Tải bản đầy đủ (.doc) (245 trang)

Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ quân đội nhân dân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 245 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận
án là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.
Tác giả luận án

Bùi Minh Đức


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Cán bộ sĩ quan
Điểm trung bình
Độ lệch chuẩn


Đơn vị thực nghiệm
Đơn vị đối chứng
Giá trị nghề nghiệp
Giá trị nghề nghiệp quân sự
Hạ sĩ quan
Hoạt động quân sự
Nhu cầu thành đạt
Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp
Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp quân sự
Nghề nghiệp quân sự
Quân đội nhân dân Việt Nam
Sĩ quan trẻ

CHỮ VIẾT TẮT
CBSQ
ĐTB
ĐLC
ĐVTN
ĐVĐC
GTNN
GTNNQS
HSQ
HĐQS
NCTĐ
NCTĐNN
NCTĐNNQS
NNQS
QĐNDVN
SQT



MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Chương 1 LÝ LUẬN VỀ NHU CẦU THÀNH ĐẠT NGHỀ
NGHIỆP CỦA SĨ QUAN TRẺ QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
1.1.
Lý luận về nhu cầu và nhu cầu thành đạt
1.2.
1.3.
Chương 2

Cấu trúc và các mặt biểu hiện nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5
13

34
34
55

67
77

2.1.

Tổ chức nghiên cứu

77

2.2.

Phương pháp nghiên cứu

81

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.

Thực trạng mức độ nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của
sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
Biện pháp tâm lý - xã hội nâng cao nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp cho Sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
Phân tích kết quả thực nghiệm

95

95
127
139
150

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

160

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

163

PHỤ LỤC

176
DANH MỤC CÁC BẢNG

164


STT
1.1

TÊN BẢNG
Các GTNNQS cơ bản SQT đang vươn tới

1.2


Biểu hiện mặt nhận thức NCTĐNN của SQT

61

1.3

Biểu hiện mặt thái độ NCTĐNNQS của SQT

62

1.4

Biểu hiện mặt hành vi NCTĐNN của SQT

63

1.5

Các nội dung khảo sát thực trạng NCTĐNN của SQT

65

1.6

Các yếu tố ảnh hưởng đến NCTĐ theo quan điểm B. Weiner

67

2.1


Bảng phân bố khách thể nghiên cứu

77

3.1

Mức độ các nội dung mặt nhận thức của NCTĐNN

97
100

3.3

Mối quan hệ giữa các nhóm SQT có thời gian mang quân hàm sĩ
quan khác nhau về mức độ mặt nhận thức NCTĐNN
Mức độ các nội dung mặt thái độ NCTĐNN của SQT

3.4

Mức độ các nội dung mặt hành vi NCTĐNN của SQT

108

3.5

Mối quan hệ giữa các nhóm SQT chức vụ khác nhau về mức
độ mặt hành vi NCTĐNN

110


3.2

3.6
3.7
3.8
3.9

Kiểm định phương sai mức độ NCTĐNN của SQT ở các nhóm
khác nhau
Đánh giá của CBSQ và tự đánh giá của SQT về mức độ
NCTĐNN của SQT
Tương quan chéo giữa mức độ NCTĐNN và mức độ hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ của SQT
Mối quan hệ giữa đánh của các nhóm khách thể nghiên cứu về
mức độ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của SQT

Trang
60

103

113
114
117
120

3.11

Mối quan hệ giữa các nhóm SQT về mức độ hoàn thành chức

trách, nhiệm vụ
Bảng ma trận xoay và hệ số ma trận thành phần của nội dung
các nhân tố ảnh hưởng tới NCTĐNN của SQT

3.12

Mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố chủ quan quan đến
NCTĐNN của SQT

132

3.13

Mức độ ảnh hưởng của nhóm yếu tố khách quan đến NCTĐNN
của SQT

136

3.10

3.14
3.15

Mức độ mặt nhận thức NCTĐNN của hai nhóm SQT trước tác động
thực nghiệm
Mức độ mặt nhận thức NCTĐNN của hai nhóm SQT sau tác động
thực nghiệm

122
128


150
153

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

TÊN BIỂU ĐỒ

Trang


3.1
3.2

Mặt nhận thức NCTĐNN của SQT thể hiện qua các item
Mặt thái độ NCTĐNN của SQT thể hiện qua các item

95
101

3.3

Mặt hành vi NCTĐNN của SQT thể hiện qua các item

107

3.4

Mức độ mặt hành vi NCTĐNN của SQT khác nhau chức vụ


110

3.5

Mức độ NCTĐNN của SQT

111

3.6

Tự đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chức trách của SQT
Phân bố các phương án tự đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ xây dựng tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng ở
đơn vị của SQT
Ảnh hưởng của mức độ NCTĐNN đến mức độ hoàn thành
chức, nhiệm vụ trong các nhóm SQT có chức vụ khác nhau
Phân bố lựa chọn của SQT về yếu tố trình độ nắm vững tri
thức, chuyên môn nghiệp vụ quân sự

115

Mức độ NCTĐNN của SQT ở ĐVTN và ĐVĐC đo lần 1

152

3.7
3.8
3.9
3.10

3.11
3.12
3.13

Mặt nhận thức NCTĐNN của SQT nhóm ĐVTN trước và sau tác
động thực nghiệm
Mặt nhận thức NCTĐNN của SQT nhóm ĐVĐC với hai lần đo
(trước và sau tác động thực nghiệm)
Mức độ NCTĐNN của SQT ở ĐVTN và ĐVĐC đo lần 2

116
125
133

154
155
156

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT

TÊN SƠ ĐỒ

Trang

1.1

Cấu trúc NCTĐNN của SQT QĐNDVN

57


1.2

Các biểu hiện cơ bản của NCTĐNN của SQT

66

3.1

Tương quan giữa các nội dung mặt nhận thức NCTĐNN của SQT

98

3.2

Tương quan giữa các nội dung mặt thái độ NCTĐNN của SQT

105

3.3

Tương quan giữa các nội dung mặt hành vi NCTĐNN của SQT

109

3.4

Tương quan giữa các mặt biểu hiện và NCTĐNN của SQT

112


3.5

Tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng đến NCTĐNN của SQT

130


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp là một vấn đề khoa học đã được các nhà
Tâm lí học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam là luận án tiến sĩ
Tâm lí học được nghiên cứu độc lập đầu tiên ở Việt Nam. Xuất phát từ đòi hỏi
của thực tiễn hoạt động quân sự liên quan đến tính tích cực hoạt động nghề
nghiệp của sĩ quan trẻ; trên cơ sở khái quát các công trình nghiên cứu về nhu
cầu thành đạt nghề nghiệp của các nhà Tâm lí học ở ngoài nước và trong nước;
kết hợp trao đổi, thống nhất với tập thể cán bộ hướng dẫn và tiến hành xin ý
kiến chuyên gia, tác giả đi đến chọn lọc, kế thừa những điểm phù hợp với
hướng nghiên cứu đề tài, từ đó xây dựng kế hoạch, triển khai nghiên cứu và
hoàn thiện luận án. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra khái niệm nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời xác định
cấu trúc nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ, những yếu tố tâm lý
ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ, đánh giá thực
trạng và đề xuất một số biện pháp tâm lý - xã hội phát triển nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp cho sĩ quan trẻ. Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa to lớn
đối với bản thân tác giả và góp phần tích cực vào phát triển nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp cho sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Lí do lựa chọn đề tài

Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung then chốt của sự nghiệp xây
dựng quân đội nhân dân cách mạng “chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại” [16, tr.234]. Trong giai đoạn hiện nay, trạng thái sẵn sàng chiến đấu và
chiến thắng chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao đòi hỏi đội ngũ sĩ quan
quân đội nói chung, sĩ quan trẻ nói riêng không ngừng nỗ lực phát triển, hoàn
thiện các phẩm chất và năng lực nghề nghiệp quân sự, đảm bảo hoàn thành
xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Một yếu tố quan trọng giúp sĩ quan quân


6
đội hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các điều kiện khó khăn, gian khổ
chính là nhu cầu thành đạt nghề nghiệp. Bởi, nếu lịch sử là lịch sử của nhu
cầu thì nhu cầu thành đạt nghề nghiệp là nguồn gốc thúc đẩy tính tích cực,
quy định chiều hướng phát triển, tính chất hoạt động và điều chỉnh hành vi
của con người trong lĩnh vực nghề nghiệp.
Đội ngũ sĩ quan trẻ là lực lượng nòng cốt đảm bảo sự chuyển tiếp
liên tục, vững chắc các thế hệ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
quân đội. Trải qua quá trình học tập, rèn luyện tại các nhà trường quân sự
và thực tiễn công tác ở đơn vị họ đã tích lũy được hệ thống tri thức, kỹ xảo,
kỹ năng nghề nghiệp phong phú, trở thành các phẩm chất, năng lực nghề
nghiệp và phát huy chúng trong thực tiễn công tác, tạo nên những thành
tích góp phần vào sự phát triển của đơn vị, Quân đội. Tuy nhiên, hiện nay
vẫn còn một bộ phận không nhỏ sĩ quan trẻ tự ý thức về nghề nghiệp quân
sự và khát vọng vươn lên thành đạt nghề nghiệp quân sự có mặt còn hạn
chế. Chẳng hạn, có hiện tượng sĩ quan trẻ nhận thức chưa đúng đắn, chưa
sâu sắc về đối tượng của nhu cầu thành đạt nghề nghiệp quân sự, như đồng
nhất nó với đạt tới vị trí cao trong tổ chức, hay được thăng quân hàm đúng,
trước niên hạn,... trong khi ít quan tâm đến tích lũy tri thức, kinh nghiệm;
dẫn tới thái độ với nghề nghiệp còn chưa phù hợp như: chưa nỗ lực học
tập, rèn luyện phát triển trình độ chuyên môn, hoàn thiện kỹ xảo, kỹ năng

nghề nghiệp; thiếu kiên trì khi thực hiện nhiệm vụ, chưa coi trọng vai trò
của sáng tạo trọng thực hiện chức trách, nhiệm vụ; ít quan tâm thiết lập,
duy trì và phát triển các mối quan hệ với đồng chí, đồng đội; ít áp dụng tri
thức mới vào thực tiễn,... dẫn tới hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ
chưa cao. Vì vậy, để xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ có đủ phẩm chất và năng
lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, phải quan tâm phát triển
nhu cầu thành đạt nghề nghiệp cho họ.


7
Mặt khác, việc nghiên cứu nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của nhiều đối
tượng khác nhau đã được thực hiện ở nước ngoài và ở Việt Nam. Tuy nhiên,
các công trình nghiên cứu chỉ mới thực hiện ở các đối tượng khách thể thuộc
các lĩnh vực dân sự, chưa có đề tài nghiên cứu về nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang nói chung, trong quân đội
nói riêng và đặc biệt chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu nhu cầu thành
đạt nghề nghiệp của đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xuất phát từ cơ sở lý luận, thực tiễn ở trên, tác giả chọn nghiên cứu đề
tài: “Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân
Việt Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam, đề xuất các biện pháp tâm
lý - xã hội nhằm góp phần nâng cao nhu cầu thành đạt nghề nghiệp cho họ.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận về nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ.
- Khảo sát đánh giá thực trạng nhu cầu thành đạt nghề nghiệp và các yếu
tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ.
- Đề xuất biện pháp tâm lý - xã hội nâng cao nhu cầu thành đạt nghề

nghiệp cho sĩ quan trẻ.
- Tổ chức thực nghiệm tác động nâng cao nhu cầu thành đạt nghề nghiệp
của sĩ quan trẻ.
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, giả thuyết khoa học
* Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện, mức độ và yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu thành đạt nghề
nghiệp của sĩ quan trẻ.


8
* Khách thể nghiên cứu
Cán bộ sĩ quan, sĩ quan trẻ và hạ sĩ quan trong Quân đội nhân dân
Việt nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Trên cơ sở lý luận của Tâm lý học hoạt động về
NCTĐNN, luận án tập trung nghiên cứu thực trạng mức độ nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp của sĩ quan trẻ.
Phạm vi khách thể: Luận án nghiên cứu khảo sát cán bộ sĩ quan, sĩ
quan trẻ và hạ sĩ quan ở các đơn vị: fBB302 – Quận khu 7, lữ 139 – Binh
chủng Thông tin liên lạc, lữ 170/ Vùng 1- Quân chủng Hải quân.
Phạm vi thời gian: Luận án được tiến hành nghiên cứu từ tháng 11 năm
2013 đến tháng 11 năm 2016.
* Giả thuyết khoa học
Nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt
Nam đang phát triển ở mức độ cao, thể hiện thống nhất, chặt chẽ trên ba mặt
nhận thức, thái độ và hành vi của họ với nhu cầu thành đạt nghề nghiệp. Tuy
nhiên, mặt nhận thức nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ phát triển
chưa cao bằng các mặt thái độ và hành vi. Nếu áp dụng biện pháp tâm lý – xã
hội nâng cao được mức độ mặt nhận thức nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ
quan trẻ thì sẽ phát triển được mức độ nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của họ.

5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận án được xây dựng dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên tắc phương pháp luận của
Tâm lí học như: nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng về hình thành
và phát triển các hiện tượng tâm lí; nguyên tắc thống nhất giữa tâm lí, ý thức
và hoạt động; và phương pháp tiếp cận: hoạt động - giá trị - nhân cách như sợi
chỉ đỏ xuyên suốt quá trình nghiên cứu luận án.


9
Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng: Tâm lý người mang bản
chất xã hội - lịch sử, bị quy định bởi yếu tố xã hội. Nghiên cứu nhu cầu thành
đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ phải tôn trọng tồn tại khách quan, phải nhìn
thấy những yếu tố mang tính chất quyết định từ trong điều kiện xã hội - lịch
sử, tức là từ các đặc điểm, môi trường hoàn cảnh xã hội cụ thể với các quan hệ
xã hội mà các sĩ quan trẻ tham gia; đồng thời phải tính đến cả những nhân tố
sinh vật, cơ thể,… Việc hiểu rõ nguyên nhân quyết định của tâm lí giúp nhà
giáo dục có thể chủ động tạo ra hay thay đổi các điều kiện hình thành, hoặc cải
tạo nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ. Như vậy nguyên tắc quyết
định luận duy vật các hiện tượng tâm lí đã vạch ra con đường cho mọi tác
động sư phạm đến nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ.
Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức và hoạt động: Tâm lý con
người là sản phẩm của hoạt động, được biểu hiện ra trong hoạt động và là
thành phần tất yếu của hoạt động, đóng vai trò định hướng và điều khiển hoạt
động, đồng thời thông qua hoạt động, tâm lý - ý thức con người được nảy
sinh, hình thành và phát triển. Tâm lý - ý thức và hoạt động của con người
thống nhất với nhau trong mối quan hệ biện chứng. Do đó, khi nghiên cứu
nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ cần nhìn nhận nó được hình
thành phát triển và biểu hiện thông qua hoạt động, thông qua hai quá trình

xuất tâm và nhập tâm. Dẫn tới, để nghiên cứu nhu cầu thành đạt nghề nghiệp
của sĩ quan trẻ cần thông qua các hoạt động cụ thể của họ, phải qua các biểu
hiện bên ngoài (nhận thức, thái độ, hành vi,...) để biết được thế giới bên trong
của nhu cầu thành đạt nghề nghiệp đó. Đồng thời, nguyên tắc này định hướng
cho việc xây dựng tính tích cực cho sĩ quan trẻ, tạo ra những điều kiện sống
và hoạt động giúp sĩ quan trẻ phát triển nhu cầu thành đạt nghề nghiệp đáp
ứng cho yêu cầu của hoạt động quân sự.


10
Phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách: Đặt hoạt động của
con người vào trường của quy luật giá trị; động cơ, mục đích của hoạt động
đều gắn liền với hệ giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị của xã hội,
cộng đồng, gia đình, nhóm và bản thân từng người. Cụ thể, cần coi nhu cầu
thành đạt nghề nghiệp là một giá trị nhân cách người sĩ quan trẻ. Trong đó,
nhu cầu thành đạt nghề nghiệp phải gắn liền với khát khao đạt tới hệ giá trị
nghề nghiệp quân sự, hệ giá trị này là kết tinh của giá trị dân tộc và giá trị thời
đại, phản ánh chuẩn mực giá trị của xã hội, của Quân đội cách mạng, gia đình
và bản thân sĩ quan trẻ.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của Tâm lí học
nói chung và Tâm lí học quân sự nói riêng, bao gồm:
Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các công trình nghiên cứu
có liên quan đến nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân
dân Việt Nam nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra bằng bảng hỏi; quan
sát; phỏng vấn; phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp chuyên gia; phân
tích chân dung tâm lý điển hình, phương pháp thực nghiệm.
Nhóm phương pháp phân tích số liệu bằng thống kê toán học: Sử dụng

phần mềm SPSS 20.0 để xử lí số liệu điều tra, khảo sát, thực nghiệm và hiển
thị kết quả nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận án
Hệ thống hóa lý luận về NCTĐNN theo hai hướng các nghiên cứu
trong nước và ngoài nước, xây dựng được bộ khái niệm công cụ phục vụ cho
nghiên cứu luận án, bao gồm: NCTĐ, NCTĐNN của SQT. Chỉ ra cấu trúc
tâm lý NCTĐNN của SQT gồm ba thành tố nhận thức, thái độ và hành vi; các
yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển NCTĐNN của SQT.


11
Kết quả khảo sát chỉ ra NCTĐNN của SQT đang ở mức độ cao. Ba thành
tố cấu thành của NCTĐNN đều ở mức độ cao và có tương quan thuận, chặt với
nhau. Trong đó, mức độ nhận thức NCTĐNN thấp hơn hai thành tố còn lại.
SQT có quân hàm khác nhau; thời gian mang quân hàm sĩ quan khác
nhau hay ngạch sĩ quan (chính trị hoặc chỉ huy) đều không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về mức độ NCTĐNN; Tuy nhiên, có sự khác nhau về mức
độ NCTĐNN giữa những SQT có chức vụ khác nhau.
Có mối tương quan thuận, chặt giữa NCTĐNN và mức độ hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của SQT. Tuy nhiên, mức độ hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ không tạo ra sự khác biệt về NCTĐNN trong các nhóm SQT có
ngạch sĩ quan khác nhau; chức vụ khác nhau, nhưng tạo ra sự khác biệt giữa
các SQT có cấp bậc khác nhau.
NCTĐNN của SQT bị chi phối bởi hai nhóm yếu tố: chủ quan và khách
quan. Trong nhóm yếu tố chủ quan, Quan niệm của SQT về thành đạt NNQS
có hệ số ảnh hưởng cao nhất tới nhóm yếu tố chủ quan.
Kết quả thực nghiệm kiểm định biện pháp chỉ ra nếu giáo dục nâng cao
nhận thức về hệ GTNNQS cho SQT thì sẽ phát triển được NCTĐNN ở họ.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lí luận của luận án

Luận án bổ sung, làm phong phú thêm lý luận Tâm lí học về nhu cầu thành
đạt, nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xác định cấu trúc nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ và các
biểu hiện cơ bản của nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan trẻ.
Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ
quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam.


12
* Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc phát triển nhu cầu thành đạt
nghề nghiệp của sĩ quan trẻ, góp phần phát triển chất lượng đội ngũ sĩ quan
trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Luận án là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu về nhu
cầu thành đạt nghề nghiệp nói chung và nghiên cứu, giáo dục, quản lý sĩ quan
trẻ trong Quân đội nói riêng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, kết luận, kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được trình bày thành ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của nhu cầu thành đạt nghề nghiệp của sĩ quan
trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 2. Tổ chức và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3. Kết quả nghiên cứu thực tiễn.


13
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI:
NHU CẦU THÀNH ĐẠT NGHỀ NGHIỆP CỦA SĨ QUAN TRẺ
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1. Những công trình nghiên cứu ở nước ngoài về nhu cầu thành đạt

NCTĐ là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ khá sớm trong lịch
sử phát triển của Tâm lý học nước ngoài. Các công trình nghiên cứu về
NCTĐ thể hiện tập trung trên một số hướng chính dưới đây:
1.1. Một số nghiên cứu về bản chất, nguồn gốc, cơ chế vận hành của
nhu cầu thành đạt
H.A. Murray (1938), người đầu tiên nghiên cứu về NCTĐ, chịu ảnh
hưởng từ tư tưởng Phân tâm học cho rằng, mọi nhu cầu đều bắt nguồn từ vô
thức, kể cả NCTĐ. H.A. Murray coi NCTĐ là nhu cầu tiềm tàng, thứ phát,
loại nhu cầu không thể hiện tự do bên ngoài mà thể hiện dưới dạng tiềm ẩn
xuất hiện trong quá trình tương tác với người khác [85] .
Theo hướng nghiên cứu trên, D.C. McClelland (1953) quan niệm, NCTĐ
như một sự thúc đẩy vô thức để hoạt động trở nên hoàn hảo hơn, đạt tới tiêu
chuẩn cao hơn và nội dung của nó hình thành từ cuộc sống, dưới ảnh hưởng của
các tình huống, hoàn cảnh sống, kinh nghiệm sống của chủ thể và giáo dục của
nhà trường. Trong cuốn Động cơ thành đạt (The Achievement Motive), tác giả
coi động cơ thành đạt chính là NCTĐ, và con người có ba nhu cầu nổi bật, có
quan hệ khăng khít với nhau: quyền lực, quan hệ và thành đạt [73].
Tiếp nối nghiên cứu của H.A. Murray và D.C. McClelland, J.W. Atkinson
(1960) [dẫn theo 97] đã xây dựng một cách tiếp cận mới về NCTĐ qua Thuyết
giá trị mong đợi (Expectancy-Value Theory). Theo ông, NCTĐ là sự lựa chọn
giữa hai khuynh hướng muốn đạt được thành tích và sợ thất bại. Độ mạnh của
NCTĐ chịu ảnh hưởng chính bởi hai khuynh hướng này. Ngoài ra, NCTĐ bị chi
phối bởi sự kỳ vọng về khả năng thành công của cá nhân và giá trị khuyến khích
hay niềm tự hào của một người khi họ nghĩ về việc đạt được thành tích.


14
H. Heckhausen (1967), trong tác phẩm Quá trình động cơ và hành động
(Motivation und Handeln) đã tiếp cận hoạt động và tâm lý nhận thức khi nghiên
cứu NCTĐ. Ông coi, NCTĐ như một kết cấu tư duy khi chủ thể nhận thức về

hiện thực. NCTĐ gồm toàn bộ những thôi thúc, đam mê, khuynh hướng, mong
muốn của chủ thể trong một hoàn cảnh nhằm đạt được mục đích đề ra. Đồng
thời, nó như một hệ thống tự đánh giá với ba tiêu chí: sự khác biệt về khuynh
hướng thành công hay thất bại; mức độ kỳ vọng và kiểu đặc tính nhân cách [82].
A.N. Leonchiep (1971), chủ thuyết hoạt động trong Tâm lý học, [dẫn theo
40] đã phân tích về nguồn gốc và con đường hình thành NCTĐ. Ông cho rằng,
nhu cầu nói chung, NCTĐ nói riêng có nguồn gốc nảy sinh từ hoạt động thực
tiễn. Mỗi hoạt động được thúc đẩy bởi một hệ thống động cơ có cấu trúc thứ bậc
khác nhau. NCTĐ là nhu cầu tạo ý nhân cách của các hành động, thể hiện mong
muốn, nguyện vọng đạt được mục đích của cá nhân, mang tính xã hội.
Chủ trương xây dựng cách tiếp cận hệ thống - động lực để nghiên cứu
NCTĐ, M.Sh. Magomed-Eminov (1987) cho rằng, cần nhìn nhận NCTĐ như
một quá trình điều khiển, điều chỉnh hoạt động của chủ thể với một tình huống
thực tế, cụ thể. Theo đó, NCTĐ diễn ra như một quá trình mang tính trọn vẹn,
điều khiển, điều chỉnh hoạt động trong suốt quá trình nó diễn ra. Do đó, NCTĐ
như một hệ thống chức năng với các quá trình cảm xúc và nhận thức thống
nhất, tích hợp với nhau, điều khiển hoạt động tới sự thành đạt [107], [108].
B. Weiner (1984) cho rằng, yếu tố nhận thức có vai trò quan trọng ảnh
hưởng đến NCTĐ. Nhận thức dẫn tới sự thành công hay thất bại do: Vị trí nhận
thức (quan hệ của chủ thể đối với điều kiện, hoàn cảnh), sự ổn định của nhận
thức (độ ổn định của tâm thế hướng tới thành công hay thất bại theo thời gian)
và năng lực điều khiển nhận thức của chủ thể. NCTĐ bị quy định bởi nhận thức
của cá nhân về những nguyên nhân thành công hay thất bại. Khi tâm thể thất bại
không đủ cơ sở, không đủ mạnh mẽ nghĩa là cá nhân đó có NCTĐ [94], [95].


15
Phát triển hướng nghiên cứu của B. Weiner, tác giả C.S. Dweck (2008),
trong Thuyết nhận thức xã hội cho rằng nhận thức của chủ thể về những phẩm
chất của mình, đặc biệt là nhận thức về trí tuệ của bản thân, có một ý nghĩa lớn

lao với NCTĐ của chủ thể. Bà cho rằng, NCTĐ là một phẩm chất của nhân
cách, một kết cấu nhận thức của nhân cách có liên quan chặt chẽ với việc hoàn
thành mục đích hành động trên cơ sở những năng lực hiện có của cá nhân [74],
[75].
Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, nguồn gốc, cơ chế
vận hành của NCTĐ. Cùng coi NCTĐ bắt nguồn từ bản năng vô thức, H.A
Murray cho rằng NCTĐ tiềm tàng, hình thành từ các mối quan hệ; D.C.
McClelland tập trung khẳng định nguồn gốc nội dung của NCTĐ từ cuộc
sống với các mối quan hệ xã hội; J.W. Atkinson đưa ra khuynh hướng hướng
đến thành công và tránh thất bại. A.N. Leonchiep cho rằng, NCTĐ có nguồn
gốc nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. M.Sh. Magomed-Eminov coi NCTĐ là
một quá trình điều khiển hoạt động, chứa đựng yếu tố xúc cảm và nhận thức
thống nhất và tích hợp với nhau. H. Heckhausen lần đầu tiên đề ra và nhấn
mạnh nguồn gốc nhận thức, vấn đề giá trị trong NCTĐ, điều này được củng
cố và phát triển bởi B. Weiner và C.S. Dweck.
1.2. Một số nghiên cứu về cấu trúc của nhu cầu thành đạt
Trong hệ thống các lý thuyết về NCTĐ (need for achievement theories)
khá phong phú và đa dạng, các nhà Tâm lý học nước ngoài đều hướng tới xây
dựng cấu trúc NCTĐ. Có nhiều mô hình cấu trúc NCTĐ khác nhau, dưới đây
là một số mô hình cấu trúc tiêu biểu:
Mô hình cấu trúc NCTĐ của J.W. Atkinson
J.W. Atkinson coi NCTĐ là một thuộc tính bền vững của nhân cách, biểu
hiện trong sự nỗ lực để đạt được thành công. Đồng thời, nó cũng là một hình thái


16
năng động, khi bắt đầu hoạt động nó phối hợp với yếu tố giá trị và xác suất thành
đạt. Từ đó, ông đề xuất mô hình cấu trúc NCTĐ với ba thành phần [71], [73]:
Động cơ thành đạt: Khuynh hướng của nhân cách, tính chất riêng biệt
của cá nhân khi hướng tới thành đạt. Hai động cơ rõ nhất lí giải nguyên nhân

chủ thể muốn đạt được thành công hay né tránh thất bại.
Kỳ vọng thành đạt: Xác suất chủ quan của sự thành đạt. Kỳ vọng này
bao gồm xác suất về mức độ thành công, niềm tin về ý nghĩa của công việc.
Kỳ vọng thành đạt chịu ảnh hưởng bởi sự hiểu biết về khả năng của bản thân;
sự phức tạp của nhiệm vụ; niềm tin vào thành công.
Giá trị của sự thành đạt (mức độ hấp dẫn, ý nghĩa): Giá trị (chủ quan)
và hấp dẫn của sự thành đạt trong một hoạt động cụ thể là một yếu tố quan
trọng xác định NCTĐ. NCTĐ và hành vi thỏa mãn nó phụ thuộc vào phạm vi
hoạt động, sự hấp dẫn và giá trị của mục tiêu.
Nhìn chung, cấu trúc NCTĐ của J.W. Atkinson là mô hình cấu trúc
NCTĐ được đề xuất sớm nhất. Trong đó, yếu tố giá trị được đề cập lại nhiều
trong các cấu trúc NCTĐ được đề xuất sau này. Tuy vậy, quan niệm về hai
động cơ đối lập trong NCTĐ của ông gây ra sự hoài nghi cho một số nhà tâm
lý học, bởi chúng có tính chất loại trừ nhau [dẫn theo 118].
Mô hình cấu trúc NCTĐ của M.Sh. Magomed-Eminov
M.Sh. Magomed-Eminov (1987), trong luận án: “NCTĐ: cấu trúc và
cơ chế” [107], [108] cho rằng, NCTĐ là một quá trình mang tính trọn vẹn,
điều khiển hoạt động trong suốt quá trình nó diễn ra. Đồng thời, NCTĐ là một
hệ thống chức năng tích hợp với nhau giữa tình cảm, nhận thức và các quá
trình hoạt động. Do đó, cấu trúc NCTĐ được đề xuất gồm 4 khối:
Khối phát động NCTĐ: đóng vai trò thôi thúc, khởi phát một hoạt động
hay còn gọi là khối khởi đầu.
Khối các quá trình lựa chọn mục tiêu và các hành động tương ứng là
quá trình lựa chọn mục đích và tiến hành hành động phù hợp.


17
Khối quy định và kiểm soát những ý định thực hiện hành động: Điều
chỉnh việc thực hiện hành động, kiểm tra thực hiện các mong muốn, dự định.
Khối đánh giá: Các quá trình nhằm kết thúc hành động hoặc thay thế

bằng một hành động khác.
Cấu trúc tâm lý NCTĐ của M.Sh. Magomed-Eminov là một quá trình nảy
sinh, phát triển của NCTĐ với bốn khối kế tiếp nhau trong. Tuy kế thừa quan
điểm của Atkinson về hai yếu tố hướng tới sự thành đạt và tránh thất bại, tuy vậy
ở đây chúng không loại trừ nhau, cùng nhau chi phối NCTĐ của chủ thể.
Mô hình cấu trúc NCTĐ của T.O. Gordeeva
Phân tích của các lý thuyết hiện đại về hoạt động nảy sinh nhu cầu, trên
cơ sở cách tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách, Т.О. Gordeeva (2002)
trong nghiên cứu: “NCTĐ: lý thuyết, nghiên cứu, vấn đề” [102], [103] cùng
với các cộng sự (Manuchina, Shatalova) đã đưa ra một mô hình cấu trúc
NCTĐ với 4 khối chức năng riêng có tác động qua lại với nhau:
Khối giá trị - mục tiêu: Hệ thống các mục tiêu và giá trị quy định các
quá trình của NCTĐ (hoạt động, nhận thức, cảm xúc). Một hệ thống các động
cơ (với ý nghĩa là nguyên nhân thúc đẩy), mục đích và giá trị, kích hoạt quá
trình nhận thức, tình cảm và hành vi của các hoạt động trong NCTĐ. Khối
này đặc trưng bởi: mức độ quan trọng của việc đạt được đối tượng; mức độ
quan trọng khát khao bên trong và đòi hỏi từ bên ngoài; các mục tiêu của chủ
thể và giá trị của chúng.
Khối nhận thức: Kiểm soát các quá trình và kết quả hoạt động. Nội
dung của nó bao gồm: Biểu tượng về trách nhiệm cá nhân khi thành công hay
thất bại; niềm tin vào khả năng hoàn thành công việc; kỳ vọng thành công.
Khối cảm xúc: Những trải nghiệm hài lòng với những nỗ lực của cá
nhân hướng tới sự thành đạt và những trải nghiệm các phản ứng cảm xúc của
cá nhân khi gặp khó khăn hay thất bại.


18
Khối hành vi: Tính kiên định của nhân cách theo thời gian dành cho
việc giải quyết nhiệm vụ; Cường độ của các nỗ lực bản thân trong giải quyết
nhiệm vụ; Cách thức vượt qua khó khăn, trở ngại, tích cực thích ứng, không

né tránh; Lựa chọn nhiệm vụ với mức độ khó vừa phải.
Từ việc mô tả cấu trúc của NCTĐ gồm bốn khối như trên, tác giả nhấn
mạnh giá trị của mục tiêu cần đạt tới là đối tượng của NCTĐ và NCTĐ là một
quá trình thống nhất giữa nhận thức - cảm xúc (tình cảm) - hành vi. Tuy vậy, theo
các tác giả sau này, khó có thể tách bạch giữa hai khối: Giá trị - mục tiêu và nhận
thức, bởi suy cho cùng, giá trị - mục tiêu chính là biểu tượng của chủ thể về mục
tiêu và giá trị của nó [103].
Mô hình cấu trúc NCTĐ của O.S. Vindeca
O.S. Vindeca (2010) trong luận án tiến sĩ mang tên: “Cấu trúc và mối
quan hệ về khía cạnh tâm lý của NCTĐ” [100] đã đề cập tới cấu trúc của
NCTĐ. Theo tác giả, cấu trúc NCTĐ gồm ba thành phần:
Nhu cầu thích ứng và vượt trội: Nhu cầu thích ứng thể hiện ham muốn
đạt được thành công nhằm nhận được sự đánh giá cao ở những người khác,
phù hợp với hệ giá trị, các chuẩn mực, quy định của bản thân và xã hội. Nhu
cầu vượt trội mong muốn đổi mới để vượt qua những quy định, những thành
tích đã đạt được, những khuôn khổ nhận thức của xã hội.
Sự ổn định và mất ổn định của tình cảm: NCTĐ gắn liền với các thuộc
tính riêng, ổn định của lĩnh vực tình cảm. Trong đó, cảm thấy hạnh phúc, hài
lòng khi nghĩ đến thành công, đạt được mục đích hay dằn vặt, không hạnh
phúc khi gặp thất bại hoặc nghĩ về thất bại là những nội dung quan trọng.
Yếu tố giới tính: Sự phản ánh những phẩm chất của chủ thể mang
NCTĐ. Những phẩm chất mang tính bẩm sinh, di truyền hay có nguồn gốc từ
phân công lao động xã hội nhìn từ góc độ giới tính.


19
Trong cấu trúc NCTĐ của O.S. Vindeca, yếu tố tình cảm vẫn đóng vai
trò quan trọng, bên cạnh đó, lần đầu tiên các phẩm chất thuộc về giới tính
được đề cập trong NCTĐ, đây là những điểm nhấn của quan niệm này.
Mô hình cấu trúc NCTĐNN của E.V. Cooverckia

E.V. Cooverckia (1998) trong nghiên cứu “Tự đánh giá nghề nghiệp
trong sự phát triển NCTĐNN của cán bộ công chức” [105], đã coi NCTĐNN
như là biểu tượng của chủ thể về chất lượng thực hành nghề nghiệp, những
đòi hỏi quan trọng trong nghề nghiệp. Bà coi mối quan hệ giữa tự nhận thức
về bản thân, về nghề nghiệp với những đòi hỏi thực tế của nghề nhằm đạt tới
sự thành đạt là “Tôi - nghề nghiệp”. Theo nữ tác giả, cấu trúc chức năng của
quá trình phát triển của NCTĐNN bao gồm 4 giai đoạn:
1. NCTĐNN chịu ảnh hưởng của thái độ tiêu cực ứng với thực tế và
hình ảnh lý tưởng "Tôi - nghề nghiệp”.
2. Lập kế hoạch cho sự thay đổi trong hệ thống NCTĐNN, thực hiện
trên cơ sở hình ảnh lý tưởng "Tôi - nghề nghiệp".
3. Thực hiện những thay đổi này.
4. Đảm bảo các hệ thống mới của NCTĐNN thành lập trên cơ sở thái độ
tích cực, phù hợp với thực tế và hình ảnh lý tưởng của "Tôi - nghề nghiệp".
Có thể nhận thấy, đây là một mô hình cấu trúc khác biệt so với các mô
hình cấu trúc về NCTĐ được đề xuất sớm hơn. Điều này phản ánh cách tiếp
cận của tác giả, coi cấu trúc NCTĐNN như một quá trình phát triển gắn liền
với tự đánh giá về “Tôi - nghề nghiệp”, đồng thời cho thấy sự phát triển trong
nghiên cứu NCTĐ nói chung và NCTĐNN nói riêng.
Tóm lại, qua các nội dung trên cho thấy, có nhiều quan điểm, cách tiếp
cận khác nhau khi đề xuất mô hình cấu trúc NCTĐ. Xuyên suốt các mô hình
cấu trúc NCTĐ đó, các thành tố: giá trị, mục tiêu, cảm xúc, tình cảm, nhận
thức, hành vi,… nổi lên là những yếu tố quan trọng. Đặc biệt, quan điểm cấu
trúc NCTĐ của tác giả T.O. Gordeeva với bốn khối cơ động là quan điểm


20
nhận được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu hơn cả. Theo chúng tôi,
đây là một quan điểm cần kế thừa, vận dụng vào xây dựng cấu trúc NCTĐNN
của SQT QĐNDVN.

1.3. Một số nghiên cứu về phương pháp đo đạc nhu cầu thành đạt
NCTĐ được nghiên cứu trong Tâm lý học như một yếu tố khởi nguồn cho
hành vi và tính tích cực hoạt động. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà
Tâm lý học không chỉ tạo nên nhưng lý thuyết về NCTĐ mà còn xây dựng được
các công cụ để đo đạc chúng. Có hai xu hướng chính trong đo đạc NCTĐ.
* Đo đạc NCTĐ bằng TAT (Thematic Apperception Test)
TAT là một phương pháp đo NCTĐ được H.A Murray công bố vào
năm 1935 (cùng với Christina Morgan), được hoàn thiện hơn vào năm 1943.
TAT dựa trên tư tưởng của học thuyết Phân tâm coi phóng chiếu như một cơ
chế tự vệ tâm lý, gán những xung động lo âu cho một người khác. Theo các
tác giả, NCTĐ ngầm ẩn, tiềm tàng và thông qua tưởng tượng là cách thức tốt
nhất để nghiên cứu cặn kẽ nó [120].
Tài liệu của TAT bao gồm 20 bức tranh, trong đó có 4 bức tranh về
NCTĐ. Chủ thể được quan sát mỗi bức tranh trong vòng 20 giây và mô tả về
bức tranh dưới dạng một câu chuyện với nội dung đáp ứng 4 vấn đề:
1. Tình hình hiện tại (Ai và điều gì đang diễn ra trong hình ảnh?)
2. Suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật (Các nhân vật đang suy nghĩ gì?
mong muốn và cảm giác của họ?)
3. Đứng trước sự kiện (Điều gì đã xảy ra trước đó? Điều gì đã dẫn đến
tình hình hiện nay?)
4. Kết quả (Làm thế nào để câu chuyện kết thúc? Điều gì sẽ diễn ra tiếp
theo, các nhân vật sẽ làm gì?)


21
Việc tính điểm dựa trên sự phân tích nội dung của các câu chuyện. Nội
dung chứa đựng các yếu tố thành đạt như mục tiêu tích cực, sự nỗ lực, có
phương pháp phấn đấu,.. sẽ được điểm số cao. Chỉ số NCTĐ được tính bằng
tổng số điểm của từng câu chuyện [dẫn theo 54], [117].
D.C. McClelland đã cải tiến phương pháp đo NCTĐ với TAT. Trong

đó, ông đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ phụ thuộc giữa NCTĐ với điều kiện
môi trường giáo dục và trưởng thành của nhân cách. Ông đề ra phương pháp
đo cường độ NCTĐ trong các yếu tố tình huống. Cùng với Atkinson,
McClelland sử dụng TAT để đo nhu cầu tránh thất bại nhằm đánh giá kết hợp.
Phát triển TAT, E.T. Sokolova (1980), đã chỉnh sửa, thích ứng và soạn
ra được bộ test đo nhu cầu thành tích cho thiếu niên ở Liên xô năm 1980. Bộ
test này sử dụng 20 ảnh, tiến hành 2 lần đo, mỗi lần 10 ảnh. Test có thể đo
NCTĐ trong các mối quan hệ với cảm xúc nhằm đạt được mục đích của các
hành động tự nhận lỗi, né tránh trừng phạt, mức độ xâm kích. Tuy vậy,
phương pháp đo đạc, chấm điểm cơ bản giống TAT bản truyền thống [111].
Nhìn chung, xu hướng sử dụng TAT có ưu thế khi đo đạc sự thay đổi
về NCTĐ của nghiệm thể theo thời gian thông qua các câu chuyện, có thể
khơi gợi được những nhu cầu tiềm ẩn của họ. Tuy vậy, TAT không có tiêu chí
cụ thể cho việc tính điểm, bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan, cảm tính của
người chấm điểm; chỉ đo được những nhu cầu tiềm ẩn, còn các NCTĐ bộc lộ
trong đời sống sẽ gặp khó khăn. Sử dụng TAT tốn nhiều thời gian, hiệu quả
thấp khi số lượng khách thể lớn và đòi hỏi người sử dụng, nhà nghiên cứu
phải có kinh nghiệm trong phân tích, đánh giá và lượng hóa [dẫn theo 3].
* Đo đạc NCTĐ bằng bảng hỏi và phương pháp trắc nghiệm khác
Trên cơ sở những hạn chế của TAT, nhiều tác giả tìm kiếm các phương
pháp nhằm đo đạc khách quan, chính xác, định lượng các vấn đề của NCTĐ.
Trong xu hướng này, bảng đo cường độ các NCTĐ của A.L. Edwards
(1959) là một trong những phép đo đạc được đề xuất đầu tiên. Bảng đo bao


22
gồm các câu hỏi được định sẵn, mỗi câu hỏi xây dựng theo kiểu cặp cực (khẳng
định - phủ định) với các chỉ số về mức độ NCTĐ. Cấu trúc của bảng gồm 15
nhu cầu trong đó có NCTĐ. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, các nội dung
của bảng đo chưa phản ánh bao quát về NCTĐ với ý nghĩa là nhu cầu quan

trọng thúc đẩy sự thành công của con người trong các lĩnh vực hoạt động [76].
A. Mehrabia (1976), dựa trên lý thuyết của J.W. Atkinson, đã xây dựng
bộ công cụ (trắc nghiệm) đo hai yếu tố NCTĐ và nỗi sợ thất bại với hai phiên
bản cho nam giới và nữ giới. Kết quả xử lý sẽ thể hiện sự khác biệt cá nhân về
mức độ hình thành NCTĐ hoặc nhu cầu tránh thất bại, mức độ kỳ vọng, phản
ứng xúc cảm lên thành công hay thất bại, sự khác nhau về xu hướng nhân
cách, mức độ phụ thuộc vào các quan hệ liên nhân cách. Phương pháp này
khá hiệu quả trong việc định lượng được các nội dung nghiên cứu, dễ thực
hiện với lượng mẫu lớn. Tuy vậy, quan điểm này lặp lại hạn chế cũ khi tách
bạch và loại trừ nhau giữa NCTĐ và nhu cầu tránh thất bại [81].
Khắc phục hạn chế của bộ công cụ trên, M.Sh. Magomed-Eminov quan
niệm, trong mỗi cá nhân hướng tới thành đạt có cả NCTĐ và nhu cầu tránh thất
bại. Từ đó, ông xây dựng bảng trắc nghiệm đo NCTĐ và nhu cầu tránh thất bại
nhằm phát hiện mức độ và sự nổi trội của nhu cầu này so với nhu cầu kia. Tác
giả khuyến khích sử dụng cho học sinh phổ thông và sinh viên. Trong đó, phiên
bản A (32 câu hỏi) dành cho nam, phiên bản B (30 câu hỏi) dành cho nữ với ba
mức trả lời, xung quanh các nội dung thuộc tính cách, ý kiến, tình cảm [107].
Trên cơ sở đồng nhất hai thuật ngữ NCTĐ và động cơ thành đạt, T.
Elechka [dẫn theo 54] đã xây dựng và sử dụng một trắc nghiệm gồm 41 mệnh
đề để đo NCTĐ. Trong đó, mỗi mệnh đề có hai phương án trả lời và dựa vào
tổng số điểm của các câu trả lời để giải thích về mức độ cao hay thấp của
NCTĐ ở mỗi cá nhân theo tiêu chí sẵn có, với 4 mức độ. Kết quả nghiên cứu
NCTĐ được khuyến khích phân tích cùng với các kết quả của hai trắc nghiệm
"chẩn đoán nhu cầu tránh thất bại" và "chẩn đoán chấp nhận rủi ro".


23
Y.M. Orlova (1978) cho rằng NCTĐ được xác định bởi trình độ phát triển
của tự đánh giá của nhân cách. Do đó, trình độ tự đánh giá càng cao và phù hợp
thì nhân cách càng tích cực đề ra mục đích hành động. Từ quan điểm đó, bà đã

xây dựng bộ trắc nghiệm đo NCTĐ nhằm làm rõ mức độ tự đánh giá và tính tích
cực đề ra mục đích của hành động. Cụ thể, trắc nghiệm này gồm 22 mệnh đề cho
trường hợp A và 23 mệnh đề cho trường hợp B, với thang trả lời “có” hoặc
“không”, mỗi câu trả lời đúng được “1” điểm. Tổng số điểm của mỗi trường hợp
sẽ được đối chiếu với bảng phân loại gồm 5 mức độ khác nhau [dẫn theo 101].
Nhóm tác giả: Zinta S Byrne, Rose A Mueller-Hanson, Joe M
Cardador, George C Thornton, Heinz Schuler, Andreas Frintrup, Shaul Fox
(2003) đã xây dựng bảng hỏi AMI nhằm đo dạc động cơ thành đạt và NCTĐ.
Thang đo AMI bao gồm 17 yếu tố, mỗi yếu tố gồm 10 mệnh đề, để tìm hiểu
sự khác biệt văn hóa của NCTĐ ở các quốc gia khác nhau như Đức, Mỹ,
Israel và một số nước khác [72].
Nhìn chung, sử dụng bảng hỏi là một xu hướng có ý nghĩa rất lớn trong
nghiên cứu NCTĐ, bởi cùng một lúc có thể nghiên cứu trên số lượng khách thể
lớn, có thể dùng các phép toán thống kê một cách thuận lợi, không mất nhiều
thời gian, công sức của nhà nghiên cứu đồng thời nghiên cứu được những biểu
hiện bên ngoài của NCTĐ. Tuy nhiên, sử dụng bảng hỏi khó quan sát tực tiếp
toàn bộ những thái độ, hành vi của tất cả khách thể của nghiên cứu.
Tóm lại, nghiên cứu NCTĐ hiện nay có hai xu hướng sử dụng phương
pháp đo đạc, mỗi nhóm phương pháp có những ưu điểm và những điểm hạn
chế còn tồn tại. Kế thừa những ưu điểm và khắc phục hạn chế của các phương
pháp đo đạc NCTĐ trên, chúng tôi tiến hành xây dựng bộ bảng hỏi đo đạc
cứu NCTĐNN của SQT QĐNDVN.
1.4. Một số nghiên cứu về sự hình thành, phát triển nhu cầu thành đạt
* Nghiên cứu, đề xuất các công thức, chương trình hình thành, phát
triển NCTĐ


24
H. Heckhausen (1967) cho rằng chương trình phát triển NCTĐ nhằm
hình thành nên những nhân cách luôn nâng cao tự đánh giá sẽ gồm 3 phần [82]:

1, xây dựng định hướng tâm lý khi không thành đạt, mô tả các trải nghiệm, các
ứng xử khi không thành đạt để định hướng cho học sinh. 2, Thực hành thử
nghiệm các vai trò, vị thế của các cá nhân thành đạt và hình thành các đặc tính
nguyên nhân cho từng cá nhân có NCTĐ. 3, Chương trình tập huấn thực hiện
các hành động hình thành NCTĐ và củng cố chúng trong các bài tập đóng vai.
K.A. Abulkhanova-Clavskia (1999) quan niệm, sự hình thành NCTĐ
của cá nhân là hệ quả của sự hình thành chiến lược sống tích cực, hình thành
các kiểu hành vi hướng tới đạt được những mục đích. Từ đó ông xây dựng
một chiến lược nhằm hình thành, phát triển NCTĐ. Nội dung của chiến lược
sống tích cực bao gồm: Chủ thể biết chọn phương thức sống; Chủ thể có kỹ
năng giải quyết mâu thuẫn giữa cái tôi muốn và tôi có; Có khả năng sáng tạo,
phát hiện, tạo ra những điều kiện để tự thể hiện [98].
L.M. Mitina (2002), dựa trên hướng nghiên cứu của K.A. AbulkhanovaClavskia, nhấn mạnh phẩm chất cạnh tranh của những người thành đạt và cho
rằng, những người có NCTĐNN sẽ có năng lực cạnh tranh lớn trong lĩnh vực
nghề nghiệp. Đặc trưng này thể hiện ra ở xu hướng nhân cách, ở tay nghề phát
triển cao, sự mềm dẻo trong hành vi ứng xử. Bà đề ra cơ chế 4 giai đoạn hình
thành phẩm chất thành đạt của nhân cách: 1, hình thành động cơ; 2, phát triển
nhận thức; 3, rèn luyện cảm xúc; 4, thực hiện hành vi [109].
Đi sâu nghiên cứu sự phát triển của nhu cầu thành tích trong học tập
(NCTĐ), E.E. Luxnhicova (1995) đã chỉ ra các chức năng của NCTĐ của học
sinh: nhận thức; cảm xúc; tích hợp. Theo tác giả, để hình thành được NCTĐ
cho học sinh trong dạy học, phải xây dựng được một hệ thống các điều kiện,
phương tiện dạy học như là một tập hợp các yếu tố sư phạm có quan hệ thống


×