Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ đổi mới CÔNG tác dân vận QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.41 KB, 163 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến hành CTDV là thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng, chức năng cơ bản, xuyên suốt
của Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời là nguyên tắc hoạt động của Quân đội theo quan
điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt CTDV, gắn bó máu thịt với nhân dân
đã trở thành truyền thống tốt đẹp, kinh nghiệm quý báu của Quân đội ta trong xây dựng và hoạt
động.
Trong mọi giai đoạn cách mạng, CTDV luôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là vấn đề sống còn
của cách mạng và của Đảng ta. CTDVCQĐ là một bộ phận của CTDV của Đảng, quan hệ hữu
cơ với CTDV của các tổ chức thuộc hệ thống chính trị và luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ
của Đảng. CTDVCQĐ nhằm xây dựng, củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa quân đội
với nhân dân; góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân; đồng thời góp
phần vào xây dựng quân đội về mọi mặt, mà trước hết và trực tiếp là xây dựng bản chất cách
mạng cho quân đội.
Bước sang giai đoạn mới, cả nước tập trung thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo
định hướng XHCN, cách mạng nước ta đứng trước những nhiệm vụ to lớn, khó khăn, phức tạp
trong một hoàn cảnh có những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Với
điều kiện, hoàn cảnh đó, nhân tố tiên quyết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, động lực chủ
yếu để phát triển đất nước là phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của đại đoàn kết dân tộc
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đây là chân lý đồng thời là bài học kinh nghiệm lịch sử
của cách mạng Việt Nam mà quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã thể hiện sâu sắc và
khắc hoạ rõ nét, do vậy, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDVCQĐ nói riêng, CTDV của Đảng
nói chung để củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng, củng cố nền
tảng chính trị của Quân đội là yêu cầu khách quan và vô cùng cần thiết.
Song nâng cao chất lượng, hiệu quả của CTDVCQĐ bằng cách nào? đó là một vấn đề lớn,
khó và phức tạp. Trong những năm qua đã có không ít sự tìm tòi nghiên cứu, khảo nghiệm về
vấn đề này nhưng kết quả dạt được vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.


Chính thực trạng CTDVCQĐ hiện nay chứng tỏ điều đó. Trong khi đó công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước tiếp tục được đẩy mạnh và đi vào chiều sâu; nhiều vấn đề mới cũng như những


khó khăn, thách thức mới tiếp tục nảy sinh cùng với sự biến đổi liên tục, phức tạp của xã hội tác
động lớn đến CTDVCQĐ. Mặt khác, những biến đổi phức tạp của thế giới cũng tác động ảnh
hưởng không nhỏ tới CTDVCQĐ.
Tình hình trên khẳng định phải tiếp tục nghiên cứu vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả CTDVCQĐ. Đó là một đòi hỏi bức xúc của thực tiễn. Điểm tựa và cơ sở cho việc nghiên
cứu, sáng tạo để đổi mới công tác trên là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối quan điểm của Đảng và thực tiễn sinh động, phong phú hiện nay. Trong đó tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, tư tưởng dân vận của Người nói riêng là hạt nhân của tư tưởng chỉ đạo cho quá
trình nghiên cứu đó. Vì vậy nghiên cứu, học tập, làm theo TTDVHCM đang trở thành vấn đề cấp
bách. Đây là cách tốt nhất để nâng cao chất lượng hiệu quả CTDVCQĐ, tạo ra các phong trào
cách mạng sâu rộng và liên tục trong các tầng lớp nhân dân.
Với lẽ trên, đề tài: “Đổi mới CTDV Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiên mang tính vừa
cấp bách thiết thực vừa cơ bản, lâu dài.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong di sản lý luận của các nhà kinh điển cũng như trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề quần
chúng nhân dân và vận động quần chúng nhân dân làm cách mạng là nội dung rất cơ bản, xuyên
suốt và được đề cập một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ thống. Trong giai đoạn hiện nay, những
quan điểm tư tưởng đó vẫn mang ý nghĩa có tính nguyên tắc đối với sự nghiệp đổi mới của đất
nước, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội.
Đề cập tới phạm trù nhân dân; CTDV; CTDVCQĐ; TTDVHCM cho đến nay có không ít bài
viết và công trình nghiên cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và các nhà
khoa học. Năm 1994, Cục Dân vận - Tuyên truyền đặc biệt (Tổng cục Chính trị) đã nghiên cứu
và bảo vệ thành công đề tài “Đổi mới CTDV của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình
mới”. Các tác giả đã từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn đi đến khẳng định tính tất yếu phải
đổi mới CTDVCQĐ và đưa ra định hướng cho sự đổi mới đó trong tình hình mới.


Tạp chí “Dân vận” thuộc Ban Dân vận trung ương, ra hàng tháng có chuyên mục “Tư tưởng
dân vận của chủ tịch Hồ Chí Minh”. Chuyên mục này đăng tải những bài viết của các nhà nghiên

cứu về tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở các góc độ, khía cạnh, nội dung khác nhau.
“Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh” là cuốn sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia ấn hành 1995, gồm 34 báo cáo khoa học của các đồng chí lão thành cách mạng; những học
trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; các đồng chí giữ các cương vị khác nhau của Đảng, Nhà
nước, Quân đội, đoàn thể cùng nhiều nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu nhân dịp 45 năm bài báo
“Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời. Các tham luận trong hội thảo khoa học đã tập trung
làm rõ vai trò, tác động của bài báo, phân tích sâu nội dung và phương thức CTDV dưới ánh
sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời liên hệ vận dụng vào thực tiễn CTDV trong sự nghiệp đổi
mới.
Cuốn sách “Đổi mới CTDV của Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng”
(Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1996) bao gồm các bài viết, bài nói của đồng chí Vũ Oanh về phát
huy đường lối đại đoàn kết dân tộc theo tầm cao, chiều sâu mới và những giải pháp để đổi mới
CTDV của các chủ thể trên.
Tiến sĩ Đàm Văn Thọ và Tiến sĩ Vũ Hùng viết cuốn sách “Mối quan hệ giữa Đảng và nhân
dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb Chính trị Quốc gia, H, 1997). Trong cuốn sách này các
tác giả đã trình bày một cách khá hệ thống khái niệm “dân” và những quan điểm, thái độ khác
nhau về dân trong lịch sử, quá trình hình thành và nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân, về đảng cầm quyền và về mối quan hệ biện chứng giữa dân và Đảng. Từ đó nêu thực
trạng và giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và dân trong thời kỳ mới.
Năm 1999 đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng – “Đẩy mạnh CTDV tham gia xây dựng nền
tảng chính trị của QĐNDVN trong giai đoạn cách mạng mới” mang mã số KXB 96-07 đã được
nghiệm thu. Từ cơ sở lý luận, thực tiễn của mối quan hệ giữa nền tảng chính trị và CTDV; phân
tích thực trạng nền tảng chính trị và CTDV, các tác giả đã dự báo tình hình, kiến nghị giải pháp
nhằm đẩy mạnh CTDVCQĐ tham gia xây dựng nền tảng chính trị trong giai đoạn mới.
Tất cả các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập nghiên cứu trong một phạm vi
khá rộng rãi, phong phú và sâu sắc ở các khía cạnh, nội dung khác nhau. Tuy nhiên có thể nhận


thấy rằng chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập đến vấn đề “Đổi mới công tác dân vận
của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh” một cách

có hệ thống, toàn diện và sâu sắc.
Các cụm từ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận”; “TTDVHCM”; “Tư tưởng dân vận của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”; “tư tưởng Hồ Chí Minh về CTDV” hiện nay đang được sử dụng trong
các bài nói, bài viết, các công trình nghiên cứu. Các cụm từ đó có ý nghĩa giống nhau, do vậy
trong luận án xin dùng cụm từ "TTDVHCM".
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Nghiên cứu, quán triệt TTDVHCM vào thực tiễn để đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản
nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDVCQĐ trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ, khẳng định giá trị của TTDVHCM đối với CTDVCQĐ.
- Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu tìm ra những bài học kinh nghiệm quý
báu từ thực tiễn CTDVCQĐ 56 năm qua; đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và luận
giải, làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra đối với CTDVCQĐ hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới CTDVCQĐ trong giai
đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
CTDVCQĐ nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đối tượng còn phạm vi nghiên
cứu của đề tài là đổi mới CTDVCQĐ nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh. Phạm vi khảo sát thực tế là một số đơn vị, học viện, nhà trường quân đội và một
số địa phương ở cả ba miền: Bắc, Trung, Nam. Các số liệu phục vụ cho luận án dược giới hạn
chủ yếu từ năm 1990 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà trực
tiếp là lý luận về quần chúng và công tác vận động quần chúng, chiến tranh và quân đội...
Các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Đảng uỷ Quân sự Trung ương; các chỉ thị của
Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị; điều lệnh, điều lệ của Quân đội; tổng kết công tác đảng,
công tác chính trị, tổng kết CTDV là những tài liệu quan trọng định hướng cho việc nghiên cứu

đề tài.
Luận án dựa vào số liệu, kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về thực trạng
CTDVCQĐ ở một số đơn vị, cơ quan và nhà trường quân đội...
Các công trình nghiên cứu, các bài viết liên quan đến đề tài (kể cả các câu truyện về đời hoạt
động của Hồ Chí Minh; các hồi ký của các đồng chí đã được sống và làm việc cạnh Hồ Chí
Minh viết về Người) là những tài liệu khảo cứu quan trọng cả về nội dung và phương pháp.
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp; lịch sử,
lôgic; so sánh; tổng kết thực tiễn; điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Khái quát một cách cơ bản, tương đối toàn diện, hệ thống TTDVHCM và những quan điểm
chủ yếu của Người về CTDVCQĐ; đồng thời làm rõ thêm một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
CTDVCQĐ.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp để đổi mới CTDVCQĐ trong
giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần đổi mới nhận thức, tư duy về CTDVCQĐ; góp phần thiết thực tìm hiểu và
khẳng định giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết quả nghiên cứu góp phần đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn là đổi mới, nâng cao
chất lượng hiệu quả CTDVCQĐ.


- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các nội
dung liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Luận án có 179 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.
Chương 1
TƯ TƯỞNG DÂN VẬN HỒ CHÍ MINH - NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG, KIM
CHỈ NAM CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

1.1. Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh - nội dung cơ bản và giá trị đối với công tác dân vận của Quân đội

TTDVHCM là hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về nhân dân và về
công tác vận động nhân dân đứng lên làm cách mạng, tự giải phóng mình dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
TTDVHCM là sản phẩm của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phát triển những
nguyên lý cơ bản và những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quần chúng nhân
dân và sự nghiệp vận động quần chúng nhân dân vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
TTDVHCM là kết quả của quá trình kế thừa có chọn lọc, phát triển những tư tưởng
tiến bộ trong lịch sử dân tộc và nhân loại, phù hợp với truyền thống, Việt Nam và yêu
cầu của thời đại.
TTDVHCM là một bộ phận hữu cơ của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó không
chỉ là sản phẩm của sự kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin mà chính nó
còn phát triển, làm phong phú thêm lý luận, tăng cường thêm sức sống cho chủ nghĩa
Mác - Lênin.
TTDVHCM nói chung được thể hiện qua 4 nội dung cơ bản, ngoài ra đối với
CTDVCQĐ còn cần phải quán triệt sâu sắc 3 quan điểm chủ yếu của Người.
1.1.1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh
Một là, nhân dân là gốc của nước, gốc của cách mạng, nhân dân là chủ.
Thực ra tư tưởng trọng dân, thân dân coi “dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm
gốc” đã có từ lâu trong tư tưởng triết học của Khổng Mạnh và trong tư tưởng Việt
Nam dưới chế độ phong kiến.


Khi đánh giá vai trò của dân, trong Kinh thi (cuốn sách kinh điển của Nho giáo) có
viết: “Dân là gốc của nước, gốc vững thì nước yên” và “được dân chúng thời được
nước, mất dân chúng thời mất nước”.
Khổng Tử, vị thánh nhân của Nho giáo cho rằng: lòng dân là một điều kiện quan
trọng nhất trong ba điều kiện cơ bản, thiết yếu đối với nhà cầm quyền để trị nước
(lương thực đủ, binh lực đủ và lòng dân đối với mình). Thiếu điều kiện ấy thì nhà

nước phải đổ. Mạnh Tử quan niệm lợi ích của dân là lý do, điều kiện tồn tại của thiên
tử và chư hầu và khẳng định: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Tuân Tử
quan niệm: “Trời sinh ra dân không phải vì vua mà trời lập ra vua để vì dân” Khổng
Minh thì nói: “Trước hết lấy lòng dân, thứ hai mới cốt lấy thành trì của địch” (Trong
tác phẩm “Phép dùng binh của ông Tôn Tử” Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu này).
Trong lịch sử Việt Nam cũng có những tư tưởng rất đặc sắc, tiến bộ, về dân, coi dân
là gốc của nước, nước và dân luôn gắn chặt với nhau. Từ xưa trong nhân dân đã quan
niệm một cách rất phổ biến: “Quan nhất thời dân vạn đại”; “quan sang cũng tại ở làng
mà ra”; “hết quan hoàn dân”; “miệng dân sóng bể”...
Lý Công Uẩn trong “Chiếu rời đô” đã viết: “... trên vâng mệnh trời, dưới hợp lòng
dân...”. Trần Quốc Tuấn người được nhân dân suy tôn là vị thánh (Đức Thánh Trần)
đã khuyến tấu vua “Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ, đó là thượng sách
giữ nước”. Tư tưởng của ông đã được chuyển hoá vào đường lối kháng chiến của nhà
Trần, là nguyên nhân thắng lợi của ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên
xâm lược.
Chu Văn An tấu với vua: “... chính lệnh bệ hạ có thể thay được, quan hại bệ hạ có
thể thay được, nhưng dân thì không thay được. Muốn hưng vận nước trước hết phải
hưng sức dân. Muốn hưng binh, trước hết phải hưng sức dân...” Hồ Nguyên Trừng thì
khẳng định: “Tôi không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”. Nguyễn Trãi
đã ví dân như nước còn triều đại phong kiến như thuyền. Trong quan hệ đó, dân giữ
vai trò số một “chở thuyền là dân, mà lật thuyền cũng là dân”.
Nhìn chung trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, mỗi triều đại phong kiến đang
lên, hưng thịnh đều có quan điểm về dân và mối quan hệ với dân tiến bộ: coi lòng dân
là ý trời và chú trọng lấy lòng dân, giữ lòng dân để giữ nước và trị nước. Thực tiễn
lịch sử cho thấy đó là điều kiện căn bản để đất nước được thái bình, hưng thịnh.


Nhưng dù sao những tư tưởng tiến bộ trên cũng bị chi phối , ràng buộc bởi quan
điểm và quyền lợi giai cấp phong kiến nên còn nhiều hạn chế mang tính lịch sử.
Khổng Tử quan niệm “dân” không bao gồm những người cùng khổ trong xã hội;

Mạnh Tử quan niệm về dân không gồm nông nô mà chủ yếu là chỉ hạng địa chủ,
thương nhân và trí thức. Thực tiễn lịch sử cũng cho thấy: qua các cuộc khởi nghĩa và
chiến tranh dân tộc, nông dân cũng có giành được những quyền lợi dân sinh và dân
chủ nhất định. Nhưng những quyền lợi đó vẫn nằm trong khuôn khổ của chế độ phong
kiến, trong chính sách “khoan thư sức dân” của giai cấp phong kiến đang có vai trò
tích cực lúc bấy giờ. Đó là những quan điểm hạn hẹp về dân. Mặt khác, khi thấy được
vai trò to lớn của nhân dân trong lịch sử thì cũng xem đó là công cụ, phương tiện để
giai cấp thống trị, nhà cầm quyền thực hiện mục đích của mình, chứ hoàn toàn không
cho dân là mục đích, đối tượng phục vụ. Sức mạnh của nhân dân là vô cùng to lớn
nhưng

sức

mạnh

đó

chỉ

“đáng

sợ”

chứ

không

“đáng tôn”; chỉ là sức mạnh mù quáng do bản năng sai khiến, ngẫu động, cuồng bạo,
dễ bị lôi cuốn, kích động lợi dụng và dễ bị đánh lừa. Những hạn chế ấy là tất yếu của
lịch sử.

Tuy nhiên mức độ chi phối của những tư tưởng tiến bộ trên đối với lịch sử ở những
giai đoạn khác nhau, và ở mỗi triều đại phong kiến khác nhau thì không giống nhau.
Có khi những tư tưởng đó không được chuyển hoá thành, không ảnh hưởng tới đường
lối, chính sách cai trị đất nước của nhà nước. Dĩ nhiên thời kỳ đó triều đại suy tàn, nhà
nước thối nát, nhân dân lầm than.
Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời thì quan niệm về quần chúng nhân dân và
vai trò của quần chúng nhân dân mới trở nên đúng đắn, đầy đủ, khoa học và cách
mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm quần chúng nhân dân bao gồm rộng rãi các
tầng lớp nhân dân chẳng những là đa số công nhân mà còn tất cả những người bị bóc
lột. Khái niệm quần chúng nhân dân trong chủ nghĩa Mác - Lênin có bao hàm tính
giai cấp rõ nét, Lênin đã lưu ý đến vấn đề đó: “Khi dùng danh từ “nhân dân”, Mác
không thông qua danh từ ấy xoá mờ mất sự khác biệt về giai cấp: Mác đã gộp vào
danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng đến cùng” [63,
159].
Về vai trò của quần chúng, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định nhất quán quần
chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.


Các nhà kinh điển còn cho rằng xã hội loài người càng phát triển thì vai trò và sức
mạnh của quần chúng nhân dân càng to lớn, đặc biệt là trong cách mạng XHCN vai
trò, sức mạnh đó mang tính tự giác cao. Lênin đã viết: “Không có sự đồng tình và ủng
hộ của đại da số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình, tức là đối với
giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được” [65, 251] và “chủ
nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đông đảo gấp 10, gấp 100
trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới” [64, 523].
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xem xét vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân
trong lịch sử không tách rời vai trò cá nhân lãnh tụ. Mặt khác, trong cách mạng vô sản
quần chúng nhân dân không chỉ là lực lượng, chủ thể mà còn là mục đích phục vụ, đối
tượng cần được giải phóng.
Sự ra đời của quan niệm về nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân của chủ

nghĩa Mác - Lênin là một cuộc cách mạng thực sự về thế giới quan và nhân sinh quan
trong lĩnh vực đời sống xã hội. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử là chân
lý khách quan, song trải qua mấy ngàn năm nó mới được phát hiện và nêu lên trong
chủ nghĩa Mác một cách chính xác. Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh là kết quả của
sự kế thừa có chọn lọc những tư tưởng tốt đẹp, tiến bộ trong lịch sử dân tộc và nhân
loại; đồng thời là kết quả của sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với yêu cầu và hoàn cảnh Việt Nam trong
thời đại mới. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh được thể hiện trên những nội dung chính
yếu sau đây:
* Nhân dân là gốc của nước, gốc của cách mạng
Không chỉ trân trọng, nhận thức sâu sắc mà Hồ Chí Minh còn phát triển làm phong
phú thêm tư tưởng “dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” của Nho giáo và
dân tộc ta bằng thế giới quan khoa học Mác - Lênin, trên lập trường vô sản.
Đối với Hồ Chí Minh, dân là quý nhất, là mạnh nhất và là nền tảng của nước.
Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [93, 276]. Chính nhân dân là
người làm ra mọi giá trị vật chất và tinh thần làm cho xã hội tồn tại và phát triển;
chính nhân dân là nguồn gốc, lực lượng cho mọi biến đổi của xã hội kể cả những biến
đổi có tính cách mạng và có ý nghĩa lịch sử. Hồ Chí Minh quan niệm một cách nhất
quán rằng lẽ trường tồn của quốc gia dân tộc nằm ngay ở trong lòng nhân dân mà


không tìm thấy ở bất cứ nơi đâu cả. Người đã viết: “Nước lấy dân làm gốc”; “gốc có
vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [86, 409 - 410]. Do đó không
có gì vẻ vang bằng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Hơn nữa, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân không chỉ là “gốc” của nước mà
còn là “gốc” của cách mạng. Điều này Người đã khẳng định ngay từ khi mới đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng
thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc...” [77. 280]. Công nông là gốc
của cách mạng theo Hồ Chí Minh vì họ là những người bị áp bức, bóc lột nặng nề

nhất, “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh” Họ là đại đa số trong dân cư, từ địa vị của
mình, họ không có gì để mất trong đấu tranh cách mạng ngoài “cái kiếp khổ, nếu được
thì được cả thế giới” [77, 266].
Vai trò gốc của cách mạng thể hiện ở chỗ chính nhân dân chứ không phải là ai khác
là lực lượng vô địch, là động lực, là lực lượng không thể thay thế của cách mạng. Do
đó Người coi “sức dân chúng làm nền” cho cách mạng. Nhân dân còn là mục đích cao
nhất, duy nhất của cách mạng vô sản. Quan niệm trên khác hẳn về chất, về nguyên tắc
so với các quan niệm trước kia được coi là tiến bộ. Từ đó dẫn đến sự khác nhau về
nguyên tắc trong khi đề ra các chính sách đối với quốc gia và theo đuổi đường lối đối
nội, đối ngoại.
Nhân dân là gốc của cách mạng còn có ý nghĩa: Chính nhân dân là nền tảng, là lực
lượng của Đảng. Người viết: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng
tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng
thắng lợi. Vì vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như
đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại” [83, 286] và “Nếu không có nhân dân giúp
sức, thì Đảng không làm được gì hết... Rời xa dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất
định thất bại” [83, 238]. Nhân dân không chỉ là lực lượng quan trọng hàng đầu trong
thực hiện đường lối, nhiệm vụ cách mạng mà còn có vai trò rất quan trọng đóng góp
xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như xây dựng Đảng, Nhà
nước, Quân đội, các đoàn thể cách mạng.
Như vậy, không có mối liên hệ mật thiết với nhân dân thì Đảng sẽ không còn tồn tại
và phát triển. Nhưng không có Đảng cách mạng chân chính thì nhân dân không thể
làm cách mạng thành công để tự giải phóng mình, làm chủ vận mệnh của mình. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “cách mệnh trước hết phải có Đảng cách mệnh” và Đảng là người
“cầm lái” con thuyền cách mạng còn cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân


dân. Người xác định rõ vấn đề trên: “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ
không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi
Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân, đã lãnh đạo

nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin” [96, 197].
Từ đó Người có lòng tin mãnh liệt vào nhân dân và khẳng định nhân dân Việt Nam
hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, không ỷ lại,
không chờ đợi ở cách mạng chính quốc.
Vận dụng những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước thuộc địa
nửa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu trình độ phát triển dân trí còn rất thấp, nhưng Hồ
Chí Minh vẫn thấy được và đánh giá đúng vai trò, sức mạnh của nhân dân, của các
tầng lớp nhân dân. Đó là một sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo vô cùng đặc sắc, có ý
nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò của nhân dân trong cách mạng vô sản được tự
ý thức và sức mạnh vô tận của nhân dân là sức mạnh tự giác. Theo Hồ Chí Minh, vai
trò và sức mạnh của nhân dân trong mọi giai đoạn lịch sử chỉ là hiện thực khi có sự
đoàn kết và có lãnh đạo. Chính vì vậy Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn
kết. Đoàn kết đã là một tư tưởng chiến lược của Người, là “hòn đá tảng” đối với
CTDV, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
* Không chỉ là gốc của nước, gốc của cách mạng mà nhân dân còn là chủ.
Khi cách mạng thành công, chế độ xã hội mới được thành lập nhân dân là chủ của
Nhà nước, đất nước, xã hội, làm chủ vận mệnh của chính mình. Đó là địa vị mà lần
đầu tiên trong lịch sử, trải qua quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài nhân dân mới có
được.
“Dân là chủ” theo Hồ Chí Minh do cơ sở chính trị, xã hội quy định, chứ không phải là lời hô
hào, mỵ dân chung chung. Về vấn đề này, Người khẳng định một cách rất mạch lạc: “Nước ta là
nước dân chủ nghĩa là nhân dân là chủ”. Người cũng xác định: “dân chủ là cái quý báu nhất của
nhân dân”, vì có dân chủ mà:

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân...” [87, 698].


Như vậy, dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: tất cả quyền hành, quyền hạn đều thuộc về

nhân dân. Chính phủ, chính quyền các cấp là do dân cử ra, sử dụng quyền để quản lý đất nước,
điều hành hoạt động xã hội cũng chính đó là quyền của nhân dân giao cho. Nhân dân là chủ còn
Chính phủ và chính quyền các cấp là đầy tớ, công bộc của nhân dân. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho
dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” [80, 22] thậm chí “nếu Chính phủ làm hại dân
thì dân có quyền đuổi chính phủ”.
Từ quan niệm bản chất chế độ và địa vị “là chủ” của nhân dân trong chế độ ta mà Hồ Chí
Minh xác định nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đây là một tư tưởng độc đáo
trong quan niệm về vai trò của dân và về nhà nước cách mạng, kiểu mới ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh quan niệm dân là chủ, dân có quyền cao nhất nhưng nhân dân cũng có trách
nhiệm, bổn phận đối với đất nước, đối với cách mạng và đối với bản thân mình. Đó cũng chính
là nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận của người chủ. Người viết : “Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân” [87, 698].
Phải nói rằng dân chủ là tư tưởng mới mẻ so với tư tưởng Nho giáo và tư tưởng truyền thống
của dân tộc; một nội dung cất lõi trong tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh. Quan niệm “bao nhiêu
quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”; Đảng “sẵn sàng vui vẻ làm
trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân cho dân” chỉ mới có ở Hồ Chí Minh.
* Phạm trù “nhân dân” có nội hàm rộng rãi song vẫn giữ tính giai cấp.
Không thể không nói đến quan niệm của Hồ Chí Minh về nội hàm của phạm trù “nhân dân”
khi nói đến tư tưởng về dân của Người. Trên lập trường của giai cấp công nhân, kế thừa những
tư tưởng cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin về phạm trù “nhân dân”, đồng thời
nhận thức sâu sắc đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng đồng và tinh thần cách mạng
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã mở rộng, phát triển, làm phong phú hơn nội hàm của
phạm trù nhân dân phù hợp với đặc điểm của dân tộc, điều kiện của thời đại.
Theo Hồ Chí Minh, nội hàm phạm trù nhân dân bao gồm tất cả những người có tinh thần yêu
nước thương nòi trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc,


tôn giáo, giai cấp, tầng lớp... trừ bọn đại địa chủ, tư sản mại bản, việt gian bán nước, bọn phản
cách mạng đi ngược lại lợi ích dân tộc.

Mặt khác, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định: Công nông là lực lượng nòng cốt cho khối đoàn kết
toàn dân và giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng là công nhân.
Khi mở rộng nội hàm phạm trù nhân dân, Hồ Chí Minh vẫn trung thành với quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, giữ vững tính giai cấp, tính cách mạng nhưng cũng rất khoa học trên
quan điểm thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân mang đậm dấu ấn đại đoàn kết dân tộc
nhưng không rơi vào thứ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Đây là cơ sở tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất trong mọi thời kỳ cách mạng. Nhờ đó mà Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ dân tộc và giai cấp; độc lập dân tộc, dân chủ và
CNXH trong quá trình cách mạng Việt Nam. Đây là một điểm sáng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh mà giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của nó ngày càng sáng rõ.
Hai là, dân vận là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và cách mạng
Thấm nhuần các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức sâu sắc vai trò, sức mạnh
của quần chúng nhân dân, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã xác định vận động quần chúng là một
trong những việc quan trọng đầu tiên của Đảng. Năm 1923, trong thư gửi các bạn Pháp, Nguyễn
Ái Quốc viết: “Muốn thực hiện được lý tưởng giải phóng đồng bào, giành độc lập cho Tổ quốc,
phải đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc lập” [130, 49]. Sau
đó, năm 1927 trong tác phẩm “Đường cách mệnh” nổi tiếng Người lại khẳng định: “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì ? trước hết phải có dùng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi” [77, 267-268].
Ngay sau khi Đảng mới ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác vận
động quần chúng, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng và công tác vận động
quần chúng để tích cực vận động các tầng lớp nhân dân đứng lên làm cách mạng. Vì Người cho
rằng: “cách mạng nước phải làm cho dân giác ngộ” [77, 267].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc dân vận được xác định là tất yếu khách quan và vô cùng
quan trọng trong mọi thời kỳ cách mạng khi chưa có chính quyền cũng như khi đã giành được


chính quyền, trong điều kiện chiến tranh cũng như hoà bình. Vì Người quan niệm sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì độc lập tự do, vì CNXH đặt ra yêu cầu khách
quan và tạo ra khả năng to lớn cho CTDV. Đã có lần Người viết: “lực lượng của giai cấp công

nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Những lực lượng ấy cần có Đảng lãnh
đạo mới chắc chắn thắng lợi. Đồng thời Đảng phải đi sát quần chúng, khéo tổ chức và lãnh dạo
quần chúng, thì cách mạng mới thành công” [94, 290].
Theo nghĩa chung nhất thì dân vận là tuyên truyền, vận động nhân dân nhằm thực hiện mục
tiêu nhất định. Nhìn chung các giai cấp khi làm cách mạng hay khi đã cầm quyền đều muốn lấy
lòng, được lòng dân chúng. Vì vậy, các tổ chức chính trị, các nhà nước dưới các chế độ khác
nhau đến quan tâm đến dân vận. Tuy nhiên vấn đề là việc lấy lòng dân chúng vì lợi ích của ai,
trên cơ sở nào và bằng cách nào. Nói cách khác việc dân vận ở các chế độ xã hội khác nhau thì
khác nhau về bản chất. Trong chế độ dân chủ dân vận trở thành một thuộc tính và dân vận là vì
dân. Nó khác hẳn việc dân vận ở chế độ có bóc lột, áp bức và ngày càng trở nên quan trọng, đòi
hỏi phải được tiến hành “ráo riết”, rộng khắp.
Hồ Chí Minh quan niệm: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không
để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm,
những công việc mà Chính phủ và Đoàn thể giao cho” [87, 698]. Như vậy, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh dân vận là một bộ phận của hoạt động vận động cách mạng của Đảng mà đối tượng
tuyên truyền, vận động là: từ mỗi người dân đến mọi người dân nhằm xây dựng mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng và nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối cách mạng của Đảng. Nói cách khác,
CTDV là một khâu trong chu trình lãnh đạo của Đảng, là một hoạt động rất quan trọng để thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó nói lên vị trí, tầm quan trọng của CTDV. CTDV có tầm
quan trọng to lớn có ý nghĩa chiến lược vì nó giải quyết ba vấn đề cơ bản. Thứ nhất, xây dựng
lực lượng cách mạng: bằng CTDV làm cho quần chúng nhân dân hiểu, giác ngộ sức mạnh to lớn,
lợi ích chân chính, địa vị chủ thể của mình trong cách mạng; giác ngộ con đường cách mạng,
đoàn kết đứng lên tranh đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghĩa là CTDV góp phần quan trọng
làm cho lực lượng vô tận, sức mạnh vô địch của nhân dân từ dạng tiềm năng trở thành hiện thực
để “không súng ống nào, quân lính nào thắng nổi”. Thứ hai, dân vận là để thực hiện mục tiêu


cách mạng (cả trước mắt và lâu dài) thông qua thực hiện “những việc mà chính phủ và đoàn thể
giao cho”.Thứ ba, dân vận là để góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và đoàn thể cách
mạng. Thật vậy, trong điều kiện nước ta CTDV là một bộ phận của công tác quần chúng của các

tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị. Riêng đối với Đảng ta, CTDV là một mặt rất
quan trọng để tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; quan hệ biện chứng với
công tác xây dựng Đảng. Dân vận tốt sẽ thiết thực góp phần xây dựng, củng cố mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân - nền tảng, nguồn gốc sức mạnh của Đảng; xây dựng, củng cố các đoàn thể
cách mạng.
Trong suốt quá trình cùng với Đảng lãnh đạo cách mạng, trên cương vị cao nhất của Đảng và
Chính phủ, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến CTDV. Người xem đây không phải là việc
làm, biện pháp nhất thời mà là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, của cách mạng. Người đã khẳng
định: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém.
Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công” [87, 700].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò, tầm quan trọng của CTDV đã được Đảng ta thấu triệt và
thực hiện trong suốt 7 thập kỷ qua. Tư tưởng đó đã trở thành đường lối, quan điểm, tư tưởng, tác
phong lãnh đạo của Đảng, trở thành nhiệm vụ của mỗi tổ chức Đảng, đảng viên. Trong Văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ V đã viết: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy ở thời kỳ nào
công tác vận động quần chúng làm cách mạng cũng có ý nghĩa chiến lược”. Hơn thế nữa, “Trong
cách mạng XHCN... tầm quan trọng của công tác quần chúng chẳng những không giảm bớt mà
còn tăng thêm” [25, 118]. Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa quan trọng
của nhiệm vụ dân vận trong điều kiện Đảng cầm quyền, trong công cuộc đổi mới đất nước mang
ý nghĩa cách mạng.
Ba là, dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Khi nói về trách nhiệm đối với việc dân vận, Hồ Chí Minh viết : “Tất cả cán bộ chính quyền,
tất cả cán bộ Đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh,
v.v.. ) đều phải phụ trách dân vận” [87, 699]. Vấn đề này được Người khẳng định vào tháng 101949, khi mà Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra hoạt động công khai do đó Người không dùng từ
“Đảng” mà thay bằng “Đoàn thể”. Như thế trách nhiệm đối với CTDV đã rõ ràng, nó không phải


của riêng ai, hơn nữa càng không phải chỉ thuộc về Đảng, tổ chức quần chúng. Nói cách khác
dân vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức, đoàn thể, cá nhân trong hệ thống chính trị.
Khi có chính quyền Hồ Chí Minh còn đặt trách nhiệm của tổ chức chính quyền (từ Trung
ương xuống cơ sở) lên trước hết và trên hết. Điều đó nói lên cả vai trò và trách nhiệm của chính

quyền đối với CTDV là rất lớn và rất quan trọng. Thật vậy, Chính phủ vào năm 1949 đại diện
cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Mọi hoạt động của xã hội đều do Chính phủ điều hành
do đó vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Chính phủ đối với đất nước là rất lớn. Mặt khác, chính
quyền là vấn đề cơ bản của cách mạng. Khi giành được chính quyền tất phải xây dựng nên một
chế độ dân chủ nhân dân. Chế độ dân chủ nhân dân vừa là tiền đề, vừa là mục tiêu của CTDV.
Hơn nữa để xây dựng, củng cố, giữ vững chính quyền; xây dựng Nhà nước kiểu mới thì biện
pháp cơ bản là dựa hẳn vào dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên giữ vững
mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước các cấp với nhân dân... Có thể khẳng định dân vận theo Hồ
Chí Minh là thuộc tính của chế độ, của Nhà nước dân chủ của chúng ta.
Dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhưng Hồ Chí Minh không quan niệm trách
nhiệm đó một cách chung chung mà trái lại rất rõ ràng, cụ thể. Người nhắc nhở: “Phải cùng nhau
bàn tính kỹ càng, cùng nhau chia công rõ rệt, rồi cùng nhau đi giải thích cho dân hiểu, cổ động
dân, giúp dân đặt kế hoạch, tổ chức phân công, sắp xếp việc làm, khuyến khích, đôn đốc, theo
dõi, giúp đỡ dân giải quyết những điều khó khăn” [88, 699].
CTDV của mỗi tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị có đối tượng yêu cầu, phương thức,
nội dung cụ thể... không giống nhau nhưng đều là một bộ phận của CTDV của Đảng, hướng vào
thực hiện mục đích CTDV của Đảng. Do đó trách nhiệm của các chủ thể trong hệ thống chính trị
đối với CTDV là cơ bản, lâu dài chứ không phải chỉ nhất thời trong từng giai đoạn, từng hoàn
cảnh nhất định.
Bốn là, dân vận là công tác có tính khoa học, nghệ thuật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận là một bộ phận, một nội dung rất quan trọng của công
tác vận động cách mạng của Đảng, Do đó dân vận là một công tác mang tính khoa học nghệ
thuật cao.


Trước kia Lênin đã từng khẳng định: “Đảng cộng sản nếu muốn thật sự trở thành đội tiên
phong, đơn vị tiên tiến của giai cấp cách mạng, tức giai cấp vô sản, và ngoài ra nếu còn muốn
học cách lãnh đạo những quảng đại quần chúng vô sản và cả quần chúng không vô sản, tức quần
chúng lao động và bị bóc lột nữa thì phải biết cách làm công tác tuyên truyền, tổ chức, cổ động
sao cho dễ tiếp thụ nhất, dễ hiểu nhất; rõ ràng nhất và sinh động nhất cả đối với các “phố” thợ

thuyền, nhà máy lẫn đối với các vùng nông thôn” [66, 117]. Trên thực tế Lênin là một người
tuyên truyền cổ động vĩ đại nhất của giai cấp vô sản. Người đã thu phục được hàng triệu, hàng
triệu trái tim khối óc đi theo cách mạng vô sản; hướng về CNXH. Khâm phục, học tập Lênin, Hồ
Chí Minh viết: “Với phương pháp khéo léo của mình, Lênin đã lay chuyển được quần chúng
nhân dân chưa giác ngộ và lạc hậu nhất trong các nước thuộc địa” [76, 137].
Hồ Chí Minh dùng các cụm từ gắn với CTDV như: “dân vận khéo”; “biết cách”; “khéo léo”;
“có sáng kiến”... Có nghĩa là CTDV, về kết quả thì tốt, về cách làm thì đúng đắn, sáng tạo, linh
hoạt, tinh tế, có khả năng thu phục lòng người thuộc các giai cấp, tầng lớp, trong các hoàn cảnh
khác nhau. Nói cách khác, dân vận khéo là dân vận phải có tính khoa học và nghệ thuật.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân vận chẳng những là công tác cách mạng, mang tính khoa
học mà còn là một nghệ thuật ứng xử với con người. Tính khoa học của CTDV là biểu hiện sự
phù hợp giữa CTDV với tính tất yếu khách quan của sự phát triển của xã hội, với lợi ích căn bản
và tâm tư nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân; thể hiện trước hết ở chỗ nó luôn tiến
hành phù hợp với quy luật và yêu cầu khách quan, với cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc, với
phương pháp, tác phong đúng đắn, phù hợp. Điều đó đòi hỏi khi thực hiện CTDV phải trên cơ sở
khoa học, trên nền tảng của cuộc sống mà xác định nội dung, lựa chọn hình thức, biện pháp phù
hợp... không được tiến hành CTDV một cách tuỳ tiện, chủ quan, thiếu căn cứ, thiếu cơ sở.
Tính nghệ thuật của CTDV là biểu hiện khả năng, mức độ khéo léo, chuẩn xác trong vận dụng
kiến thức, kinh nghiệm vào thực tiễn CTDV. Nó đòi hỏi phải hiểu sâu sắc đối tượng, phải có tri
thức và kinh nghiệm cũng như kỹ năng, kỹ xảo trong tiếp cận, tuyên truyền vận động nhân dân
và xử lý các mối quan hệ trong cuộc sống.
Tính khoa học, nghệ thuật của CTDV trong tư tưởng Hồ Chí Minh phải được thể hiện ở mọi
nội dung, mọi khâu của công tác này, nhất là trong hoạt động tuyên truyền vận động nhân dân.


Hồ Chí Minh dạy: “Dân vận phải thế nào?... Cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi,
miệng nói, tay làm. Chứ không phải nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng
tay vào việc” [87, 699]. Như vậy, tính khoa học nghệ thuật của CTDV trong tư tưởng Hồ Chí
Minh không phải là thứ gì cao siêu, trừu tượng mà nó được thể hiện qua hành động cụ thể và tác
phong công tác hàng ngày. Nó hoàn toàn đối lập với tác phong quan liêu, bàn giấy, thói ích kỷ

hẹp hòi. Vì rằng dân vận của Đảng ta là vì dân. Qua lời dạy trên ta thấy rằng để dân vận phải có
thái độ đúng mực, biết nghe dân để tuyên truyền vận động họ; phải sâu sát thực tiễn, đi xuống cơ
sở, đi vào quần chúng; phải gương mẫu trước nhân dân để vận động nhân dân.
Dân vận theo Hồ Chí Minh phải có quy trình đúng đắn. Đó là: làm cho dân hiểu để dân làm;
phải bàn tính việc thiết thực kỹ càng; phải tổ chức phân công theo dõi; phải kiểm tra, rút kinh
nghiệm, học hỏi; phải phê bình, khen thưởng, động viên. Như vậy, người làm dân vận phải có
trình độ, năng lực, uy tín thực sự mới thuyết phục, vận động được nhân dân.
Dân vận là công tác đối với mỗi con người, đối với từng cộng đồng người, đối với mọi người
dân với muôn hình muôn vẻ về hoàn cảnh, nhu cầu lợi ích khác nhau cho nên rất khó khăn, phức
tạp. Do vậy: “Người tuyên truyền cần phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, xiêng làm” [82, 163].
“Phải biết chịu kham khổ. Phải biết nhẫn nại. Nói với người nghe một lần người ta không hiểu
thì nói đến hai lần, ba lần... về đức tính này phải học những người đi truyền giáo” [79, 64].
Tính khoa học, nghệ thuật của CTDV còn được thể hiện ở cả trong lời nói và thái độ như Hồ
Chí Minh đã dạy: “... phải biết cách nói. Nói thì phải giản đơn, rõ ràng, thiết thực. Phải có đầu,
có đuôi, sao cho ai cũng hiểu được, nhớ được. Chớ dùng những danh từ lạ, ít người hiểu...” [82,
162]. Phải “khiêm tốn, mềm mỏng”... trong tiếp xúc với nhân dân và làm CTDV.
Tính khoa học, nghệ thuật của CTDV không thoát ly mà thấm đượm lòng yêu thương con
người, thái độ kính trọng nhân dân sâu sắc, Người đã căn dặn chúng ta phải có lòng khoan dung,
độ lượng vĩ đại để cảm hoá con người, cũng như bàn tay có ngón dài, ngón ngắn, ở đời cũng có
người thế này thế khác. Nhưng dù thế này thế khác cũng đều là dòng dõi tổ tiên ta. Đó là sự kết
hợp giữa lý trí - nghệ thuật và tình cảm cách mạng . Cơ sở của sự thống nhất đó là sự thống nhất
về lợi ích giữa chủ thể và đối tượng của CTDV; là bản chất vì dân của CTDV của Đảng. Nếu
không có được điều đó thì cái “khéo” của CTDV sẽ là mỵ dân, lừa phỉnh. Dân vận “khéo” là


phải đạt đến trình độ sao cho nhân dân không có ý thức mặc cảm rằng mình là đối tượng “bị”
tuyên truyền, vận động. Đó là nghệ thuật, là khoa học “được lòng dân” để “được dân”.
TTDVHCM là một nội dung quan trọng trong tư tưởng của Người. Tư tưởng ấy chứa đựng
tính khoa học sâu sắc, tính cách mạng triệt để, tình nhân văn cao cả. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh, qua thực tiễn cách mạng vô cùng phong phú Đảng ta đã trở thành một Đảng giỏi về

dân vận và có kinh nghiệm dân vận trong các điều kiện khác nhau. Bên cạnh việc xác định
những quan điểm đúng đắn, chính xác, Đảng ta còn sáng tạo ra những phương thức, cách làm rất
“khéo”, để góp phần đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.1.2. Một số quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về công tác dân vận của Quân đội
Đối với Quân đội ta, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm rất cơ bản và sâu sắc có ý nghĩa rất
quan trọng trong định hướng CTDVCQĐ. Dưới đây là những quan điểm đó.
Một là, Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ.
Đây là quan điểm rất cơ bản, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân và Quân đội nhân dân. Nó quán xuyến suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của Quân đội ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh, Quân đội ta sinh ra từ phong trào cách mạng của
quần chúng đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc. Ngay từ khi thành lập, Quân đội ta đã
được Đảng và Hồ Chí Minh xác định là quân đội nhân dân. Đó là một quyết định hết sức đúng
đắn, hệ trọng đối với Quân đội ta và đối với cách mạng Việt Nam.
“Quân đội nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh không giống như quan niệm ở những nước
tư bản. Quân đội nhân dân theo Hồ Chí Minh là một đội quân ra đời từ phong trào đấu tranh cách
mạng của nhân dân, do nhu cầu khách quan của phong trào đó; phải đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng và nhằm bảo vệ phong trào đấu tranh của quần chúng; làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc giải phóng đất nước, bảo vệ Tổ quốc; tham gia quân đội là những người ưu tú từ các tầng
lớp nhân dân, có mục tiêu chiến đấu vì nhân dân.
Vì nhân dân phục vụ, vì nhân dân quên mình là tiêu chuẩn cơ bản, là hòn đá thử vàng của
quân đội nhân dân, là biểu hiện xuất phát từ bản chất của Quân đội ta. Hồ Chí Minh dạy: “Quân


đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân cho nên hy
sinh kham khổ” [88, 722]. Và “Quân đội ta là quân đội của nhân dân, cho nên nhân dân rất
thương yêu bộ đội... Trong 8, 9 năm kháng chiến; quân đội ta ăn gió nằm sương, xông pha bom
đạn, hy sinh xương máu vì nước, vì dân.
Hoà bình trở lại, quân đội ta giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tài sản công cộng và tính mệnh tài
sản của nhân dân, làm cột trụ giữ gìn hoà bình, bảo vệ Tổ quốc” [92, 383].

Quân đội nhân dân theo Hồ Chí Minh là quân đội chỉ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc. Người
khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh
giặc để tranh lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do hạnh phúc của nhân dân. Ngoài
lợi ích của nhân dân. Quân đội ta không có lợi ích nào khác” [90, 426].
“Vì nhân dân”, theo Hồ Chí Minh được hiểu tựu chung, sâu sắc ở chữ “hiếu” với dân. Chữ
“hiếu” mà người dòng cho Quân đội có nguồn gốc từ Nho học nhưng đã được nâng lên một tầm
cao mới với tính cách mạng và nhân văn cao cả. Hiếu với dân không chỉ là một lòng một dạ phục
vụ nhân dân, không sợ gian lao khổ hạnh, hiểm nguy mà còn cao hơn thế nữa là phải kính trọng
dân. Do vậy Người dạy “Phải kính trọng nhân dân, giúp đỡ nhân dân, đoàn kết với nhân dân”.
Đối với Quân đội ta, theo Hồ Chí Minh, nhân dân không chỉ là đối tượng phục vụ mà còn là
nền tảng sức mạnh của Quân đội. Nhân dân cung cấp mọi thứ cho quân đội: từ nhân - tài - vật
lực đến hun đúc sức mạnh tinh thần cho Quân đội. Nhân dân không chỉ là người mẹ hiền mà còn
là người thầy vĩ đại của Quân đội - nhân dân nuôi dưỡng, chở che, bảo vệ, dạy dỗ Quân đội với
một tình cảm bao la... Quân đội là con em của nhân dân, là bộ phận không thể tách rời của nhân
dân. Vì một lẽ giản đơn: chính nhân dân là chủ thể của các cuộc chiến tranh nhân dân giải phóng
và bảo vệ Tổ quốc, còn Quân đội là nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
“Quân đội nhân dân”, theo Hồ Chí Minh không chỉ là phục vụ nhân dân trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh mà còn bao hàm cả nghĩa: phải biết dựa vào dân; biết làm nòng cốt cho toàn dân đánh
giặc; biết phát huy sức mạnh của toàn dân; phải căn cứ vào “sức dân” (cả về vật chất và tinh
thần) mà phát triển và xây dựng lực lượng. Quân đội nhân dân Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, là quân đội của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.


Bản chất giai cấp là vấn đề cơ bản của mỗi quân đội. Song với Hồ Chí Minh, cùng với việc
khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ta, Người luôn rất quan tâm xây dựng tính
nhân dân, tính dân tộc sâu sắc cho Quân đội ta. Trong tư tưởng của Người bản chất giai cấp công
nhân, tính nhân dân, tính dân tộc thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên bản chất cách
mạng và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Điều kiện căn bản cho sự thống nhất đó là: Quân
đội phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội đã kiểm nghiệm và làm sáng tỏ,

sâu sắc thêm quan điểm trên của Hồ Chí Minh. Quân đội nhân dân Việt Nam đã tuyệt đối trung
thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Việt Nam có
được Quân đội của chính mình - một quân đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ.
Hai là, dân vận là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là chức năng cơ bản của Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp vô sản, ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã xác định đúng đắn, chính xác
chức năng, nhiệm vụ cho Quân đội ta. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quân đội mang bản
chất của giai cấp tổ chức và lãnh đạo nó. Bản chất giai cấp của quân đội quyết định hệ tư tưởng,
mục tiêu chiến đấu, chức năng... của nó.
Từ cuối năm 1941, khi trực tiếp xây dựng đội du kích thoát ly. Hồ Chí Minh đã đưa ra 6
nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc xác định chức năng, “đội quân công tác” cho lực lượng vũ
trang cách mạng. Nguyên tắc 4 - vừa là đội quân chiến đấu, vừa là một quân đội công tác;
nguyên tắc 6 - chiến đấu để tiêu diệt địch, bồi dưỡng lực lượng ta nhưng không thay thế công tác
quần chúng được.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944 Quân đội ta được tuyên bố thành lập, Hồ Chí Minh xác định rõ:
“Tên đội VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn
quân sự. Nó là đội tuyên truyền... vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân
cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân...” [78, 507]. Như vậy, mới thành lập, Quân đội ta
đã có chức năng, nhiệm vụ tuyên truyền vận động nhân dân. Điều đó nói lên đặc thù của Quân


đội nhân dân Việt Nam: Quân đội là một đội quân chính trị, lực lượng chính trị của Đảng chứ
không chỉ là công cụ bạo lực của Nhà nước.
Trong bài báo “Dân vận” (15-10-1949) Người đã xác định dân vận là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị. Là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng và Nhà nước,
Quân đội ta tất yếu phải “phụ trách dân vận”, như vậy dân vận là nhiệm vụ chính trị thường
xuyên của quân đội và CTDVCQĐ là một bộ phận của CTDV của Đảng.

Đảng ta và Hồ Chí Minh xác định một cách nhất quán Quân đội ta có ba chức năng:

đội quân chiến đấu; đội quân công tác; đội quân lao động sản xuất. Người thường
xuyên quan tâm đến chức năng đội quân công tác của Quân đội và xác định dân vận là
nhiệm vụ chính trị thường xuyên không chỉ của Quân đội mà còn của cả lực lượng vũ
trang nói chung. Người căn dặn: “Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và du kích
không nên chỉ biết đánh. Biết đánh là cái tốt, nhưng chỉ biết đánh mà coi nhẹ chính
trị, kinh tế, tuyên truyền giáo dục nhân dân tức là chỉ biết có một mặt, vì đánh không
tách rời được với chính trị và kinh tế” [91, 523].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn là lực lượng chính
trị tin cậy, đắc lực của Đảng và Nhà nước. Dân vận là nhiệm vụ chính trị, chức năng
cơ bản của Quân đội ta; cùng với việc thực hiện hai chức năng khác, thể hiện bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc của Quân đội ta.
Ba là, Mỗi quân nhân là một cán bộ dân vận giỏi.
Tiến hành CTDV là chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, do vậy đó cũng là trách
nhiệm chính trị của mọi tổ chức, quân nhân trong Quân đội. Để hoàn thành trách
nhiệm đó, theo Hồ Chí Minh, mỗi quân nhân phải là một cán bộ dân vận giỏi.
Trong thư gửi CB, CS Khu 2 và Khu 3 ngày 24 tháng 2 năm 1948, Người căn dặn
bộ đội: “anh em phải nhớ rằng: mỗi người trong bộ đội phải là một người tuyên
truyền. Vì vậy, bộ đội cần phải ra sức giúp đồng bào trong công việc bình dân học vụ
cũng như trong những công việc khác” [84, 379-380]. Vì theo Người, là chiến sĩ cách
mạng, các quân nhân không những phải có giác ngộ cách mạng mà còn phải có trách
nhiệm và khả năng tuyên truyền, vận động, giác ngộ cách mạng cho nhân dân. Hồ Chí
Minh viết: “Họ đem xương máu ra giữ gìn Tổ quốc, thì chẳng những họ phải hiểu vì
sao mà hy sinh, họ lại phải có thể nói cho người khác biết vì sao phải yêu nước” [81,
103].


Muốn là một cán bộ dân vận giỏi phải qua học hỏi, phải được huấn luyện, giáo dục.
Bộ đội phải học ở nhân dân, học hỏi lẫn nhau, học ngay trong thực tiễn CTDV và các
công tác khác. Cấp trên phải dạy cho cấp dưới; cán bộ phải dạy cho chiến sĩ làm
CTDV. Đối với cán bộ không những phải biết vận động quần chúng trong Quân đội

mà còn phải biết dân vận tốt; hơn thế nữa phải biết dậy cho cấp dưới biết cách dân
vận. Hồ Chí Minh dạy: “cán bộ phải thương yêu săn sóc đội viên... phải dạy cho đội
viên biết cách dân vận. Cái gì cũng phải nhờ dân. Không có dân thì không có bộ đội.
Cán bộ phải dạy cho đội viên biết kính trọng dân, thương yêu dân, giúp đỡ dân, làm
cho đội viên thành một người tuyên truyền bằng công việc thực tế. Tuyên truyền phải
miệng nói tay làm... không chỉ dân vận bằng diễn thuyết. Muốn vậy cán bộ phải làm
gương mẫu” [89, 320]. Như vậy, đối với chiến sĩ, dân vận chủ yếu bằng “công việc
thực tế”.
Riêng cán bộ chính trị, theo Hồ Chí Minh phải có trách nhiệm cụ thể, trực tiếp hơn
đối với CTDV của đơn vị: “Chính trị viên phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu bộ
đội. Phải làm sao cho bộ đội được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn như thế, thì phải
đốc thúc bộ đội, siêng giúp dân, hăng hái đánh giặc” [85, 393].
Trong hai cuộc kháng chiến, CB, CS Quân đội ta đã xứng đáng là những cán bộ dân
vận giỏi, đã có ý thức thường xuyên về CTDV; đã tỏ ra có kinh nghiệm trong hoạt
động tuyên truyền vận động nhân dân không những đối với dân tộc kinh mà cả đối với
dân tộc ít người; không chỉ ở những điều kiện thuận lợi mà cả ở những điều kiện khó
khăn như vùng địch hậu, vùng giáp ranh; nơi có nhiều phức tạp về mặt xã hội...
Có thể khẳng định, TTDVHCM là một tư tưởng có giá trị rất lớn và sâu sắc đối
với cách mạng Việt Nam. Đó là một tư tưởng đầy đủ và toàn diện về sự nghiệp vận
động quần chúng nhân dân của Đảng Cộng sản từ trong điều kiện Đảng chưa lãnh đạo
chính quyền đến điều kiện Đảng cầm quyền; là khoa học, nghệ thuật vận động cách
mạng. TTDVHCM là một hệ thống tri thức từ quan điểm tư tưởng đến phương thức,
kỹ năng nghiệp vụ của CTDV mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Thực tiễn CTDV
của Đảng, CTDVCQĐ đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo, sức sống trường tồn
cũng như tính phổ quát của tư tưởng đó. TTDVHCM không chỉ có giá trị đối với cách
mạng Việt Nam, không chỉ giá trị đối với CTDV và càng không phải chỉ đúng trong
thực tiễn quá khứ.


Nhiều năm tháng trôi qua nhưng TTDVHCM, một tư tưởng nhân văn vĩ đại, hiện đại và sâu

sắc vẫn là ngọn đèn pha soi sáng, dẫn dắt Đảng và hệ thống chính trị cũng như Quân đội ta trong
sự nghiệp dân vận nói riêng trong thực tiễn cách mạng nói chung. Đối với CMVCQĐ,
TTDVHCM đã trở thành phương châm, nguyên tắc trong suốt thời kỳ chiến tranh. Quân đội ta
đã quán triệt thực hiện tư tưởng của Người do vậy đã thành công trong xây dựng và củng cố mối
quan hệ với nhân dân, với hậu phương một cách vững chắc - nền tảng sức mạnh của Quân đội
trong chiến tranh. Qua một chặng đường dài mấy chục năm chiến tranh ác liệt nhưng Quân đội ta
vẫn lớn lên rất nhanh chóng bởi nó được nuôi dưỡng từ một nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của
nhân dân TTDVHCM đối với CTDVCQĐ luôn là nền tảng tư tưởng, bài chỉ nam trong mọi giai
đoạn cách mạng. Tư tưởng đó đã là một trong những cơ sở cho việc xác định chức năng, nhiệm
vụ cho Quân đội ta. Những nội dung, quan điểm cơ bản trong TTDVHCM có giá trị chỉ đạo
xuyên suốt CTDVCQĐ qua các thời kỳ cách mạng và trong mọi hoàn cảnh: từ xác định mục
tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung đến tìm ra phương thức, giải pháp tiến hành. Tư tưởng đó còn
giúp chúng ta tìm hiểu, nhận thức và có được cách tốt nhất để khắc phục hoặc giải quyết những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn. Hơn nữa TTDVHCM còn giúp ta đấu tranh chống lại các biểu
hiện sai trái như: “Xem khinh việc dân vận”; “chưa hiểu thấu” tình hình (do quan liêu trong
CTDV) hay “làm chưa đúng”...

Thực hiện chức năng “đội quân công tác”, hơn nửa thế kỷ qua Quân đội ta đã
thường xuyên quán triệt, làm theo tư tưởng của Người. Đó là một nguyên nhân vừa cơ
bản, vừa sâu xa dẫn đến sức sống và hiệu quả của CTDVCQĐ.
Thực tiễn cho thấy rõ TTDVHCM không chỉ là một đóng góp quý báu vào lý luận
vận động cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin mà còn đã, đang, sẽ soi sáng cho sự
nghiệp dân vận của Đảng, của Quân đội ta.
1.2. Những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn công tác dân vận của Quân đội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

Việc đổi mới, nâng cao chất lượng CTDVCQĐ trong giai đoạn hiện nay không thể không kế thừa truyền thống, kinh nghiệm quý báu 56
năm qua. Nhưng việc tiếp cận thực tiễn, rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho CTDVCQĐ hiện nay phải được dựa trên quan điểm
lịch sử, cụ thể. Mặt khác phải thấy được CTDVCQĐ là một nhiệm vụ, hoạt động thường xuyên không tách rời các công tác khác, nhiệm vụ
khác của Quân đội.



Những bài học kinh nghiệm đó là kết tinh của một quá trình tiến hành CTDVCQĐ trong các hoàn cảnh, các giai đoạn cách mạng khác
nhau dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng. Quá trình CTDVCQĐ và kinh nghiệm thu được là vô cùng phong
phú. Do vậy chỉ xin trình bày những nét khái lược, những bài học kinh nghiệm chủ yếu nhất, tiêu biểu nhất qua các thời kỳ cách mạng.

1.2.1. Công tác dân vận của quân đội hơn nửa thế kỷ qua dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh
Thời kỳ trước cách mạng tháng 8, CTDVCQĐ hướng vào chuẩn bị các điều kiện
để tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Các đơn vị vũ trang cách mạng vừa
tiến hành tác chiến, vừa bám sát dân để tuyên truyền vận động cách mạng, gây cơ sở,
tập hợp lực lượng, xây dựng, củng cố các đoàn thể cứu quốc. Qua hoạt động thực tiễn,
Quân đội đã xây dựng được mối quan hệ đoàn kết quân dân, xây dựng thế và lực cho
cách mạng, thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên, góp phần quan trọng vào thắng
lợi của Cách mạng tháng Tám.
Trong kháng chiến chống Pháp, nhiệm vụ chủ yếu của CTDVCQĐ là ra sức tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia kháng chiến, kiến quốc, góp phần bảo đảm cho
đường lối kháng chiến của Đảng được quán triệt đầy đủ và được thực hiện đúng đắn,
sáng tạo. Các đơn vị trong quân đội vừa tập trung đánh địch, vừa phân chia thành
những bộ phận nhỏ bám dân để tuyên truyền vận động, xây dựng củng cố cơ sở chính
trị, hỗ trợ nhân dân chống bắt phu, bắt lính, kết hợp chặt chẽ dân vận, địch vận với tổ
chức phát triển lực lượng, xây dựng làng kháng chiến, phát triển chiến tranh du kích.
Qua 9 năm kháng chiến, CTDVCQĐ đã đạt được những thành tích to lớn, cùng với
công tác vận động cách mạng của Đảng khơi dậy, nuôi dưỡng, huy động được mọi
nguồn lực của toàn dân cho sự nghiệp cách mạng, góp phần tạo nên sức mạnh to lớn
để đánh thắng cả 3 thứ giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.
Trong kháng chiến chống Mỹ, CTDVCQĐ đã có bước phát triển mới. Sau khi
Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới: Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Ở miền
Bắc các đơn vị quân đội đã tích cực tham gia cải cách ruộng đất và các cuộc vận động
chính trị to lớn của Đảng và Chính phủ. Nhiều đơn vị tình nguyện đến những vùng

khó khăn, gian khổ để giúp dân phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Khi đế quốc Mỹ
mở rộng chiến tranh ra cả nước, các đơn vị quân đội đã phối hợp và dựa vào các tổ
chức trong hệ thống chính trị để tuyên truyền vận động nhân dân hướng vào thực hiện
khẩu hiệu: “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.


×