Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

skkn định hướng phát triển năng lực mở bài, kết bài cho học sinh qua bài “rèn kĩ năng mở bài, kết bài”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.03 KB, 11 trang )

A. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN
1. Tạo lập văn bản đối với một đề thi Ngữ văn theo hình thức tự luận là khâu cuối cùng
định giá năng lực kết quả của người dạy và người học. Vì vậy, hướng dẫn học sinh để các
em có kiến thức và kĩ năng tạo lập văn bản. Đặc biệt là phần mở bài và kết bài là một khâu
quan trọng chúng ta không thể không lưu tâm.
2. Đây là năm thứ 2 Bộ Giáo dục thực hiện kì thi THPT Quốc gia. Đó là một thử thách
lớn đối với người dạy và người học, hướng tới kiểm tra năng lực tư duy, chống học vẹt học
tủ, kết quả ảo. Vì vậy đề thi môn Ngữ văn ngày càng thay đổi. Đặc biệt trong câu Nghị luận
văn học chiếm 4 điểm của đề thi. Điều này có thể thấy qua đề thi 2015
“Người đàn bà bỗng chép miệng, con mắt như đang nhìn suốt cả đời mình.
-

Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách

mạng về đã đỡ đoi khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hang
tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…
-

Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? - Tôi bỗng hỏi một câu như lạc đề.

-

Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính- Bỗng mụ đỏ mặt- nhưng cái

lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật.
-

Vậy sao không lên bờ mà ở? - Đẩu hỏi.

-


Làm nhà trên đất ở một chỗ đâu có thể làm được cái nghề thuyền lưới vó? Từ ngày

cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho nhưng chẳng ai ở, vì không bỏ nghề được!
-

Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? - Tôi hỏi.

-

Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác

uống rượu… Giá mà lão uống rượu… thì tôi cũng đỡ khổ… Sau này con cái lớn lên, tôi mới
xin được lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…
-

Không thể nào hiểu được. Không thể nào hiểu được! - Đẩu và tôi cùng một lúc thốt

lên.
-

Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi

vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…
-

Phải, phải, bây giờ tôi đã hiểu- bất ngờ Đẩu trút một tiếng thở dài đầy chua chát-

trên thuyền phải có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo?
-


Phải- Người đàn bà đáp- Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú?
1


Lát sau mụ lại mới nói tiếp:
-

Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi

cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng
một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con,
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng
tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú
lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!- Lần đầu tiên trên khuôn mặt xấu
xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười- vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ.
-

Cả đời chị có một lúc nào thật vui không? - Đột nhiên tôi hỏi.

-

Có chứ, chú! Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.

(Trích Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu, Ngữ văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt
Nam, 2015, tr.75-76)
Cảm nhận của anh (chị) về nhân vật người đàn bà hàng chài trong đoạn trích trên. Từ đó,
bình luận ngắn gọn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người của nhà văn Nguyễn Minh
Châu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa”
Đề thi học kì I của Sở giáo dục đào tạo Nam Định:

Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con song nhỏ
2


Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Đề thi cuối năm của Sở Giáo dục đào tạo Nam Định
Về tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, có ý kiến cho rằng: “Dù bị đẩy đến hoàn cảnh khốn
cùng, nhưng người nông dân vẫn yêu thương nhau, khát khao hạnh phúc và hướng về tương
lai”. Bằng hiểu biết về tác phẩm “Vợ nhặt”, anh (chị) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

B. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
I.

Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

Bên cạnh việc đổi mới cách hỏi, cách thi, người dạy Ngữ văn phải hướng tới đối tượng học
sinh phong phú phức tạp
1. Phần lớn học sinh thụ động ỷ lại vào thầy cô: ghi bài, đọc chép. Sự thụ động này phần
lớn do học sinh đã quen học những bài văn mẫu nên khi đứng trước những đề bài khác là

không biết viết gì ngay ở phần mở bài đầu tiên.
2. Một bộ phận không nhỏ là học sinh hạn chề năng lực về môn Ngữ văn, hoặc với ý
thức làm bài cho xong để chống điểm liệt. Đặc biệt với cách ra đề và đáp án của Bộ hiện nay
là phải đảm bảo cấu trúc nghị luận.
3. Vì vậy với tôi việc rèn cho học sinh có kĩ năng viết đucợ phần mở bài và biết kết gói
lại vấn đề là rất quan trọng. Đầu xuôi thì đuôi mới lọt. Mở bài là bước tạo ấn tượng ban đầu
dẫn dắt người đọc vào một bài văn. Tuy nhiên đó lại là vấn đề rất khó khăn với học sinh
(theo khảo sát thực tế).
Phần kết bài, làm như thế nào để thâu tóm lại vấn đề, đồng thời tạo được ấn tượng cho
người đọc
II.

Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến
Hướng dẫn họ sinh rèn kĩ năng mở và kết bài trong bài văn nghị luận. (Ở sáng
kiến này chỉ áp dụng đối với nghị luận văn học)

1.

Cho học sinh nhận diện những yêu cầu của 2 phần này trong một bài văn

-

Hiểu rõ về chức năng của mở bài và kết bài trong bài văn nghị luận và có kĩ năng vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các kiểu mở bài, kết bài thông dụng.

-

Tự sửa và tránh các lỗi đã mắc, thường mắc khi viết mở bài và kết bài trong các bài
văn nghị luận.
3



2. Hướng dẫn cụ thể
*VIẾT PHẦN MỞ BÀI
- Cho học sinh đọc 3 mở bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tr.112; thảo luận theo
nhóm về đề bài: Phân tích giá trị nghệ thuật của tình huống truyện trong tác phẩm Vợ
nhặt cả Kim Lân.
Giáo viên định hướng:
+ MB 1: Không phù hợp vì không nêu được đề tài chính, nêu tiền đề quá rộng.
+ MB 2: nêu ngắn gọn đề tài, rõ rang, nổi bật.
+ MB 3: Nêu đúng đề tài, gợi hứng thú cho người đọc, dẫn dắt tự nhiên.
-

Cho học sinh đọc tiếp 3 phần mở bài sách giáo khoa Ngữ văn 12, tr.113-114 và thảo
luận về tính hấp dẫn của 3 mở bài đó.

+ MB 1: trích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, nêu tiền đề và lập luận xác đáng,
hấp dẫn bằng việc trích dẫn hai lời bất hủ trích trong hai abnr tuyên ngôn của Pháp và Mĩ
bằng thao tác so sánh tương đồng loại suy đi đến khẳng định vẫn đề.
+ MB 2: Bài viết của Chu Văn Sơn về bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm hấp dẫn bởi
so sánh nêu bật được đề tài.
+ MB 3: Bài viết của nhà giáo Đỗ Kim Hồi về tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao hay và
hấp dẫn khi đã đặt Nam Cao với các tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố để làm rõ
tầm quan trọng và tính chất độc đáo của đề tài.
Như vậy, mở bài có thể được trình bày theo nhiều cách tiếp cận từ vấn đề lien quan rồi
đến vấn đề trọng tâm, từ biểu hiện khác biệt đối lập với các vấn đề cần giải quyết đến nội
dung chính của bài làm, từ sự so snahs hai biểu hiện khác nhau của cùng một vấn đề. Mở bài
cũng có thể đi thẳng vào những nội dung mà đề bài yêu cầu.
-


Yêu cầu của phần mở bài:

+ Mở bài nhằm giới thiệu một cách khái quát vấn đề sẽ được triển khai, bàn bạc. Mở bài
hay, tự nhiên sẽ như một dòng chảy được khơi thông, ý văn sẽ được mở ra. Ngược lại, mở
bài lúng túng không trúng vấn đề sẽ khiến việc triển khai ý khó khăn, khó tạo ra sự lien
thông liền mạch.
+ Về hình thức: mở bài thường là một đoạn văn khoảng 5- 7 dòng.
+ Về nội dung:
4


Mở bài gồm hai phần: Phần dẫn dắt vào vấn đề và phần nêu vấn đề.
+ Thông thường mở bài đối với các tác phẩm văn học như phân tích, cảm nhận một đoạn
văn hay nhân vật thường viết như sau : tác giả + vị tí của tác giả trông nền văn học hoặc
phong cách + đề tài tiêu biểu+ tác phẩm tiêu biểu+ nêu đoạn văn, đoạn thơ, nhân vật mà đề
bài yêu cầu
+ Để viết phần mở bài không vướng mắc, học sinh cần phải nắm được những từ khóa về
mỗi tác giả.
Ví dụ với Thanh Thảo cần phải nhớ ông là một trong số nhà thơ tiêu biểu của thế
hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Hay với Quang Dũng, phải nhớ đó là nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, với hồn thơ
phóng khoáng, lãng mạn, hào hoa.
Với Nguyễn Trung Thành là nhà văn gắn bó máu thịt với mảnh đất Tây Nguyên
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.
-

Hướng dẫn học sinh viết mở bài cho 3 đề bài sau:

+ Đề 1: Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ qua hai tác phẩm
Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi và Rừng xà nu của Nguyễn Trung

Thành.
+ Đề 2: Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
(Tây Tiến- Quang Dũng)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Việt Bắc- Tố Hữu)

5


+ Đề 3: Bàn về nghệ thuật xây dựng hai chân dung phụ nữ điển hình, trong truyện ngắn Vợ
nhặt- Kim Lân, có ý kiến cho rằng “Chị vợ nhặt được khắc họa ở phương diện bên ngoài,
còn bà cụ Tứ lại hiện lên qua những khắc họa nội tâm bên trong”. Ý kiến của bạn?
Hướng dẫn học sinh làm
+ Đề bài 1: Hình ảnh những con người Việt Nam đã đi vào thơ ca với những phẩm chất cao
đẹp, cần cù trong lao động, nh hung trong chiến đấu. Văn thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ
đã khám phá, tìm tòi ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam. Rừng xà nu và Những đứa con
trong gia đình đều là hai tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh. Qua hai tác phẩm ta
thấy được những phẩm chất của con người Việt Nam được hiện lên rất rõ nét.
+ Đề bài 2: Trong cuộc đời ai cũng có ít nhất một niềm thương nỗi nhớ. Có lẽ vì thế mà nỗi
nhớ đã trở thành đề tài quen thuộc với các nhà thơ, nhà văn. Nếu trong Tây Tiến, Quang
Dũng nhớ da diết về thiên nhiên và con người Tây Bắc thì trong Việt Bắc là nỗi nhớ về
những năm tháng nghĩa tình cách mạng. Nỗi nhớ đó được thể hiện qua hai đoạn thơ sau:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

….
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
“Nhớ gì như nhớ người yêu

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
+ Đề bài 3: Kim Lân là một trong số những nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện
đại. Ông có sở trường viết truyện ngắn với đề tài nông thôn và những người dân quê. Vợ
nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc của Kim Lân được rút ra từ tập truyện Con chó
xấu xí. Truyện đã xây dựng thành công hai nhân vật phụ nữ .Về 2 nhân vật này có ý kiến cho
rằng”Chị vợ nhặt được khắc họa ở phươngdiện bên ngoài còn bà cụ Tứ lại hiện lên qua
những khắc họa nội tâm bên trong”.
→ Từ đây giáo viên rút ra những lỗi học sinh thường mắc phải:
+ Phần dẫn dắt nhiều khi không lien quan đến phần nêu.
+ Mở bài sáo rỗng dùng ngôn từ khoa trương.
+ Ý dẫn dắt không lien quan đến trọng tâm của bài.
6


+ Dẫn lan man dài dòng.
+ Trình bày chi tiệt, cụ thể nội dung lẽ ra chỉ triển khai ở phần thân bài.
*VIẾT PHẦN KẾT BÀI
- Học sinh tìm hiểu phần kết bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 12, tr 114-115, ngữ liệu 1.
+ KB1: Không phù hợp vì không chốt được vấn đề, phạm vi kết luận quá rộng so với đề tài,
thiếu phương tiện liên kết.
+ KB2: Phù hợp vì kết luận rõ ràng, khái quát được vấn đề, có dấu hiện liên kết rõ ràng.
- Học sinh tìm hiểu hai kết bài của ngữ điệu 2
+ KB1: KB có tính khái quát, khẳng định vấn đề, liên hệ mở rộng.
+ KB2: Củng cố liên hệ mở rộng, có sự khái quát vấn đề khá rõ ràng
- Vai trò của kết bài:
+ Kết bài là phần cuối của bài viết, có tính chất hô ứng với phần trên nhưng kh'ông phải là

một vế đối cứng nhắc.
+ Nếu ta coi mở bài có tính chất của một câu hỏi, thì kết bài có tính chất là một câu trả lời,
một cách trả lời. Phần kết bài không chỉ khẳng định vấn đề nghị luận mà còn có nghiệm vụ
giúp người đọc thấy được khả năng của vấn đề đã được giải quyết với những vấn đề khác,
với những thắc mắc tiếp tục được giải đáp. Điểu này chỉ có ý nghĩa khi nó thực sự cần thiết
đối với người đọc nếu không nó chỉ là phần liên hệ nhạt nhẽo, cứng nhắc.
→ Vì vậy kết bài nhầm tổng kết thâu tóm lại vấn đề đã được đặt ra ở mở bài và phát triển ở
thân bài, đồng thời khơi ngợi những nội dung cảm xúc nối tiếp cho người đọc từ những vấn
để đã nêu ra và giải quyết. Việc thâu tóm lại nội dung vấn đề không phải là lặp lại những gì
đã trình bày trong phần thân bài mà phải dùng một cách diễn đạt khái quát và ngắn gọn.
Việc khơi gợi, tạo những dư ba là lời đã hết nhưng ý vẫn không hết, vẫn khiến người đọc
trăn trở, day dứt tiếp nối những gì đã nêu và triển khai ở bài viết.
- Kết bài có thể được viết theo những cách thức sau:
+ Thâu tóm nội dung đã được trình bày trong toàn bộ bài viết.
+ Từ nội dung đã trình bày kêu gọi hành động.
+ Từ nội dung đã được trình bày gợi cho người đọc vấn đề mới.
+ Từ nội dung đã trình bày mở rộng vấn đề đã liên quan.
7


 Cần lưu ý: Lối viết sáng tạo luôn tìm thấy trong những khuôn mẫu, một cách thức thể
hiện mới không giống bất cứ khuôn mẫu nào. Đích đến của làm văn trong đó việc rèn
luyện viết mở bài, kết bài cũng là như thế.
- Hướng dẫn viết kết bài cho một số đề bài: Trở lại ba đề bài của phần viết mở bài.
+ KB1: “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của
Nguyễn Thi là những tác phẩm xuất sắc của văn học chống Mỹ ở Miền Nam. Mỗi tác phẩm
có một vẻ đẹp riêng, không khí riêng, cách nhìn riêng về hiện thực đấu tranh cách mạng và
nghệ thuật xây dựng nhân vật. Vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm lên linh hồn của dân
tộc góp phần làm cho tác phấm sống mãi với thời gian. Văn học thời kì chống Mỹ cứu nước
đã được nhịp sống của dân tộc lật giở lại, chúng ta không khỏi tự hào về những năm tháng

đất nước mình đã đi qua, về vẻ đẹp muôn đời của con người đất Việt.
+ KB2: Hai đoạn thơ đếu diễn tả những nỗi nhớ rất sâu đậm về một địa danh cụ thể gắn với
một vùng đất chan chứa kỉ niệm. Dù là nỗi nhớ “chơi vơi” hay nỗi nhớ “người yêu” thì
chúng ta đều nhận thấy mức độ sâu nặng trong tình cảm nhớ thương của hai nhà thơ. Họ
không chỉ nhớ về một nơi cụ thể mà nó còn là nơi cất dấu những kỉ niệm, những ân tình
kháng chiến, những gian khổ đã từng trải qua và hơn thế nữa còn là tình cảm quân dân gắn
bó. Từ đó có thể coi “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Việt Bắc” của Tố Hữu là hai thi
phẩm đặc sắc của thơ ca cách mạng. Thông qua cách thể hiện nỗi nhớ rất riêng biệt của
từng nhà thơ, chúng ta thấy được cá tính sáng tạo đặc biệt của họ và điều đó tạo nên dấu ấn
lâu bền trong lòng người đọc.
+ KB3: Bằng ngòi bút tài hoa khi khắc họa nhân vật, Kim Lân đã thể hiện lòng cảm thông
với số phận cùng quẫn của người nông dân trong nạn đói và thái độ ngợi ca trân trọng
những phẩm chất tốt đẹp của họ. “Vợ nhặt” xứng đáng là một truyện ngắn đặc sắc viết về
đề tài người nông dân trong văn học hiện đại Việt Nam.
- Hướng dẫn học sinh cách triển khai cụ thể:
+ Bước 1: Đọc kĩ đề bài, nhận diện đề rõ ràng, nhận diện đây là kiểu bài gì? Nghị luận về
một bài thơ, một đoạn thơ, một đoạn trích hay một tác phẩm văn xuôi. Nghị luận về một ý
kiến về văn học, hai ý kiến bàn về văn học; nghị luận về hai đoạn trích văn xuôi. Muốn viêt
tốt phần này đọc kỹ về phấn tiểu dẫn về tác giả trong sách giáo khoa.
+ Bước 2: Với từng kiểu bài cụ thể
8


• Với kiểu bài nghị luận về một đoạn thơ, một bài thơ, một đoạn trích, một tác phẩm
văn xuôi học sinh giới thiệu tác giả, tác phẩm, nội dung nghị luận (lưu ý phải đảm
bảo ngắn gọn, đúng, trúng) trích dẫn nội dung vấn đề cần nghị luận.
• Với kiểu bài nghị luận về hai đoạn thơ, hai đoạn trích: Học sinh giới thiệu từng tác
giả một, giới thiệu hai tác phẩm, tìm ra điểm chung của hai đoạn (viết một câu khái
quát) rồi trích dẫn vấn đề.
• Với kiểu bài nghị luận về một ý kiến, hai ý kiến: Ngoài phần giới thiệu về tác giả, tác

phẩm dứt khoát phải giới thiệu được một ý kiến, hai ý kiến đó vào trong phấn mở bài
Ví dụ: Đề thi chọn học sinh giỏi môn ngữ văn 12 năm 2016 của tỉnh Nam Định
“Tôi sẵn sãng gặp gió, gặp bào, gặp em
Nhưng sự hững hờ là tôi không chờ gặp”
Nếu Thanh Thảo “hững hờ” thì có viết được “Đàn ghi ta của Lorca”? Anh/ chị hãy làm
sáng tỏ.
Có thể mở bài như sau: Nhà thơ Tố Hữu cho rằng “thơ là điệu tâm hồn đi tìm đồng điệu”
Thơ phải dựa trên sự đồng cảm tri âm. Cũng như thế, nhà thơ Thanh Thảo từng viết ““Tôi
sẵn sãng gặp gió, gặp bào, gặp em - Nhưng sự hững hờ là tôi không chờ gặp” Chính sự
hững hờ không chờ gặp đó đã giúp Thanh Thảo thể hiện tình cảm, sự trân trọng của mình
trước nhân cách cao quý của F.G. Lorca trong bài thơ nhuốm màu tượng trưng siêu thực
“Đàn ghi ta của Lorca”
+ Bước 3: Phần kết bài
Cách kết bài ngắn gọn và phổ biến nhất học sinh thường làm:
• Khái quát nội dung, nghệ thuật của đoạn, của bài được nêu ra trong đề bài.
• Khằng định vị trí của bài, của đoạn trong sự nghiệp văn học của tác giả.
• Khẳng định vị trí của tác giả trong giai đoạn văn học.
(Lưu ý: Học sinh hay nhầm phần kết bài với phấn đánh giá ở trên)
Với đề bài về nghị luận về một ý kiến, hai ý kiến
• Khái quát nội dung của phần thân bài
• Một lần nữa trích dẫn lại một ý kiến, hai ý kiến

C. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI
9


I. Hiệu quả kinh tế (Giá trị làm lợi tính thành tiền): không có
II. Hiệu quả về mặt xã hội (Giá trị làm lợi không tính thành tiền)
1. Kiến thức: Học sinh có kiến thức, nắm vững kiến thức cơ bản, không còn lúng túng với
phần mở bài và kết bài, đặc biệt với những học sinh yếu. Tôi đã áp dụng sáng kiến này ở lớp

12A10 Trường THPT Mỹ Lộc, phần lớn học sinh yếu chỉ tham gia xét tốt nghiệp nhưng các
em đã không còn “ngại” khi bắt đầu một bài văn nữa.
Dưới đây là một số mở bài của học sinh 12A10
- Đề 1: Cảm nhận về đoạn thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
(Tây Tiến – Quang Dũng)
Phần mở bài của học sinh:
Quang Dũng là nhà thơ đa tài, ông làm thơ vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng người đọc biết
đến Quang Dũng nhiều hơn cả là một nhà thơ. Thi phẩm được đánh giá là đứa con đầu
lòng tráng kiện và hào hoa đó là Tây Tiến (1947). Cả bài thơ là nỗi nhớ về thiên nhiên miền
Tây Bắc và binh đoàn Tây Tiến. Nỗi nhớ đó được cụ thể trong đoạn thơ sau
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
( Bài làm của em Nguyễn Lan Hương 12A10)
- Đề 2: Về nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, có ý kiến
cho rằng “Việt là một cậu bé mới lớn, hồn nhiên, ngộc nghệch, vô tư”, ý kiến khác lại nhấn
mạnh “Việt là một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường”. Ý kiến của anh/ chị?
Bài viết của học sinh:
Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ, những nhân vật trong sáng tác của ông
thường là những người nông dân dũng cảm, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Ông là nhà văn
có biệt tài đi sâu vào tâm lý của nhân vật. Điều này được thể hiện ở nhân vật Việt trong tác
10


phẩm “Những đứa con trong gia đình”. Về nhân vật này có ý kiến cho rằng “Việt là một

cậu bé mới lớn, hồn nhiên, ngộc nghệch, vô tư” và ý kiến khác lại nhấn mạnh “Việt là một
chiến sĩ dũng cảm, kiên cường”
(Bài làm của Dương Quốc Nhật – 12A10)
2. Kỹ năng: Học sinh được rèn những kỹ năng nhận thức đề, kỹ năng sử dụng các thao tác
lập luận, kỹ năng đọc và nắm bắt kiến thức trong phần tiểu dẫn, kỹ năng hệ thống vấn đề, kỹ
năng vận dụng các đơn vị kiến thức liên quan giữa tác giả và tác phẩm, giữa tác phẩm và văn
học sử, lý luận văn học
3. Thái độ: Học sinh có thái độ học tập nghiêm túc, khoa học và có khát vọng tìm tòi.
Cam kết không chép, hoặc vi phạm bản quyền

11



×