gia B, tranh chấp
đó thuộc lĩnh vực mà trọng tài có thẩm quyền;

14


Thứ hai, theo pháp luật cả quốc gia A và quốc gia B, tranh chấp
đều không thuộc lĩnh vực mà trọng tài có thẩm quyền.
Trong trường hợp đầu tiên, nếu thoả thuận trọng tài của các bên ghi
chọn trọng tài thường trực của quốc gia A, thì khi đó thoả thuận trọng tài bị
coi là vô hiệu về mặt nội dung, bởi theo pháp luật quốc gia A, tranh chấp
không thuộc lĩnh vực mà trọng tài có thẩm quyền. Song cũng trong trường
hợp này, các bên thoả thuận chọn trọng tài thường trực của quốc gia B thì
khi đó thoả thuận trọng tài vẫn được coi là có giá trị pháp lý về mặt nội

dung. Tuy nhiên, nếu quyết định cuối cùng của trọng tài cần được công nhận
và thi hành ở quốc gia A thì khi đó bên được thi hành sẽ không thể hy vọng
vào sự ra quyết định về vấn đề đó của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A
nếu như bên phải thi hành không tự nguyện thực thi quyết định.
Trong trường hợp thứ hai, thoả thuận trọng tài sẽ bị coi là vô hiệu về
mặt nội dung, điều này không phụ thuộc vào việc các bên tranh chấp đã ghi
trong thoả thuận trọng tài đã nêu là chọn trọng tài thường trực quốc gia A hay
quốc gia B hoặc trọng tài sự vụ được thành lập ở một trong hai quốc gia trên.
Theo khoản 1 Điều II và khoản 2 Điều V của Công ước New York
1958, việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài có thể bị từ chối nếu cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia, nơi việc công nhận và thi hành đó được
yêu cầu, cho rằng: Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được
bằng trọng tài theo luật pháp của nước đó; hoặc việc công nhận và cho thi
hành quyết định sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó. Qua đó có thể thấy,
thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phụ thuộc vào quy định của
luật pháp từng quốc gia. Thông thường, các vấn đề không được áp dụng trọng
tài là: các vấn đề về tình trạng cá nhân, tranh chấp về phát minh, nhãn hiệu
hàng hóa và bản quyền, luật cạnh tranh, tranh chấp về bảo hiểm, tham nhũng,
phá sản, tranh chấp về cấm vận, một số tranh chấp về quan hệ lao động ....
15


Pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều quy định cho
trọng tài thẩm quyền rất rộng. Việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của trọng tài, pháp luật các nước có thể dùng phương pháp loại trừ, tức
là pháp luật chỉ liệt kê những loại việc không thuộc thẩm quyền của trọng tài
như tại Điều 5 Luật Trọng tài Newzerland: “Mọi quyền tùy thuộc vào các bên
có thể được giải quyết bằng trọng tài, trừ trường hợp phụ thuộc vào quyền xét
xử bắt buộc dành riêng cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật”. Ngoài ra có thể quy định thẩm quyền trọng tài bằng cách kết

hợp các quy định cho phép lẫn quy định loại trừ, ví dụ như Luật Trọng tài
Trung Quốc quy định mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc quyền sở
hữu giữa các công dân, pháp nhân hoặc các tổ chức khác trên cơ sở bình đẳng
có thể được giải quyết bằng trọng tài (Điều 2) đồng thời loại trừ các tranh
chấp không được giải quyết bằng trọng tài bao gồm các tranh chấp liên quan
đến hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ và thừa kế, tranh chấp hành chính
(Điều 3) [8, tr.22]. Theo Điều 2 của Luật Trọng tài Nhật Bản thì các bên có
thể đưa ra trọng tài giải quyết tất cả các tranh chấp dân sự đã phát sinh hay có
thể phát sinh không kể có hợp đồng hay không có hợp đồng.
+ Tranh chấp không phát sinh từ quan hệ pháp lý xác định
Khoản 1 Điều 2 Công ước New York và Khoản 1 Điều 7 Luật mẫu
UNCITRAL quy định rằng thỏa thuận tranh chấp đưa ra trọng tài phải phát
sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là
quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng.
Trên thực tế, quan hệ dân sự, thương mại rất đa dạng và phong
phú.Phần lớn các quan hệ có thể xác định bằng hợp đồng cụ thể được ký kết
giữa các bên nhưng cũng có nhiều tranh chấp không phát sinh từ quan hệ hợp
đồng. Ví dụ như đền bù thiệt hại ngoài hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng,
hàng hải, vận tải…Như vậy nếu thỏa thuận trọng tài không giới hạn lại phạm
16


vi đối với tranh chấp phát sinh từ một quan hệ pháp lý cụ thể thì thỏa thuận
trọng tài cũng vô hiệu.
1.2.4. Hậu quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài vô hiệu
Hậu quả của thỏa thuận trọng tài vô hiệu là tranh chấp không thể giải
quyết bằng trọng tài. Nhưng tùy vào từng thời điểm phát hiện thỏa thuận
trọng tài vô hiệu trong cả quá trình tố tụng mà sẽ dẫn tới những hậu quả pháp
lý khác nhau.
-


Khi xem xét thụ lý đơn kiện

Điều 2 Công ước New York 1958 quy định: “Toà án của một Quốc
gia thành viên, khi nhận được một đơn kiện về một vấn đề mà đối với vấn
đề đó các bên đã có thoả thuận theo nội dung của điều này, sẽ, theo yêu
cầu của một bên, đưa các bên tới trọng tài, trừ khi Toà án thấy rằng thoả
thuận nói trên không có hiệu lực, không hiệu quả hoặc không thể thực hiện
được”.Điều đó có nghĩa là khi tranh chấp phát sinh nhưng quá trình tố tụng
trọng tài chưa diễn ra, nếu một bên nhận thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu
có thể khởi kiện ra Tòa án, khi đó Tòa án có thẩm quyền bác bỏ thỏa thuận
trọng tài và thụ lý vụ án.
Khi tranh chấp đã được trọng tài thụ lý nhưng chưa giải quyết, Hội
đồng trọng tài trước tiên phải xem xét hiệu lực của thỏa thuận trọng tài và
thẩm quyền của mình. Nếu thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc tranh chấp
không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thì tổ chức trọng tài từ chối
thụ lý vụ việc. Khi đó một bên tranh chấp có quyền khởi kiện ra Tòa án.
-

Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp
Trong quá trình giải quyết tranh chấp mà thỏa thuận trọng tài bị

phát hiện là vô hiệu thì Hội đồng trọng tài phải ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ việc. Nếu các bên không đồng ý với quyết định về thẩm quyền của
Hội đồng trọng tài, các bên tranh chấp có quyền gửi đơn khiếu nại ra Tòa án,
17


yêu cầu xem xét và quyết định thẩm quyền của trọng tài với việc giải quyết
tranh chấp. Trường hợp Tòa án kết luận thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì đây là

quyết định cuối cùng, Hội đồng trọng tài sẽ phải ngừng việc giải quyết tranh
chấp và nếu các bên không có thỏa thuận gì khác thì có thể khởi kiện tranh
chấp ra Tòa án giải quyết.
-

Khi Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết
Nếu nhận thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi tranh chấp đã được

giải quyết bằng trọng tài, một bên có thể gửi đơn yêu cầu hủy quyết định
trọng tài tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành quyết định
trọng tài được yêu cầu.Việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài sẽ bị
từ chối khi có bằng chứng chứng minh thỏa thuận trọng tài không có hiệu lực
hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Khi đó, các bên tranh chấp có thể đưa ra
thỏa thuận trọng tài mới hoặc đưa tranh chấp ra Tòa án giải quyết.
Như vậy, có thể thấy thỏa thuận trọng tài vô hiệu ở những thời điểm
khác nhau gây nên những hậu quả khác nhau. Nhưng nhìn chung, thỏa thuận
trọng tài vô hiệu tại bất kỳ thời điểm nào cũng đều làm cho trọng tài không
còn thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nữa và tòa án hoàn toàn có thẩm
quyền nếu các bên không có thỏa thuận khác.
1.2.5. Pháp luật về thỏa thuận trọng tài vô hiệu trên thế giới
1.2.5.1. Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo Công ước New York
1958
Công ước New York là trung tâm của các hiệp ước và luật trọng tài
nhằm đảm bảo việc công nhận phán quyết trọng tài và thỏa thuận trọng tài.
Tuy nhiên trong Công ước New York không có định nghĩa trực tiếp về thỏa
thuận trọng tài vô hiệu mà nêu ra điều kiện để thỏa thuận trọng tài được công
nhận: “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản
theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có
18



thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ
hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết
được bằng trọng tài”.
Từ quy định trên có thể rút ra được các điều kiện để thỏa thuận trọng
tài có hiệu lực như sau:
- Thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản
Điều II của Công ước New York 1958 quy định rất rõ: “Thuật ngữ
“thoả thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp
đồng hoặc một thoả thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc được ghi trong
thư tín trao đổi”. Như vậy, thỏa thuận trọng tài ở đây được hiểu là một điều
khoản trong hợp đồng (điều khoản trọng tài) hoặc một thỏa thuận ngoài hợp
đồng (thỏa thuận trọng tài riêng biệt). Điều kiện “bằng văn bản” theo như
Công ước New York quy định có hai khả năng: thỏa thuận được ký kết trực
tiếp hoặc được chứa đựng trong thư từ, điện tín do các bên trao đổi.Tóm lại
thỏa thuận trọng tài không vô hiệu phải là điều khoản trọng tài trong hợp đồng
hoặc thỏa thuận trọng tài riêng biệt được ký kết trực tiếp hoặc được chứa
đựng trong thư từ, điện tín do các bên trao đổi.Có thể hiểu những thỏa thuận
trọng tài không thỏa mãn hình thức “bằng văn bản” như ký kết bằng lời, hoặc
được chấp thuận bằng lời, bằng ngụ ý hoặc bằng bất cứ phương thức nào khác
sẽ được coi là vô hiệu. Tuy nhiên quy định trong Công ước New York 1958
chưa đề cập được đến những phương thức liên hệ mới trong giao dịch kinh
doanh hiện nay như email, fax...
- Thỏa thuận trọng tài giải quyết các tranh chấp phát sinh ở hiện tại
hoặc tương lai
Điều II Công ước New York 1958 nói rằng thỏa thuận trọng tài là cam
kết của các bên đưa ra trọng tài giải quyết những tranh chấp “đã hoặc có thể
phát sinh”. Như vậy dù là tranh chấp phát sinh trong quá khứ hay tương lai
19



đều có thể được giải quyết bằng trọng tài nếu giữa hai bên có một thỏa thuận
thể hiện sự nhất trí giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Với những tranh chấp
được dự đoán có thể xảy ra trong tương lai, các bên thường sẽ đưa thỏa thuận
trọng tài trở thành một điều khoản trong hợp đồng (còn gọi là Điều khoản
trọng tài); với những tranh chấp đã xảy ra trong quá khứ, các bên sẽ lập thành
một thỏa thuận trọng tài riêng (còn gọi là thỏa thuận trọng tài riêng biệt). Điều
khoản trọng tài hướng về tương lai còn thỏa thuận trọng tài riêng biệt hướng
về quá khứ.
- Các tranh chấp phải phát sinh từ một quan hệ pháp lý xác định
Để thỏa thuận trọng tài không vô hiệu thì tranh chấp phát sinh giữa các
bên phải từ “một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay
không”. Trong giao dịch thương mại, dù quan hệ pháp lý chủ yếu giữa các
bên là quan hệ hợp đồng nhưng vẫn có những trường hợp tranh chấp không
phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Các tranh chấp phát sinh từ một quan hệ pháp
lý xác định là một trong các điều kiện cần để thỏa thuận trọng tài có hiệu lực.
- Các tranh chấp liên quan đến vấn đề có khả năng giải quyết được
bằng trọng tài
Dù thỏa thuận trọng tài là sự tự nguyện thỏa thuận giữa các bên nhưng
không phải tranh chấp nào cũng có thể giải quyết bằng trọng tài. Tuy nhiên
Công ước New York 1958 không đưa ra những lĩnh vực cụ thể không thuộc
thẩm quyền của trọng tài mà chỉ đưa ra quy định chung nhất. Về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp của trọng tài, mỗi quốc gia thường quy định vấn đề nào
có thể và không thể giải quyết bằng trọng tài cho phù hợp với chính sách kinh
tế, chính trị, xã hội của quốc gia đó.
Một cách gián tiếp thông qua mối quan hệ giữa hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài và việc công nhận và thi hành quyết định trọng tài, Công ước New
York 1958 cũng đề cập đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu tại Điều V.1(a):
20



“1. Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu
cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm
quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng:
(a) Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theoluật áp dụng đối với các
bên, không có đủ năng lực, hoặc thỏa thuận nói trên không có giá trị theo luật
mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật
của Quốc gia nơi ra quyết định”
Theo quy định này có thể nhận ra hai điều kiện khác của một thỏa
thuận trọng tài có hiệu lực:
- Các bên trong thỏa thuận trọng tài phải có năng lực pháp luật theo
luật áp dụng đối với các bên.
- Thỏa thuận trọng tài phải có hiệu lực theo luật các bên đã lựa chọn
áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Nếu các bên không lựa chọn luật áp dụng
cho thỏa thuận trọng tài thì theo luật của quốc gia nơi ra quyết định trọng tài.
Tóm lại, từ các phân tích về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài, ta có thể
suy ra có bốn trường hợp dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo Công ước
New York 1958 như sau:
- Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại
Điều II của Công ước;
- Các tranh chấp không phát sinh từ mối quan hệ pháp lý xác định dù
quan hệ giữa các bên có là mối quan hệ hợp đồng hay không;
- Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Trọng tài;
- Các bên trong thỏa thuận trọng tài không có năng lực pháp luật theo
luật áp dụng đối với các bên.

21



1.2.5.2. Quy định về thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo Luật mẫu UNCITRAL
Luật mẫu UNCITRAL cũng đưa ra những quy định tương tự như
Công ước New York 1958 về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên,
trong Luật mẫu, phạm vi của thuật ngữ “thỏa thuận bằng văn bản” được mở
rộng tại Điều 7 Khoản 2: “Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản.
Thoả thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết
hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, điện báo, điện tín hoặc các hình thức trao
đổi viễn thông khác có ghi nhận sự thoả thuận đó hoặc qua trao đổi về đơn
kiện và bài bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên
đưa ra và bên kia không phủ nhận. Nội dung của hợp đồng đề cập tới văn bản
có chứa đựng điều khoản trọng tài tạo ra thoả thuận trọng tài với điều kiện
hợp đồng này phải lập bằng văn bản và nội dung được viện dẫn trong hợp
đồng là một phần của hợp đồng này.”
Có thể thấy hai điểm khác biệt, hay đúng hơn là sự tiến bộ của Luật
mẫu UNCITRAL so với Công ước New York 1958 nằm ở hai điểm sau:
- Hiện nay phương tiện liên lạc đã có nhiều thay đổi lớn cùng với sự
phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông.Trước đây điện tín là phương
tiện truyền tin bằng văn bản phổ biến thì nay được thay thế bằng những
phương tiện mới như fax, thư điện tử (email)…. Để không bị chậm nhịp so
với sự phát triển của các phương tiện liên lạc, Luật mẫu UNCITRAL quy định
bất cứ phương tiện viễn thông nào “ghi nhận thỏa thuận” đều thỏa mãn quy
định về thỏa thuận bằng văn bản.
- Một điều khoản trọng tài trong văn bản xác nhận mua hoặc bán nếu
được chấp thuận bằng ngụ ý sẽ không thỏa mãn điều kiện về hình thức theo
như quy định tại Công ước New York 1958 nhưng theo Luật mẫu
UNCITRAL thì “khi một bên tham gia vào một quá trình tố tụng trọng tài mà

22



×