Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (857.44 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG THỊ THU CÚC

TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH LẠNG SƠN
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ Luật
học “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” là hoàn toàn trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài
liệu trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn



Lương Thị Thu Cúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI
PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY……………………………………5
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy………………………………………………………………………...5
1.2. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999…………………………………………………...…11
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1999…………………………………………………………………………………...17
Chương 2: ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH LẠNG SƠN…………………………………………………………......22
2.1. Định tội danh tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn……………………………………………………22
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn………………………………..…47
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY……………...63
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy………………...…63
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội
tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy………………66

KẾT LUẬN………………………………………………………………………..…77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC VIẾT TẮT

ADPL

Áp dụng pháp luật

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BCA

Bộ Công an

BLDS

Bộ luật dân sự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


BTP

Bộ Tư pháp

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CTTP

Cấu thành tội phạm

HĐTP

Hội đồng thẩm phán

QĐHP

Quyết định hình phạt

QPPL

Quy phạm pháp luật

QPPLHS

Quy phạm pháp luật hình sự

TANDTC


Tòa án nhân dân tối cao

THTP

Tình hình tội phạm

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

WHO

Tổ chức y tế thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1. Bảng 2.1 Diễn biến tình hình tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
(2011 – 2015)………………………………………………………………………....26
2. Bảng 2.2 Thống kê số bị cáo bị xét xử theo các khoản khác nhau theo Điều 194
BLHS trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (2011 – 2015)……………………………………..27
3. Bảng 2.3. Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn (2011 –
2015)…………………………………………………………………………………..51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một tỉnh vùng núi biên giới phía Đông Bắc của Việt Nam, tỉnh Lạng Sơn có
diện tích 8.323,78 km2 với 11 huyện, thành phố, trong đó có 5 huyện giáp biên giới,
dân số khoảng 727.535 người bao gồm nhiều dân tộc khác nhau như Kinh, Tày, Nùng,
Dao….Phía Bắc giáp với tỉnh Cao Bằng , phía Đông giáp với khu tự trị Quảng Tây –
Trung Quốc, phía Đông Nam giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây Nam giáp tỉnh Bắc Kạn
và Thái Nguyên. Lạng Sơn là tỉnh có chung đường biên giới với Trung Quốc dài
253km, có cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị và ga đường sắt quốc tế liên vận Đồng Đăng,
có nhiều cửa khẩu và cặp chợ đường biên thông thương với Trung Quốc như Tân
Thanh, Cốc Nam, Chi Ma, Bình Nghi, Na Hình, Bảo Lâm và nhiều đường mòn, đường
tắt cư dân hai nước biên giới thường xuyên qua lại. Lạng Sơn có vị trí chiến lược về an
ninh quốc phòng và giao lưu văn hóa thương mại giữa hai nước Việt Nam – Trung
Quốc, nằm trong vành đai kinh tế trọng điểm Nam Ninh – Hà Nội – Hải Phòng và
đồng thời là cửa ngõ của nước bạn nối xuống ASEAN.
Là một tỉnh miền núi có đường biên giới đường bộ khá dài với địa hình tương
đối thuận lợi cho việc thông thương, xuất nhập cảnh sang Trung Quốc nên từ trước
đến nay Lạng Sơn luôn là điểm nóng của các loại tội phạm như buôn lậu, mua bán
người, vận chuyển tiền giả…. đặc biệt là các tội phạm về ma túy. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng về mặt lập pháp và tổ chức lực lượng đấu tranh nhưng tình hình tội phạm về
ma túy có xu hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, có sự câu
kết chặt chẽ hình thành đường dây mua bán, vận chuyển ma túy lớn. Tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, nhưng vì lợi nhuận của ma túy
đem lại rất lớn nên tội phạm về ma túy vẫn có chiều hướng gia tăng trong những năm
gần đây, kéo theo hàng loạt các vấn đề như sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức, các tệ

nạn xã hội phát sinh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chính trị, trật tự và an toàn
xã hội.
Thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn đã đạt được những kết quả nhất định, phát huy

1


hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó còn tồn tại
những hạn chế, sai sót như một số vụ án chưa đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm
tội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra, nhiều bản án tuyên
khác với điều khoản, khung hình phạt và Viện kiểm sát đã truy tố sau đó bị kháng nghị
và phải chờ hướng giải quyết…. dẫn đến chất lượng và hiệu quả chưa cao. Quy định
về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trong
BLHS Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập gây ra những khó khăn, vướng mắc cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đối với loại tội phạm này.
Từ các lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Lạng Sơn” làm nội dung nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Tác giả đã tham khảo: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), GS TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội năm 2014; Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), GS – TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội năm 2014; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, (2007) GS – TS Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên), Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội; “Hoàn thiện một số quy định về hình phạt của BLHS năm 1999
nhằm đảm bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự” (2008) - PGS.TS Hồ
Sỹ Sơn, Luật học…….
- Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khác: Luận án tiến sĩ luật học của
Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy ở Việt Nam ”
năm 2007; luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Quang Hóa “Tội tàng trữ, vận chuyển,

mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Hải Dương” năm 2015…..
Các công trình nghiên cứu trên có giá trị liên quan đã được tác giả tham khảo
khi thực hiện đề tài: “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn”.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Mục đích nghiên cứu của đề tài này là hoàn thiện pháp luật hình
sự, bao gồm hoàn thiện quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy và các văn bản hướng dẫn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được các mục đích như đã nêu trên, tác giả đặt ra các
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề về lý luận và pháp luật về tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam. Khái quát
lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
- Khái quát những vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt, đánh
giá hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn từ năm
2011 đến năm 2015.
- Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ
thực tiễn tỉnh Lạng Sơn từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử tội tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu. Về lý luận: Nghiên cứu quy định tại Điều 194 BLHS

năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy; đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật
hình sự và Tố tụng hình sự.
- Về thực tiễn: Nghiên cứu thực tiễn xét xử tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy từ năm 2011 đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước, pháp luật và những chủ trương, đường lối của Đảng,

3


Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống ma túy. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đặc thù như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…để giải quyết những vấn đề khoa học
được đặt ra từ nội dung đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo quy định của
BLHS Việt Nam năm 1999, có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
học tập và nghiên cứu của học viên. Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy nói chung và trên địa
bàn tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.

- Chương 2: Áp dụng các quy định về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
- Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của
pháp luật hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HOẶC CHIẾM ĐOẠT CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
1.1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy
Khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy gắn rất chặt với khái niệm ma túy. Tuy nhiên trên thế giới hiện nay chưa có khái
niệm thống nhất về ma túy hay chất ma túy.
Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới: Ma túy là chất độc, khi xâm nhập
vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng. Năm 1982 WHO đã phát triển định nghĩa
ma túy như sau: “Ma túy theo nghĩa rộng nhất là mọi thực thể hóa học hoặc là những
thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì một sức khỏe bình
thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến đổi chức năng sinh học ” [ 45].
Về quy định của pháp luật Việt Nam, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái
niệm chất ma túy :
Theo từ điển Tiếng Việt thì ma túy là những chất thuốc làm đê mê tinh thần,

cảm giác bạc nhược hay buồn ngủ, phần nhiều rút trong á phiện [41].
Theo quy định của Luật phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi năm 2008) thì:
“Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh
mục do Chính phủ ban hành”. Đồng thời Luật cũng giải thích: “Chất gây nghiện là
chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng
nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng”.[36]

5


Thông tư liên tịch số 17/ 2007/ TTLT – BCA – VKSNDTC – TANDTC – BTP
ngày 24 tháng 12 năm 2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ tư pháp đưa ra khái niệm chất ma túy tương tự như Luật phòng
chống ma túy năm 2000 đó là: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần
được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành”. [1]
Các chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ Việt Nam ban
hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ – CP gồm có 235 chất ma túy, chia thành 3 danh
mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất chất ma túy [ 3].
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền quốc
phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân;
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa”.
Từ các khái niệm về chất ma túy nêu trên, khái niệm tội phạm quy định tại
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, khái niệm các tội phạm về ma túy và từ quy định tại
Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, có thể đưa ra khái niệm tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy như sau: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội

được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước và bị đe dọa áp
dụng hình phạt.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
* Khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ.
Vậy, khách thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy là chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về tàng trữ, vận chuyển, mua bán
các chất ma túy.

6


Đối tượng tác động của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy là các chất ma túy. Tại Thông tư liên tịch số 17/ 2007/ TTLT – BCA
– VKSNDTC – TANDTC – BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất
ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục
chất ma túy do Chính phủ ban hành”. Các chất ma túy được quy định trong danh mục
do Chính phủ Việt Nam ban hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ – CP. Các dạng ma túy
thường gặp ở nước ta là Hêrôin, Mooc phin, cần sa, thuốc phiện và một số loại ma túy
ở dạng thuốc tân dược như Dolagăng, Methamphetamine…….
* Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm: Hành vi
nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội….
Mặt khách quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy là tổng hợp những dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội do người

có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Đây là tội có cấu thành tội phạm hình thức,
tội phạm này được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một
trong các hành vi khách quan cụ thể sau:
- “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp
chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali,
cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo
người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất
ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.
Nếu tàng trữ trái phép chất ma túy cho người khác mà biết rõ người này mua bán trái
phép chất ma túy đó thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất
ma túy với vai trò đồng phạm.
- “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất
ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện
khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy….; trên các tuyến đường khác nhau như đường
bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong

7


người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi
xách…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma
túy khác. Người giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho người khác, mà
biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người đó thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
- “Mua bán trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:
+ Bán trái phép chất ma túy cho người khác (không phụ thuộc vào nguồn gốc
chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho người khác để
hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
+ Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
+ Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;

+ Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc vào
nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
+ Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy
nhằm bán lại trái phép cho người khác;
+ Tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác;
+ Vận chuyển trái phép chất ma túy nhằm bán trái phép cho người khác.
Nếu người nào đó có hành vi chào bán trái phép chất ma túy, thỏa thuận mua
bán về giá cả, địa điểm, thời gian để tiến hành việc mua bán nhưng chưa thực hiện
được việc mua bán thì cấu thành tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức cho người thực hiện một trong
các hành vi mua bán trái phép chất ma túy đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy.
Trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng làm người khác tưởng là
chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi… thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu TNHS về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
theo Điều 139 BLHS nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm
này. Trường hợp khác, sau khi giám định không phải là chất ma túy nhưng người thực
hiện hành vi mua bán ý thức rằng đó là chất ma túy thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo Điều 194 của BLHS năm 1999.

8


- “Chiếm đoạt chất ma túy” là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô,
lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của
người khác. Trường hợp người có hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm mục đích bán lại
chất ma túy đó cho người khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối
với hành vi đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
Nhà nước quản lý độc quyền về chất ma túy, vì vậy luật không quy định dấu
hiệu trái phép trong hành vi chiếm đoạt mà mọi hành vi của cá nhân nhằm có được

chất ma túy đều là bất hợp pháp. Chất ma túy bị chiếm đoạt có thể thuộc quyền quản
lý của Nhà nước hoặc đang do cá nhân khác chiếm giữ.
Ngoài những hành vi trên thì theo quy định tại mục 3.6 phần II Thông tư liên
tịch số 17/2007 còn quy định:
“3.6. Người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy
với số lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma
túy khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình
sự nhưng phải bị xử lý hành chính:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng dưới một gam;
b)Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng dưới không phẩy một gam;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng dưới một kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng dưới năm kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng dưới một kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới một gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ mười mililít trở xuống”. [ 1]
* Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy.
Theo quy định của luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là con người
cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy
định là tội phạm và thỏa mãn điều kiện có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS.
Ngoài ra ở một số tội phạm đặc biệt, để có thể thực hiện được hành vi khách quan của
tội phạm hay để phản ánh chính sách hình sự riêng của Nhà nước, chỉ coi là chủ thể
của tội phạm khi có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác như đặc điểm xấu về nhân thân

9


của chủ thể vì đặc điểm này mà hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định bị coi là tội
phạm. Đó là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Chủ thể của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất

ma túy cũng phải đảm bảo đủ các yếu tố (điều kiện) cần và đủ là độ tuổi và năng lực
TNHS quy định tại Điều 12, 13 BLHS. Đối với chủ thể của tội này không yêu cầu phải
là chủ thể đặc biệt, tuy nhiên trong từng khoản của tội danh, cần xác định độ tuổi chịu
TNHS cho đúng, cụ thể như sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy quy định tại
Khoản 1 Điều 194 BLHS, vì khoản 1 Điều 194 BLHS là tội phạm nghiêm trọng, và
theo quy định tại Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chỉ
người đủ 16 tuổi trở lên mới bị truy cứu TNHS về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 BLHS. Người từ đủ 14
tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 194
BLHS, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên khi truy cứu TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên cần phải lưu ý
đến vấn đề người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi “phạm tội nhiều
lần” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 194 BLHS vì theo hướng dẫn tại mục 10
Nghị quyết số 01/2006/ NQ – HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thì hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS có quy định:
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi mua bán trái
phép chất ma túy từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng
lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất
cả các lần đó đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều
194 BLHS thì họ không phải chịu TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy”. Như
vậy, không phải cứ người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi “phạm tội

10



nhiều lần” theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 194 BLHS cũng đều bị truy cứu
TNHS.
* Mặt chủ quan của tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy.
Mặt chủ quan là mặt bên trong của tội phạm bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ
và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức của người phạm
tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó đã thực hiện.
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được
thực hiện với lỗi cố ý, trong đó tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
bao giờ cũng thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, còn tội chiếm đoạt chất ma túy có thể
thực hiện với cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Động cơ, mục đích không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này.
1.2. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
Điều 194 BLHS 1999 có quy định 4 khung hình phạt. Khung hình phạt cơ bản
được quy định tại khoản 1 Điều 194 với mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
Khung hình phạt tăng nặng được quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194 có mức
hình phạt cao hơn mức hình phạt quy định tại khung hình phạt cơ bản. Theo đó phạm tội
thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 194 thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười
lăm năm; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 194 thì bị phạt tù từ
mười lăm năm đến hai mươi năm; phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4
Điều 194 thì bị phạt tù từ hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt bổ sung
đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được quy
định tại khoản 5 Điều 194, người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm.
Ngày 09/12/2000, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Phòng,
chống ma túy. Đây là đạo luật đầu tiên về phòng, chống ma túy và đã tạo cơ sở pháp lý
hiệu quả hơn trong việc đấu tranh, phòng ngừa tệ nạn ma túy.


11


Ngày 14/11/2015 Thông tư liên tịch số 08/2015/ TTLT – BCA – VKSNDTC – BTP
sửa đổi bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA- VKSNDTC
– TANDTC – BTP quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng Điều 194 nói riêng và chương
XVIII “các tội phạm về ma túy nói chung” của BLHS 1999. Thông tư này đã góp phần tháo
gỡ những vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án về ma túy.
* Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự
Khoản 1 Điều 194 là cấu thành tội phạm cơ bản của tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Khi một người thực hiện hành vi
phạm tội thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy nhưng không thuộc các tình tiết định khung tăng nặng
quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194 thì có thể bị xử phạt tù từ hai năm
đến bảy năm.
Khi quyết định hình phạt Tòa án căn cứ vào các quy định để quyết định hình
phạt được quy định tại chương VII, từ Điều 45 đến Điều 54 BLHS 1999.
* Khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự
Khung tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 7 năm đến 15 năm, với các tình tiết
định khung tăng nặng sau:
- Điểm a khoản 2 Điều 194 BLHS: Phạm tội có tổ chức
Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 quy định thì: “Phạm tội có
tổ chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ với những người cùng thực hiện
tội phạm ”. Như vậy, tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy có tổ chức là trường hợp có từ hai người trở lên cùng cố ý bàn bạc, phân công,
cấu kết chặt chẽ với nhau để thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
Trong phạm tội có tổ chức có các dạng người như người thực hành, người tổ
chức, người xúi giục, người giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện
hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Người tổ chức là

người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt
chất ma túy. Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác tàng trữ,
vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Người giúp sức là người tạo những

12


điều kiện về tinh thần hoặc vật chất cho việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm
đoạt chất ma túy. Trong trường hợp phạm tội có tổ chức tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt chất ma túy cần lưu ý có thể có tất cả những người đồng phạm, hoặc có
thể chỉ có hai người cùng cố ý thực hiện tội phạm, nhưng bắt buộc phải có người tổ chức
và người thực hành, đồng thời người thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đến đâu thì đồng bọn phải chịu đến giai đoạn đó và áp
dụng tình tiết có tổ chức với tất cả những người đồng phạm.
- Điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS: Phạm tội nhiều lần
Tiểu mục 2.3 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA –
VKSNDTC – TANDTC – BTP có giải thích cụ thể: “Phạm tội nhiều lần là phạm từ
hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng một
khoản của điều luật) tương ứng trong phần riêng BLHS, đồng thời đối với những tội
ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội vẫn chưa bị xét
xử”. Tình tiết “phạm tội nhiều lần” đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai
lần tàng trữ trái phép chất ma túy, hai lần bán trái phép chất ma túy…) mà mỗi lần
phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng,
đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự
và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại,
nếu điều luật có quy định về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt.
- Điểm c khoản 2 Điều 194 BLHS: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Điểm 2.1 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA –

VKSNDTC – TANDTC – BTP hướng dẫn tình tiết “lợi dụng chức vụ quyền hạn”
được hiểu là người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy đã dựa vào chức vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện
hành vi phạm tội.
Chủ thể của tội phạm là người phải có chức vụ, quyền hạn và hành vi tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy có liên quan trực tiếp đến
chức vụ, quyền hạn của họ, nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì khó có thể

13


thực việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Chức
vụ, quyền hạn của người phạm tội là điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hành vi
phạm tội. Nếu tội phạm do họ thực hiện không liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn
của mình thì dù có chức vụ, quyền hạn cũng không thuộc trường hợp phạm tội này.
- Điểm d khoản 2 Điều 194 BLHS: Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức
Điểm 2.2 mục 2 phần I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA –
VKSNDTC – TANDTC – BTP hướng dẫn tình tiết “lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức” được hiểu là người phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm
việc hoặc công tác để thực hiện hành vi phạm tội. Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức để tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là
trường hợp người phạm tội lợi dụng cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên để thực
hiện việc tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy.
- Điểm đ khoản 2 Điều 194 BLHS: Vận chuyển, mua bán qua biên giới
Vận chuyển ma túy qua biên giới là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma
túy bằng cách sử dụng bất kì phương tiện, cách thức, thủ đoạn nào để đưa chất ma túy
qua biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng Việt Nam hoặc vận chuyển ma
túy qua biên giới của một nước khác với một nước thứ ba mà không nhằm mục đích
mua bán hay sản xuất. Mua bán ma túy qua biên giới là hành vi mua bán, trao đổi,
thanh toán chất ma túy trái phép qua biên giới nước này với nước khác. Người nào vận

chuyển ma túy qua biên giới cho người khác mà biết mục đích của người đó là mua
bán trái phép chất ma túy thì cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái
phép chất ma túy qua biên giới với vai trò là đồng phạm. Tội phạm chỉ hoàn thành khi
người phạm tội đã vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy qua biên giới, nếu người
phạm tội có mục đích đưa chất ma túy qua biên giới nhưng vì lý do nào đó mà người
phạm tội chưa đưa được chất ma túy qua biên giới thì không áp dụng tình tiết này.
- Điểm e khoản 2 Điều 194 BLHS: Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc
bán ma túy cho trẻ em
Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội là trường hợp người phạm tội đã dụ dỗ, mua
chuộc, hăm dọa, khống chế, lôi kéo hoặc dùng bất kì thủ đoạn nào để người dưới 16
tuổi thực hiện một hoặc nhiều hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt

14


chất ma túy. Nếu xúi giục trẻ em thực hiện hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy mà người bị xúi giục là trẻ em chưa tới mức bị truy cứu
trách nhiệm hình sự thì người phạm tội vẫn bị coi là sử dụng trẻ em vào việc phạm tội.
Bán ma túy cho trẻ em là dùng ma túy mà mình có được bằng bất kì hình thức
nào để bán cho người dưới 16 tuổi để lấy tiền, tài sản hoặc bất kì lợi ích nào khác.
g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm
gam đến dưới một kilôgam;
h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;
i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam
đến dưới hai mươi lăm kilôgam;
k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai
trăm kilôgam;
l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi
kilôgam;
m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới

một trăm gam;
n) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ một trăm mililit đến dưới hai trăm năm
mươi mililit;
o) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm
n khoản 2 Điều này;
- Điểm p khoản 2 Điều 194 BLHS: Tái phạm nguy hiểm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS thì những trường hợp sau đây được
coi là tái phạm nguy hiểm: “a) Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do
cố ý”.
Tình tiết tái phạm nguy hiểm được hiểu là người bị kết án về tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thuộc trường hợp quy

15


định tại khoản 2 Điều 194 BLHS; hoặc đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm
tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Nếu người đã
bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án
tích mà lại phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy thuộc trường hợp quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 194 BLHS thì tình tiết “tái
phạm nguy hiểm” được áp dụng là tình tiết tăng nặng TNHS, không phải là tình tiết
định khung tăng nặng theo quy định tại điểm p, khoản 2 Điều 194 BLHS.
* Khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự
Khung tăng nặng thứ hai có mức hình phạt tù từ 15 đến 20 năm có một trong
các tình tiết tăng nặng sau:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một

kilôgam đến dưới năm kilôgam;
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm
kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm
kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một
trăm năm mươi kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba
trăm gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililit đến dưới bảy
trăm năm mươi mililit;
h) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản
3 Điều này.
* Khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự
Khung tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình
có một trong các tình tiết tăng nặng sau:

16


a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm
kilôgam trở lên;
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;
c) Lá, hoa, quả, cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm
kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên;

g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililit trở lên;
h) Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản
4 Điều này.
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1985
Sau khi dành được chính quyền, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được
thành lập ngày 02/9/1945. Chính phủ đã quan tâm đến công tác phòng, chống ma túy.
Ngày 05/3/1952 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 150/TTg quy định cụ
thể những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, theo đó tại Điều 1, 2, 3, 4 của
Nghị định quy định về khoanh vùng trồng cây thuốc phiện và việc xử lý đối với hành
vi vi phạm thể lệ quản lý cây thuốc phiện. Điều 5 của Nghị định cũng nghiêm cấm
hành vi tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu.
Đến ngày 22/12/1952, Thủ tướng Chính phủ lại tiếp tục ban hành Nghị định số
225/TTg quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện sẽ bị xử
phạt hoặc bị truy tố trước Tòa án nhân dân.
Ngày 15/9/1955, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 580/TTg
quy định các trường hợp có thể bị Tòa án đưa ra xét xử: Buôn lậu thuốc phiện có nhiều
người tham gia và thủ đoạn gian lận, tang vật có trị giá trên 1 triệu đồng, người buôn
bán thuốc phiện nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường xuyên chuyên nghiệp sau

17


khi đã bị phạt tiền nhiều lần mà còn vi phạm. Để cụ thể hóa đường lối xét xử đối với
hành vi phạm tội về thuốc phiện, ngày 13/9/1958 và ngày 07/5/1958 Bộ Tư pháp đã
ban hành Thông tư số 635 – VHH/HS và Thông tư số 33 – VHH/HS hướng dẫn đường
lối truy tố, xét xử những hành vi buôn lậu thuốc phiện.

Sau khi thống nhất đất nước, ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Nghị định 76 – CP về chống buôn lậu thuốc phiện, TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ
cũng đã ban hành các Thông tư hướng dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm nói chung và tội phạm buôn lậu thuốc phiện nói riêng. Nói chung trong
thời kì này các tội phạm về ma túy được Nhà nước ta quy định cụ thể trong các Nghị
định của Chính phủ, tuy nhiên các văn bản quy định vẫn còn rải rác, chất ma túy được
quy định mới chỉ là thuốc phiện và hình phạt được áp dụng đối với hành vi phạm tội
chủ yếu là hình phạt tiền.
Đến năm 1980, tình hình tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đặc biệt
là tình trạng mua bán, vận chuyển không chỉ có thuốc phiện mà còn là các chất ma túy
khác qua biên giới vào nước ta và từ nước ta đi một số nước trên thế giới, do ảnh
hưởng của các nước trong khu vực và các nước có cùng đường biên giới với nước ta.
Ngày 30/6/1982 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ,
buôn lậu, làm giả, kinh doanh trái phép, quy định mức hình phạt cao nhất là tử hình và
phạt tiền đến 10 lần giá trị hàng phạm pháp hoặc thu lợi bất chính. Hành vi buôn bán
ma túy được coi là hành vi buôn lậu.
1.3.2. Giai đoạn từ 1985 đến 1999
Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã thông qua BLHS năm 1985. Đây là Bộ
luật hình sự đầu tiên của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt. Theo đó BLHS
1985 chỉ có Điều 203 quy định riêng về “tội tổ chức sử dụng chất ma túy”. Hành vi
mua bán, vận chuyển trái pháp ma túy qua biên giới thì bị truy cứu TNHS theo Điều
97 BLHS quy định về “tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua
biên giới”. Nếu hành vi mua bán trái phép ma túy trong nội địa thì bị truy cứu TNHS
theo Điều 166 BLHS quy định về “tội buôn bán hoặc tàng trữ hàng cấm”, còn lại các
hành vi như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trái phép chất ma túy
trong nước không bị truy cứu TNHS. Do không đánh giá đúng tính chất đặc biệt nguy

18



hiểm của hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển thuốc phiện và các chất ma túy khác
nên ma túy mới chỉ được coi là đối tượng được pháp luật hình sự điều chỉnh ngang
hàng với ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, vàng bạc và chỉ quy định mức hình phạt cao
nhất đối với tội này là 20 năm tù.
Trước những bất cập đó, ngày 28/12/1989 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS, trong đó có bổ sung thêm Điều 96a quy định về “tội sản xuất, tàng trữ, mua
bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy” và được đặt trong Chương “các tội xâm
phạm an ninh quốc gia” với 03 khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt cao
nhất là tử hình đối với các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Điều 203 quy
định về “tội tổ chức dùng chất ma túy” với mức hình phạt cao nhất đến mười năm tù.
Sau khi BLHS được sửa đổi, bổ sung, tình hình tội phạm về ma túy vẫn không giảm
mà càng gia tăng và diễn biến vô cùng phức tạp, các quy định của pháp luật cũng
không thể đáp ứng đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy mặc dù
các cơ quan tiến hành tố tụng ở Trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử
lý hành vi có liên quan đến ma túy .
Hiến pháp 1992 được ban hành, Điều 61 của Hiến pháp quy định nghiêm cấm
sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma
túy khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy
hiểm khác.
Cụ thể hóa những tư tưởng của Hiến pháp, ngày 10/5/1997, tại kỳ họp thứ 11,
khóa IX một lần nữa Quốc hội lại sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS, trong đó các
tội phạm về ma túy được quy định bổ sung thành một chương riêng (là chương VIIA)
gồm 14 điều, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan ma túy, đã quy định tương đối
đầy đủ các hành vi phạm tội mà thực tiễn đấu tranh đã đặt ra. Trong đó tội tàng trữ trái
phép chất ma túy, tội vận chuyển trái phép chất ma túy, tội mua bán trái phép chất ma
túy, tội chiếm đoạt chất ma túy được quy định thành các tội độc lập, các chất ma túy
được đề cập trong điều luật không chỉ đơn thuần là thuốc phiện mà còn bao gồm cây
cô ca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy. Đặc biệt đã định lượng
hóa các chất ma túy làm căn cứ để truy cứu TNHS với những hình phạt nghiêm khắc


19


hơn, các khung hình phạt được quy định cụ thể hơn, ngoài khung cơ bản còn có khung
tăng nặng.
Ngày 02/01/1998 thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/BNV – VKSNDTC –
TANDTC được ban hành, thông tư hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1985. Tiếp đó, ngày 02/8/1998 thông tư liên tịch
số 02/1998/TTLT/BNV – VKSNDTC – TANDTC ban hành đã hướng dẫn chi tiết hơn
các quy định của tội phạm về ma túy, góp phần hoàn thiện các quy định của BLHS
1985. Chính sách hình sự mới thể hiện thái độ kiên quyết trừng trị nghiêm khắc các tội
phạm về ma túy, song hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh đã gây khó khăn cho thực tiễn
phòng, chống ma túy, do vậy việc sửa đổi BLHS 1985 chỉ là biện pháp tình thế.
Trong tình hình đất nước ta có nhiều biến đổi, theo đó là tình hình về kinh tế, xã
hội và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cũng có nhiều thay đổi, đòi hỏi
BLHS cần phải được sửa đổi toàn diện. Do đó, ngày 21/12/1999 Quốc hội khóa X, kì
họp thứ 6 đã thông qua BLHS 1999. BLHS 1999 đã có những thay đổi cơ bản mang
tính tương đối toàn diện, được xây dựng trên cơ sở có kế thừa những nội dung tích
cực, hợp lý của BLHS 1985 qua 4 lần sửa đổi, bổ sung. BLHS 1999 trong đó có
chương XVIII quy định các tội phạm về ma túy gồm 10 điều luật, từ Điều 192 đến
Điều 201. BLHS 1999 đã ghép 04 hành vi phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy,
vận chuyển trái phép chất ma túy, mua bán trái phép chất ma túy, chiếm đoạt chất ma
túy được quy định tại các Điều 185c, 185d, 185đ và 185e của BLHS 1985 thành Điều
194 là “Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”. Cơ
sở để nhập bốn tội thành một tội quy định trong BLHS 1999 là vì trên thực tế các hành
vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán thường gắn liền với nhau. Trong hoạt động mua bán
có hoạt động tàng trữ, vận chuyển; trước khi tàng trữ thường là có hành vi mua bán;
tàng trữ ma túy thường là cũng có mục đích để bán; vận chuyển ma túy là để tàng trữ,
mua bán. Vì vậy trong nhiều vụ án rất khó để phân biệt đâu là vụ án tàng trữ, vụ án

nào là mua bán, vụ án nào là vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi chiếm đoạt
chất ma túy cũng có cấu trúc điều luật và hình phạt tương tự như các hành vi còn lại
cho nên việc nhập các tội này thành một tội quy định tại Điều 194 BLHS đã thể hiện
sự tiến bộ về kỹ thuật lập pháp và toàn diện trong việc quy định tội danh.

20


×