Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

LDS-Trần Việt Đức-Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.3 KB, 25 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN VIỆT ĐỨC

THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số

: 60 38 30

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2014
1
Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 1


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ................................................. 7
1.1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ............................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ........................................................... 17
1.2. Cơ sở của việc xây dựng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ........................ 20
1.2.1. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên cơ sở sự
hài hòa giữa mục tiêu bảo đảm thực hiện quyền con người và ổn định trật tự của các
quan hệ dân sự ................................................................................................................. 20
1.2.2. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên cơ sở
bảo đảm thực hiện quyền con người và bảo đảm sự điều hòa hoạt động của hệ thống tư
pháp ................................................................................................................................. 24
1.2.3. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên tính chất
của từng loại quan hệ tranh chấp ..................................................................................... 25
1.2.4. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên hậu quả
pháp lý khi hết thời hiệu khởi kiện đối với từng loại quan hệ tranh chấp ....................... 27
1.3. Lược sử quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ......................... 28
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945 ..................................................................................... 28
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1995 ................................................................. 30
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay ............................................................................. 31
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ
ÁN DÂN SỰ .......................................................................................................................... 36
2.1. Các quy định chung về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ............................................ 36
2.1.1. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với các giao dịch dân sự......... 36
2.1.2. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong các quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng .......................................................................................................... 40
2.1.3. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong các quan hệ về thừa kế........ 44
2.2. Về một số quy định ngoại lệ về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự............................... 47

2
Footer Page 2 of 126.



Header Page 3 of 126.

2.2.1. Quy định về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp pháp luật nội dung không có
quy định ........................................................................................................................... 47
2.2.2. Quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện .......................... 54
2.2.3. Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện .................................... 57
2.2.4. Quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện .......................................................... 61
Chương 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỜI
HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ....................................................... 67
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ... 67
3.1.1. Sự không thống nhất trong việc áp dụng quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự giữa các Tòa án vẫn còn tồn tại .......................................................... 67
3.1.2. Hiện tượng Tòa án xác định không chính xác thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện vẫn còn tồn tại .......................................................................................................... 71
3.1.3. Vướng mắc trong việc xác định sự kiện được coi là căn cứ để bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện trong trường hợp có nhiều sự kiện xảy ra vào những thời điểm khác nhau .... 71
3.1.4. Việc vận dụng không đúng quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi
kiện do gặp trở ngại khách quan dẫn tới quyền lợi của chủ thể không được xem xét .... 74
3.1.5. Thủ tục hòa giải cơ sở kéo dài nhưng không được coi là trường hợp gặp trở ngại
khách quan dẫn tới chủ thể không bảo vệ được quyền lợi của mình .............................. 77
3.1.6. Vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế
theo nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao .......................................................................................................... 79
3.2. Một số kiến nghị về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự ................................................. 87
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự......................... 87
3.2.2. Kiến nghị về thi hành các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự...................................................................................................................................... 97
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................................... 103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 104

3
Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ổn
định các quan hệ dân sự cũng như xác định chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của các bên. Việc
quy định và xác định thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự. Các quy định về
thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự một mặt nhằm bảo đảm quyền khởi kiện, đảm bảo thực
hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, pháp nhân, mặt khác bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự của cơ quan Tòa án được
thuận lợi.
Thực tiễn cho thấy, vấn đề thời hiệu thời kiện là một vấn đề đặc biệt phức tạp do
việc xác định thời hiệu khởi kiện không chỉ liên quan đến các quy định của pháp luật tố
tụng mà còn liên quan đến các quy định của pháp luật nội dung trong từng thời điểm xác
lập giao dịch. Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 đã có nhiều quy định về thời hiệu khởi
kiện. Tuy nhiên, việc hiểu và áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
trong thực tiễn, đặc biệt là trong hoạt động xét xử còn gặp khá nhiều khó khăn và vướng
mắc. Trước thực trạng các tranh chấp trong quan hệ dân sự không ngừng phát sinh đòi
hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng dân sự để bảo đảm hiệu quả của việc giải
quyết các tranh chấp, ngày 29/03/2011 tại kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2012. Trong đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là một trong các nội dung đã
được sửa đổi, bổ sung.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận văn thạc sỹ của
mình. Đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn chung, vấn đề thời hiệu khởi kiện nói chung và thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
nói riêng chủ yếu được đề cập trong Giáo trình Luật dân sự của một số trường đại học như
Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tư
pháp,… và trong một số bài viết như: Bài viết “Về thời hạn và thời hiệu trong BLDS” của
tác giả Đinh Văn Thanh đăng trên Tạp chí luật học, số Đặc san 11/2003; Bài viết “Thời hiệu
khởi kiện thừa kế: những bất cập và hướng hoàn thiện” của tác giả Lê Minh Hùng đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9/2004; Bài viết “Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện vụ
án dân sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng
4
Footer Page 4 of 126.


Header Page 5 of 126.

trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2005; Bài viết “Hậu quả của việc hết thời hiệu khởi kiện trong
lĩnh vực hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Hữu và Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp - Hiến kế lập pháp, số tháng 3/2006; Bài viết “Một số quy định về thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng” của tác giả Nguyễn Thị
Hằng Nga được đăng trên Tạp chí Nghề luật, số 2(8)/2007; Bài viết “Cần có văn bản hướng
dẫn thống nhất về thời hiệu khởi kiện án dân sự” của tác giả Hoàng Đức Triết được đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 6/2010; Bài viết “Luật về thời hiệu của một số nước và một số
kiến nghị đối với quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự theo BLTTDS Việt Nam” của
tác giả Lê Mạnh Hùng được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 7/2011; Bài viết
“Thời hiệu dân sự - Nhìn từ góc độ lịch sử và so sánh” của tác giả Trần Anh Tuấn, đăng
trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11 (tháng 6/2011); Bài viết “Bàn về vấn đề thời hiệu khởi
kiện” của tác giả Hoàng Quảng Lực được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14/2012;

Bài viết “Cần có các văn bản hướng dẫn thống nhất về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự”
của tác giả Tưởng Duy Lượng được đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số Tân xuân năm 2012; Bài
viết “Cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự” của tác
giả Đoàn Đức Lương, Đào Mai Hường được đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 19/2013.
Tuy nhiên do mục đích và phạm vi nghiên cứu, các công trình nghiên cứu này hoặc
dừng lại ở mức độ nêu ra những vướng mắc trong việc xác định thời hiệu, cách tính thời
hiệu mà chưa phân tích một cách toàn diện, tổng thể các nội dung liên quan đến vấn đề này
hoặc có công trình đã nghiên cứu chuyên sâu nhưng phạm vi, phương pháp tiếp cận vấn đề
hoàn toàn khác với phạm vi, phương pháp tiếp cận của đề tài.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, phân tích các quy định
pháp luật dân sự về thời hiệu khởi kiện và tìm ra những điểm bất cập, hạn chế trong thực tiễn
áp dụng để từ đó đề xuất giải pháp, kiến nghị hoàn thiện và thực hiện pháp luật về thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, cơ sở của việc quy định thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định của BLDS năm 2005 và BLTTDS năm 2004 được
sửa đổi, bổ sung năm 2011 về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự;
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thông qua
những vụ án cụ thể để tìm ra những vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật
5
Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Từ đó, kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
và áp dụng thống nhất những quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, các quy
định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và việc áp dụng các quy định này
trong thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự có rất nhiều vấn đề cần bàn luận, tuy nhiên, trong
phạm vi khuôn khổ một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề
liên quan đến thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự mà không nghiên cứu về thời hiệu yêu cầu
giải quyết việc dân sự. Ngoài ra, luận văn cũng không có tham vọng nghiên cứu về thời hiệu
khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh doanh, thương mại, lao động mà
chỉ tập trung nghiên cứu về thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ
dân sự thuần túy như quan hệ sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thừa
kế.
Luận văn tập trung luận giải những vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự như: khái niệm, cơ sở và lược sử pháp luật Việt Nam về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
dưới góc độ nghiên cứu so sánh với pháp luật một số nước; đánh giá thực trạng các quy định
của pháp luật dân sự hiện hành trong BLDS năm 2005 và BLTTDS năm 2004 được sửa đổi,
bổ sung năm 2011 về thời hiệu khởi kiện; tìm hiểu thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ những
vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện. Kết quả nghiên cứu
của đề tài luận văn nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện và thực
hiện pháp luật về vấn đề thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đã đặt ra, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
(i) Việc nghiên cứu thực hiện đề tài được dựa trên phương pháp luận nghiên cứu
khoa học duy vậy lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật;
(ii) Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành. Cụ thể như sau:


6
Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

- Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử, so sánh luật
học... được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự;
- Phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá,... được sử dụng trong Chương 2 khi tìm
hiểu và đánh giá các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự;
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích,... được sử dụng ở Chương 3 khi đánh
giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và một
số kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như kiến nghị thực hiện pháp luật về thời hiệu khởi
kiện vụ án dân sự.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm Lời mở đầu, 3 Chương và Kết luận. Nội dung 3 Chương của Luận văn
bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật hiện hành về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và
kiến nghị

7
Footer Page 7 of 126.


Header Page 8 of 126.


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Ở Việt Nam, trước năm 2004, theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994 và Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các tranh chấp lao động 1996 có tồn tại khái niệm về vụ án dân sự, vụ án kinh tế,
vụ án lao động với nghĩa bao quát cả các tranh chấp và các yêu cầu không có tranh chấp tại
Tòa án. BLTTDS năm 2004 đã có những đổi mới theo hướng nhập ba loại hình thủ tục tố
tụng tư pháp riêng biệt (tố tụng dân sự, kinh tế, lao động) thành một loại hình thủ tục chung
thống nhất là thủ tục tố tụng dân sự đồng thời có sự phân biệt giữa thủ tục tố tụng thông
thường và thủ tục tố tụng đặc biệt. Từ đây, pháp luật Việt Nam dường như đã có sự tách biệt
giữa hai loại thời hiệu là thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về dân sự, kinh doanh
thương mại, lao động và thời hiệu yêu cầu đối với các việc về dân sự, kinh doanh thương
mại, lao động không có tranh chấp.
Tại các nước theo hệ thống thông luật (Common Law) như Vương quốc Anh, Liên
Bang Úc, Niu Di-lân,… thì thời hiệu khởi kiện được quy định tại một đạo luật riêng biệt.
Theo pháp luật các nước này thì thời hiệu khởi kiện là một thời hạn cụ thể mà nguyên đơn
có thể yêu cầu Tòa án thực thi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong thời hạn đó
mà nguyên đơn không khởi kiện thì khi thời hạn trên kết thúc, nguyên đơn sẽ mất quyền
khởi kiện hoặc đồng thời mất quyền khởi kiện và cả quyền lợi để thưc hiện quyền khởi kiện,
trừ một số trường hợp ngoại lệ. Trong khi đó, tại các nước theo hệ thống luật dân sự (Civil
Law) thì thời hiệu khởi kiện thường được quy định trong BLDS. Đó là các nước như Cộng
hòa Pháp, Cộng hòa Liên Bang Đức, Canada và một số quốc gia khác như Liên Bang Nga,
Cộng hòa nhân dân Trung hoa và Việt Nam.
Qua các kết quả nghiên cứu trên, có thể thấy rằng quan niệm về thời hiệu khởi kiện
vụ án dân sự ở Việt Nam có những điểm tương đồng và khác biệt nhất định so với pháp
luật của nhiều nước trên thế giới. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn do pháp luật quy định, nó có

điểm bắt đầu và điểm kết thúc. Tùy thuộc vào tính chất của từng quan hệ dân sự cụ thể mà
thời hạn này có thể dài hay ngắn, cũng có những trường hợp pháp luật quy định không áp
dụng thời hiệu.
8
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

Thứ hai, hậu quả pháp lý khi thời hạn do luật định kết thúc mà chủ thể có quyền, lợi
ích hợp pháp bị xâm phạm không tiến hành khởi kiện thì chủ thể đó sẽ mất quyền khởi kiện.
Tuy nhiên, điểm khác biệt căn bản so với pháp luật của các nước là nhà làm luật của
Việt Nam chưa quy định rõ ràng, cụ thể về hậu quả pháp lý đối với quyền, lợi ích hợp pháp
khi thời hiệu khởi kiện chấm dứt. Cụ thể là việc mất quyền khởi kiện trước Tòa án có dẫn
đến mất quyền lợi của chủ thể hay không và những quyền dân sự đó nếu không được Tòa án
bảo vệ thì những chủ thể này có thể sử dụng cơ chế bảo vệ nào khác không. Theo pháp luật
Việt Nam hiện hành thì việc khởi kiện ra Tòa án khi thời hiệu khởi kiện đã hết vẫn được
Tòa án thụ lý nhưng Tòa án không xem xét tới vụ tranh chấp mà ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án.
Như vậy, nếu tiếp cận dưới góc nhìn so sánh theo pháp luật một số nước phương Tây
thì có thể quan niệm “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn do pháp luật quy định
cho chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp dân sự; quyền
khởi kiện và quyền lợi ích của chủ thể sẽ chấm dứt khi thời hạn đó kết thúc”. Tuy nhiên, nếu
tiếp cận dưới góc độ bảo đảm quyền tiếp cận công lý của công dân và đề cao tính tự nguyện
trong việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì có thể đưa ra khái niệm về thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự theo hướng sau đây:“Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn do pháp luật quy
định cho chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh
chấp dân sự và quyền này sẽ chấm dứt khi thời hạn đó kết thúc, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác”.
1.1.2. Đặc điểm thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự

- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự do pháp luật quy định
- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự mang tính định lượng và tính liên tục trừ các
trường hợp do pháp luật quy định khác
- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự phụ thuộc vào tính chất của quan hệ pháp luật
tranh chấp
- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thường bắt đầu khi có tranh chấp hoặc vi phạm
hoặc xuất hiện một sự kiện pháp lý
- Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn luật định mà khi kết thúc thời hạn đó
chủ thể có quyền lợi không còn quyền khởi kiện hoặc yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ của mình

1.2. Cơ sở của việc xây dựng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
9
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

1.2.1. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên
cơ sở sự hài hòa giữa mục tiêu bảo đảm thực hiện quyền con người và ổn định trật tự
của các quan hệ dân sự
Thứ nhất, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con người trong Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ước quốc tế khác. Theo Điều 8 Tuyên
ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ước quốc tế khác. Ở Việt Nam, quyền
khởi kiện được quy định gián tiếp tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục được khẳng
định tại khoản 1, Điều 14 Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, để bảo đảm rằng các yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Tòa án sẽ không bị
kéo dài với thời gian không xác định ảnh hưởng không tốt đến trật tự, an toàn xã hội nói
chung và quan hệ dân sự nói riêng, pháp luật dân sự cần phải thiết lập một cách hợp lý các
quy định về thời hiệu khởi kiện.

Thứ ba, thời hiệu khởi kiện được quy định trên cơ sở bảo đảm cân bằng lợi ích của
các bên đương sự. Lợi ích của nguyên đơn được thể hiện ở việc họ có thể yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong thời gian nhất định. Lợi ích của bị đơn
cũng được bảo đảm bằng quy định về việc nguyên đơn bị mất quyền khởi kiện nếu trong
thời hạn luật định mà nguyên đơn không thực hiện quyền khởi kiện của mình.
Thứ tư, theo nguyên tắc tự do ý chí, thời hiệu khởi kiện được coi như là một sự suy
đoán có tính mặc nhiên về ý chí của nguyên đơn đối với quyền lợi của mình. Có thể suy
đoán rằng nguyên đơn từ bỏ quyền khởi kiện nếu nguyên đơn không hành động trong thời
hạn mà pháp luật cho phép họ thực hiện quyền của mình.
Thứ năm, việc quy định thời hiệu khởi kiện cũng phần nào giúp bảo đảm sự ổn định
trong sinh hoạt, làm việc, kinh doanh bình thường của các bên liên quan trong vụ việc.
1.2.2. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên
cơ sở bảo đảm sự điều hòa hoạt động của hệ thống tư pháp
Trong công tác xét xử, việc các chủ thể khởi kiện một cách tràn lan sẽ gây khó khăn
cho công tác giải quyết tranh chấp của Tòa án. Như vậy, sẽ tạo áp lực cho Tòa án khi giải
quyết những vụ việc đã xảy ra từ lâu, khó thu thập chứng cứ, khó xác minh nội dung…
Nếu pháp luật không có quy định hợp lý về thời hiệu khởi kiện thì số lượng đơn khởi kiện
gửi đến Tòa án sẽ rất lớn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc án tồn đọng kéo dài nhiều
năm sẽ tăng lên.

10
Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

1.2.3. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên
tính chất của từng loại quan hệ tranh chấp
Căn cứ vào tính chất của từng loại quan hệ dân sự có tranh chấp, nhà làm luật giới
hạn một thời hạn cụ thể mà chủ thể có thể khởi kiện đối với các loại quan hệ dân sự có tranh

chấp. Thời hiệu này có thể biến thiên theo từng loại quan hệ và quyền lợi cần được bảo vệ.
Trong các lại thời hạn này thì phổ biến nhất là loại thời hạn 2 năm và 3 năm. Đối với loại
thời hạn 30 năm thì chỉ được quy định đối với một loại tranh chấp. Bên cạnh các quy định
về thời gian cụ thể được quyền khởi kiện thì pháp luật cũng quy định một số ngoại lệ cho
việc không giới hạn thời gian khi thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải quyết một số tranh
chấp cụ thể.
1.2.4. Việc xây dựng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự dựa trên
hậu quả pháp lý khi hết thời hiệu khởi kiện đối với từng loại quan hệ tranh chấp
Thứ nhất, khi hết thời hiệu khởi kiện nguyên đơn mất quyền khởi kiện. Điều này
đồng nghĩa với việc nguyên đơn sẽ mất cơ hội yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp để bảo
vệ quyền, lợi ích của mình. Tuy nhiên, quyền, lợi ích hợp pháp mà dựa trên đó nguyên
đơn tiến hành khởi kiện vẫn tồn tại và được pháp luật công nhận.
Thứ hai, khi hết thời hiệu khởi kiện thì nguyên đơn mất quyền khởi kiện, đồng thời
mất quyền mà dựa trên đó nguyên đơn tiến hành khởi kiện. Theo đó, khi hết thời gian giới
hạn cho việc khởi kiện nhưng nguyên đơn không yêu cầu hoặc khởi kiện thì quyền khởi
kiện của nguyên đơn và quyền, lợi ích mà dựa trên đó nguyên đơn tiến hành khởi kiện đều
bị hủy bỏ.
1.3. Lƣợc sử quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trong thời kỳ Pháp thuộc, pháp luật dân sự Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của
pháp luật dân sự Pháp. Do vậy, thời hiệu dân sự là một danh từ dùng để chỉ hai loại thời
hiệu là thời hiệu thủ đắc và thời hiệu tiêu diệt. Như vậy, trong giai đoạn này, pháp luật dân
sự Việt Nam đã có những quy định về giới hạn khoảng thời gian trong một số trường hợp
mà chủ thể có quyền có thể thực hiện yêu cầu cơ quan nhà nước xem xét, bảo vệ quyền của
mình đồng thời kết thúc thời hạn này thì người có nghĩa vụ cũng được miễn trừ nghĩa vụ
dân sự.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1995
Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954, về cơ bản, vấn đề quy định về thời hiệu trong
thời kỳ này không có nhiều thay đổi.


11
Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, Chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
ban hành một số đạo luật về lĩnh vực gia đình như Luật gia đình năm 1959, Sắc luật 15/64
về dân sự, Bộ Dân luật năm 1972, Bộ luật thương mại năm 1972,... Trong đó, Bộ Dân luật
năm 1972 là một thành tựu đáng kể trong lĩnh vực pháp điển hóa về dân sự. .
Thời kỳ sau năm 1975 đến trước khi BLDS năm 1995 có hiệu lực, nhiều văn bản ban
hành trong giai đoạn này có giá trị pháp lý khá cao, đặc biệt là Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự năm 1989. Trong Pháp lệnh này, thời hiệu khởi kiện tuy chưa được định
nghĩa và quy định rõ ràng nhưng đã được khẳng định là một trong năm trường hợp Tòa án
trả lại đơn khởi kiện khi: “Thời hiệu khởi kiện đã hết” (khoản 2, Điều 36).
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Hiện nay, trong pháp luật hiện hành, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đang được
quy định và hướng dẫn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. BLDS 2005 cũng
đã kế thừa các quy định về thời hiệu khởi kiện trước đó về khái niệm, phân loại thời hiệu,
cách tính, bắt đầu thời hiệu, không áp dụng thời hiệu đồng thời có những quy định cụ thể về
thời hiệu đối với một số quan hệ dân sự như quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, quan hệ thừa kế. Thời hiệu khởi kiện đã được quy định tương đối độc lập với thời
hiệu hưởng quyền dân sự và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự (Điều 154 đến Điều 161,
Điều 427, Điều 607 và Điều 645 BLDS năm 2005).
Ngoài ra, vấn đề thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự còn được quy định trong nhiều đạo
luật khác và một số Nghị định của Chính phủ cũng như nghị quyết hướng dẫn áp dụng pháp
luật của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

12
Footer Page 12 of 126.



Header Page 13 of 126.

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1. Các quy định chung về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
2.1.1. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với các giao dịch dân sự
2.1.1.1. Thời hiệu trong tranh chấp về quyền, nghĩa vụ từ hợp đồng:
Việc quy định thời hiệu khởi kiện được tính từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, pháp nhân, tổ chức bị xâm phạm là chưa đồng nhất với quy định của Điều 159
của BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 “… được tính từ ngày cá nhân, cơ
quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Xem xét quy định dụng tại khoản 3, Điều 23 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự
được phân loại thành tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự và tranh chấp phát sinh
thông qua giao dịch dân sự. Trường hợp quy định tại điểm a thì thời hiệu khởi kiện chủ
yếu được áp dụng Điều 427 BLDS năm 2005, đối với trường hợp quy định tại điểm b thì
không áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Tuy cách hướng dẫn việc áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định tại Nghị quyết
trên nhằm đáp ứng tốt hơn việc bảo đảm quyền lợi của chủ thể, phù hợp với thực tiễn giải
quyết tranh chấp tại Tòa án nhưng lại chưa thật sự phù hợp và thống nhất với quy định của
Điều 427 BLDS năm 2005. Dường như hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao đã làm
thay đổi nội dung của Điều 427 BLDS năm 2005. Vì khoản 3, Điều 159 BLTTDS năm
2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 là quy định được chỉ được áp dụng khi luật nội
dung, luật chuyên ngành không quy định về thời hiệu khởi kiện. Còn đối với các tranh
chấp về hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng thì thời hiệu khởi
kiện đã được quy định tại Điều 427 BLDS năm 2005 nên phải áp dụng quy định này để
xác định thời hiệu khởi kiện.

2.1.1.2. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Điều 25 và 26 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 không quy định
rõ yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là vụ án dân sự hay việc dân sự nhưng trên
cơ sở lý luận và cách giải thích của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Điều
4 và Điều 5 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 thì có thể phân biệt đối với
trường hợp các bên cùng yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì đây là việc
dân sự, còn trường hợp các bên có tranh chấp với nhau về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố
13
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

giao dịch dân sự vô hiệu thì thuộc trường hợp tranh chấp về vụ án dân sự. Như vậy, đối
với trường hợp các bên có tranh chấp với nhau về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu và một bên khởi kiện ra Tòa án thì thời hiệu khởi kiện được xác định trên cơ
sở quy định tại khoản 1, Điều 136 BLDS năm 2005. Với quy định này, pháp luật đã không
xét đến thời điểm nào bên bị nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe dọa có thể sử dụng được quyền
của mình.
2.1.2. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong các quan hệ bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
Thực tiễn đã chứng minh quy định của BLDS năm 2005 về cách tính thời hiệu khởi
kiện này không thể bao quát và phù hợp đối với nhiều yêu cầu bồi thường thiệt hại khác, đặc
biệt là bồi thường thiệt hại liên quan đến môi trường, tính mạng, sức khỏe hay như tranh chấp
về bồi thường thiệt hại về tinh thần do bạo lực gia đình. Đối với vấn đề bồi thường thiệt hại
do gây ô nhiễm về môi trường, theo quy định tại khoản 3, Điều 129 Luật bảo vệ môi trường
năm 2005 thì việc giải quyết tranh chấp về môi trường được thực hiện theo quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 607 BLDS năm 2005 cũng
không phù hợp với các yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng trong các

trường hợp không xác định được người có hành vi đó hoặc xác định được nhưng thời điểm
xác định đã quá hai năm kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm.
Thêm vào đó, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện tại Điều này cũng không phù hợp
với các yêu cầu bồi thường thiệt hại do bị sốc nặng về tinh thần hoặc sang chấn tâm lý do bị
ngược đãi về thể chất và tâm thần.
2.1.3. Quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự trong các quan hệ về thừa kế
2.1.3.1. Về thời hiệu khởi kiện thừa kế:
Khi một trong hai vợ chồng chết, phần tài sản của người chết trở thành di sản và
trong các đồng thừa kế ở hàng thứ nhất sẽ có cha, mẹ, vợ, chồng, con còn sống. Thông
thường người này sẽ đứng ra quản lý phần di sản này và nếu căn cứ vào tinh thần của
Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP thì khi các người con không thực hiện quyền chia di
sản trong vòng 10 năm kể từ ngày mở thừa kế thì phần di sản mà những người này được
hưởng có “khả năng mất” trong khi thực tiễn cho thấy với đạo lý và truyền thống của
dân tộc sẽ có rất ít những người con sẽ thực hiện quyền đòi chia di sản khi một bên cha
hoặc mẹ còn sống.
Để xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu theo Điều 247 BLDS năm 2005 thì đòi hỏi
người chiếm hữu, được lợi về tài sản phải "không có căn cứ pháp luật” nhưng "ngay tình,
14
Footer Page 14 of 126.


Header Page 15 of 126.

liên tục, công khai”. Trong khi các bên có tranh chấp thì người đang giữ tài sản do người
chết để lại đều khai rằng họ chiếm giữ tài sản là có căn cứ nên không đảm bảo các tiêu chí
này. Hơn nữa, thời hiệu xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu lại không trùng với thời hiệu
khởi kiện chia di sản thừa kế (10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản).
2.1.3.2. Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong trường hợp có di chúc chung của vợ
chồng:
Quy định này không bảo vệ được quyền của người thừa kế khi về nguyên tắc họ

được xác lập quyền thừa kế từ thời điểm người để lại tài sản chết. Mặt khác, quy định về
hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng tại BLDS năm 2005 còn có sự mâu thuẫn với
Điều 645 của Bộ luật này. Theo Điều 667 BLDS 2005 thì di chúc có hiệu lực pháp luật kể
từ thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 668 BLDS năm 2005 thì di
chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm
vợ, chồng cùng chết. .
2.2. Về một số quy định ngoại lệ về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
2.2.1. Quy định về thời hiệu khởi kiện trong trường hợp pháp luật nội dung không
có quy định
BLTTDS sửa đổi đã thay đổi cách tính thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện, được
tính từ “ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm”. Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 đã bãi bỏ
quy định trả lại đơn khởi kiện với lý do hết thời hiệu khởi kiện. Tòa án phải thụ lý tất cả các
tranh chấp hết thời hiệu khởi kiện, điều này có nghĩa các chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm
phạm và thuộc phạm vi giải quyết của Tòa án thì đều có quyền khởi kiện ngay cả khi thời
hiệu khởi kiện đã hết, chứ không mất quyền khởi kiện như khoản 1, Điều 159 BLTTDS sửa
đổi quy định. Sau khi thụ lý vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nếu Tòa án nhận
thấy rằng việc khởi kiện đã hết thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự theo quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 192 BLTTDS sửa đổi. Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có hướng dẫn cụ thể là tới thời điểm nào sau khi thụ lý vụ án thì thẩm phán ra quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án nếu thời hiệu khởi kiện đã hết.
Trong thực tiễn, để nguyên đơn có thể khởi kiện ra Tòa án thì ngoài việc biết quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, còn phải biết được chủ thể thực hiện hành vi xâm
phạm hoặc phải chịu trách nhiệm về hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp đó. Đối với
điều kiện thứ nhất, thì đó phải là ngày cá nhân, tổ chức được thông báo hoặc là ngày họ trực
tiếp chứng kiến hành vi hoặc là ngày họ tự tìm hiểu bằng một nguồn thông tin mà qua đó
biết được có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã xảy ra.
15
Footer Page 15 of 126.



Header Page 16 of 126.

Đối với điều kiện thứ hai, nếu không biết được ai là người thực hiện hành vi xâm
phạm hoặc phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm việc khởi kiện sẽ chỉ gây tốn kém cho
nguyên đơn cũng như lãng phí nguồn nhân lực của Tòa án khi tiếp nhận và trả lại đơn cho
nguyên đơn vì lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện (chưa chỉ ra được kiện ai và địa chỉ của
người bị kiện). Điều 168 BLTTDS sửa đổi và hướng dẫn tại khoản 2, Điều 8 Nghị quyết số
05/2012/NQ-HĐTP quy định: “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các đương sự
có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện để khởi kiện (kể cả quy định về
hình thức, nội dung đơn kiện), nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các
điều kiện đó”.
2.2.2. Quy định về các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều BLTTDS năm 2011 đã bổ sung quy định không áp
dụng thời hiệu khởi kiện đối với một số loại tranh chấp. Lý do luật quy định các tranh chấp trên
không áp dụng thời hiệu khởi kiện xuất phát từ quan niệm cho rằng những quan hệ này có tính
đặc thù nên không thể quy định thời hiệu cụ thể thời hiệu khởi kiện như các quan hệ khác.
Tuy nhiên, điều luật lại quy định rất khái quát về các loại tranh chấp không áp dụng thời
hiệu khởi kiện nên thực tiễn đã có nhiều cách hiểu khác nhau và thiếu thống nhất trong việc xác
định cụ thể những tranh chấp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Vì vậy, Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP trong đó xác định rõ
ràng, cụ thể những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Việc xác định cụ thể các loại
tranh chấp này có ý nghĩa quan trọng cho công tác xét xử của Tòa án, giúp Tòa án thống nhất
trong áp dụng pháp luật.
2.2.3. Quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại khoản 1, Điều 161 BLDS năm 2005 thì sự kiện bất khả kháng là sự
kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được
mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép; đồng thời, trở ngại khách
quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ
dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể

thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ dân sự của mình. Điều kiện “mặc dù đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” sẽ là không phù hợp trong một số trường hợp như
thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc là động đất, bão, lũ, lụt, chiến tranh,… mà một số văn bản
luật chuyên ngành quy định là sự kiện bất khả kháng. Vì vậy, quy định về sự kiện bất khả
kháng trong BLDS năm 2005 là chưa thực sự phù hợp. Bên cạnh đó, Luật cũng cần có quy
định rõ hơn về những trường hợp được coi là sự trở ngại khách quan, cụ thể như sau:

16
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

Thứ nhất, khoảng thời gian mà cơ quan nhà nước, cơ quan có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật xem xét, giải quyết trước khi khởi kiện ra Tòa án.
Thứ hai, khoảng thời gian và thời gian kéo dài hơn (nếu có) so với khoảng thời gian
theo quy định của pháp luật là trước khi khởi kiện ra Tòa án thì việc tranh chấp phải được
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết trước.
Thứ ba, người có quyền dân sự đang thi hành hình phạt tù họ không thể thực hiện
được quyền khởi kiện của mình, khó có cơ hội tiếp cận với hệ thống tư vấn pháp lý hay tìm
kiếm luật sư và càng khó khăn trong việc tìm kiếm, thu thập chứng cứ cho yêu cầu khởi
kiện của mình.
2.2.4. Quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện
Thứ nhất, về thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện, trên thực tế còn hai quan điểm
khác nhau. Quan điểm cho rằng việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chỉ nên được xác định
trong trường hợp thời hiệu khởi kiện gốc vẫn còn nhưng nguyên đơn không khởi kiện mà có
một trong các sự kiện quy định tại khoản 1, Điều 162 BLDS năm 2005 diễn ra cho thấy
quan điểm này dựa trên lập luận nếu việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện được xác định sau
khi thời hiệu khởi kiện đã hết thì bên có nghĩa vụ sẽ từ chối xác nhận nghĩa vụ hoặc từ chối
tham gia hòa giải để ngăn cản thời hiệu bắt đầu lại. Tuy nhiên, khi thời hiệu khởi kiện vẫn

còn thì không cần thiết đặt ra vấn đề bắt đầu lại thời hiệu vì việc thừa nhận hay không thừa
nhận nghĩa vụ, thực hiện một phần hay không thực hiện nghĩa vụ cũng không thể cản trở
việc khởi kiện của nguyên đơn. .
Thứ hai, pháp luật hiện hành chưa có quy định điều chỉnh vấn đề trong trường hợp có nhiều
hơn một sự kiện là căn cứ để bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện mà các sự kiện xảy ra vào
những khoảng thời gian khác nhau thì sự kiện nào được xác định là căn cứ bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện. .

17
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án
dân sự
3.1.1. Sự không thống nhất trong việc áp dụng quy định về bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự giữa các Tòa án vẫn còn tồn tại
3.1.2. Hiện tượng Tòa án xác định không chính xác thời điểm bắt đầu lại thời hiệu
khởi kiện vẫn còn tồn tại
3.1.3. Vướng mắc trong việc xác định sự kiện được coi là căn cứ để bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện trong trường hợp có nhiều sự kiện xảy ra vào những thời điểm khác
nhau
3.1.4. Việc vận dụng không đúng quy định về thời gian không tính vào thời hiệu
khởi kiện do gặp trở ngại khách quan dẫn tới quyền lợi của chủ thể không được xem
xét
3.1.5. Thủ tục hòa giải cơ sở kéo dài nhưng không được coi là trường hợp gặp

trở ngại khách quan dẫn tới chủ thể không bảo vệ được quyền lợi của mình
3.1.6. Vướng mắc, bất cập trong việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thừa
kế theo nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao
3.2. Một số kiến nghị về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
3.2.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự
Hiện nay, Dự thảo BLDS sửa đổi BLDS năm 2005 đang được soạn thảo theo hướng
không quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Theo đó, Dự thảo BLDS sửa đổi
dự kiến chỉ quy định hai loại thời hiệu là thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự và thời hiệu
hưởng quyền dân sự. Thời hiệu khởi kiện sẽ không quy định lại trong BLDS sửa đổi. Khi
nguyên đơn khởi kiện vụ án dân sự thì không phụ thuộc vào thời hiệu khởi kiện.
Bên cạnh đó, dựa trên quy định tại khoản 3, Điều 102 Hiến pháp 2013, Ban soạn thảo
cho rằng Tòa án phải thụ lý và giải quyết mọi tranh chấp mà không căn cứ vào quy đinh về
thời hiệu khởi kiện để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

18
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả Luận văn nếu quy định thời hiệu hưởng
quyền và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ mà bỏ thời hiệu khởi kiện thì sẽ gặp phải những vướng
mắc sau:
Thứ nhất, gây khó khăn cho Tòa án đặc biệt là vấn đề thu thập chứng cứ cùng với đó
là khối lượng các vụ việc mà Tòa án phải giải quyết sẽ nhiều hơn, đồng nghĩa với việc số
lượng án tồn đọng kéo dài tăng lên;
Thứ hai, gây xáo trộn nhất định trong hệ thống pháp luật dân sự, trong thi hành pháp
luật, thay đổi tư duy áp dụng pháp luật và tư duy xét xử của Tòa án;

Thứ ba, cần giải quyết vấn đề nếu quy định thời hiệu khởi kiện trong BLTTDS thì
quy định những vấn đề gì? Và cần làm rõ đâu là thời hiệu tố tụng để quy định trong Bộ
luật này thì Ban soạn thảo vẫn chưa đưa ra được phương án giải quyết.
Mặt khác, theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu thì không cần thiết quy định
đồng thời cả thời hiệu hưởng quyền dân sự và thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Vì
quyền dân sự được xác lập theo thời hiệu ở chủ thể cũng đồng thời là căn cứ chấm dứt
nghĩa vụ ở người đó hay thời hiệu hưởng quyền dân sự và miễn trừ nghĩa vụ dân sự trong
nhiều trường hợp là hai mặt của một hiện tượng, sự việc. Vì vậy, nếu một bên đã được
hưởng quyền dân sự thì đương nhiên bên kia không phải thực hiện nghĩa vụ nữa. Do đó,
BLDS chỉ cần quy định về thời hiệu hưởng quyền dân sự và thời hiệu khởi kiện.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng vẫn nên giữ quy định về thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên,
để nhận thức một cách đầy đủ, thống nhất về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, bảo đảm hoạt
động giải quyết tranh chấp dân sự được thuận lợi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và lợi ích nhà nước, việc rà soát,
nghiên cứu để sửa đổi những quy định chưa hợp lý, thiếu tính khả thi và những quy định
không rõ ràng, dễ tạo ra những cách hiểu không thống nhất là hết sức cần thiết. .
3.2.1.2. Các kiến nghị cụ thể về sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về thời hiệu
khởi kiện vụ án dân sự
- Sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu:
Cách tính thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn,
bị lừa dối hoặc bị đe dọa theo quy định của BLDS hiện hành nên được sửa đổi theo hướng:
Đối với giao dịch dân sự được xác lập do bị đe dọa, thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố giao dịch dân sự vô hiệu là hai năm, kể từ ngày sự việc đe dọa chấm dứt; Đối với giao dịch
được xác lập do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, thời hiệu khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch
dân sự là hai năm, kể từ ngày bên bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết về sự nhầm lẫn
hoặc lừa dối này.
19
Footer Page 19 of 126.



Header Page 20 of 126.

- Sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện về hợp đồng dân sự:
“Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là ba
năm, kể từ ngày cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác biết được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm”.
- Sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại:
Điều 607 BLDS năm 2005 nên được sửa đổi như sau:
“Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là ba năm, kể từ ngày cá nhân,
pháp nhân, chủ thể khác biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và chủ
thể có hành vi xâm phạm”.
- Sửa đổi quy định về thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
Khoản 1 Điều 645 BLDS năm 2005 nên được sửa đổi như sau: “Thời hiệu khởi kiện
về thừa kế để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác
bỏ quyền thừa kế của người khác đối với động sản là mười năm, đối với bất động sản là ba
mươi năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.
Cùng với đó, để có cách hiểu thống nhất, rõ ràng trong việc xác định thời điểm mở
thừa kế giúp việc xác định di sản thừa kế, người thừa kế và những người liên quan đến việc
thừa kế được thuận lợi, dễ dàng thì cần phải hiểu thời điểm mở thừa kế được xác định là giờ
hoặc thậm chí là phút người để lại di sản chết và coi thời điểm đó là mốc để xác định người
thừa kế, di sản của người chết.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hiệu khởi kiện và hiệu lực pháp luật của di chúc
chung của vợ, chồng:
Điều 668 BLDS năm 2005 nên được sửa đổi như sau:
“1. Trong trường hợp di chúc chung của vợ chồng không có thỏa thuận về thời điểm
có hiệu lực của di chúc mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần
di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật.
2. Trong trường hợp di chúc chung của vợ chồng có thỏa thuận về thời điểm có hiệu
lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc
chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.

3. Thời hiệu khởi kiện về chia di sản theo di chúc chung của vợ chồng đối với động sản
là mười năm, đối với bất động sản là ba mươi năm, kể từ thời điểm di chúc có hiệu lực theo quy
định tại khoản 1, 2 của Điều này”.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự:
Để có căn cứ áp dụng thống nhất và đáp ứng yêu cầu về bảo đảm quyền lợi của chủ
thể thì cần sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng quy định thêm trường hợp khi có
20
Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

nhiều sự kiện là căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện xảy ra thì sự kiện cuối cùng là căn cứ
bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện. Cụ thể, bổ sung vào khoản 2, Điều 162 BLDS năm 2005
đoạn sau đây: “Trường hợp có nhiều hơn một trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
này xảy ra vào các thời điểm khác nhau thì thời hiệu khởi kiện được bắt đầu lại kể từ ngày
tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện cuối cùng”.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự:
Quy định về sự kiện bất khả kháng nên được sửa đổi theo hướng bỏ quy định về điều
kiện “mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” vì điều kiện này
sẽ là không phù hợp trong một số trường hợp như thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc là động
đất, bão, lũ, lụt, chiến tranh,…Cụ thể: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách
khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được”.
- Bổ sung hướng dẫn áp dụng thống nhất về quy định “trở ngại khách quan” là căn
cứ không tính vào thời hiệu khởi kiện:
Các trường hợp sau đây cần được coi là trở ngại khách quan và không tính vào thời
hiệu khởi kiện:
“+ Khoảng thời gian mà cơ quan nhà nước, cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải
quyết trước khi khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết theo yêu cầu của đương sự;

+ Khoảng thời gian hoặc thời gian kéo dài hơn so với thời gian mà pháp luật quy
định là trước khi khởi kiện tại Tòa án thì việc tranh chấp phải do cơ quan, tổ chức khác giải
quyết trước;
+ Khoảng thời gian mà nguyên đơn chứng minh được mình bị lừa dối về điều kiện
khởi kiện hoặc thời hiệu khởi kiện hoặc thời gian nguyên đơn đang thi hành án phạt tù”.
- Sửa đổi khoản 3, khoản 5 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn BLTTDS sửa đổi:
Chúng tôi cho rằng không cần thiết phải hướng dẫn như quy định tại điểm a, khoản
3, Điều 23 của Nghị quyết: “Đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự thì áp dụng
thời hiệu quy định trong văn bản quy phạm pháp luật tương ứng đối với loại giao dịch đó”.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng vẫn cần giữ nguyên quy định tại điểm b, khoản 3 Điều luật
này: “Đối với tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, về đòi lại tài sản, đòi lại quyền sử dụng
đất do người khác quản lý, chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự thì không áp dụng thời
hiệu khởi kiện”.

21
Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

- Sửa đổi Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình:
Chúng tôi cho rằng không nên quy định hai điều kiện “các đồng thừa kế không có
tranh chấp về hàng thừa kế” và “đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia…”
mà chỉ cần điều kiện các đồng thừa kế chứng minh được đó là di sản thừa kế do người chết
để lại chưa chia thì Tòa án chuyển di sản thành thừa kế tài sản chung và áp dụng các quy
định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.
3.2.1.3. Kiến nghị về nghiên cứu xây dựng “Luật về thời hiệu thời hiệu khởi

kiện” trong tương lai
Giải pháp này bảo đảm tính thống nhất, tập trung của các quy định về thời hiệu khởi
kiện trong một đạo luật duy nhất, tránh tình trạng quy định tản mạn như hiện nay. Đồng
thời, việc quy định trong một đạo luật chuyên ngành sẽ giúp cho các quy định về thời hiệu
khởi kiện cụ thể, chi tiết và rõ ràng hơn, đặc biệt là hạn chế được việc ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành. Qua đó, góp phần làm đơn giản hệ thống pháp luật, dễ dàng trong thực
thi, áp dụng pháp luật và phù hợp với yêu cầu pháp điển quy phạm pháp luật đã và đang
được triển khai thực hiện ở nước ta.
Luật này sẽ bao gồm các quy định chung về thời hiệu khởi kiện và các quy định cụ
thể về thời hiệu khởi kiện (thời hiệu đối với mỗi loại tranh chấp). Cụ thể như sau:
- Các quy định chung sẽ điều chỉnh các vấn đề sau: khái niệm thời hiệu khởi kiện;
nguyên tắc xác định thời hiệu khởi kiện; cách tính thời hiệu khởi kiện; các trường hợp
không áp dụng thời hiệu khởi kiện; các trường hợp bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện; các
trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện. Theo đó, cần nghiên cứu, tham khảo, tiếp
thu một số quy định về thời hiệu khởi kiện của các nước trên thế giới như: khái niệm thời
hiệu khởi kiện; hậu quả khi hết thời hiệu khởi kiện; việc quy định một số loại tranh chấp mà
khi thời hiệu khởi kiện kết thúc, nguyên đơn không khởi kiện thì ngoài việc mất quyền khởi
kiện, nguyên đơn sẽ mất quyền mà dựa vào đó nguyên đơn tiến hành khởi kiện. Đồng thời,
cần sửa đổi quy định về việc viện dẫn hết thời hiệu khởi kiện theo hướng quyền viện dẫn
thuộc về bị đơn (đặc biệt là trong quan hệ hợp đồng dân sự),
- Các quy định cụ thể sẽ điều chỉnh các vấn đề sau: quy định các loại tranh chấp cần
áp dụng thời hiệu khởi kiện (những tranh chấp hiện nay đang được quy định thời hiệu khởi
kiện trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau); những loại tranh chấp không áp
dụng thời hiệu khởi kiện và những loại tranh chấp được áp dụng thời hiệu khởi kiện tương
ứng các các loại tranh chấp đã được quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện trong Luật này.
22
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.


3.2.2. Kiến nghị về thi hành các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ
án dân sự
3.2.2.1. Mở rộng thẩm quyền giải thích quy phạm pháp luật của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Để nâng cao công tác chất lượng công tác xét xử của Tòa án, đảm bảo Tòa án cấp sơ
thẩm, cấp phúc thẩm áp dụng đúng, thống nhất pháp luật nói chung và các quy định về thời
hiệu khởi kiện nói riêng thì cần nghiên cứu, trao cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thẩm quyền giải thích quy phạm pháp luật trong quá trình xét xử.
Tuy nhiên, cần quy định rõ ràng nội dung, phạm vi áp dụng của văn bản giải thích.
Theo đó, việc giải thích văn bản quy phạm pháp luật của Tòa án nhằm làm rõ các vướng
mắc dẫn đến sự thiếu rõ ràng, chính xác của các cơ quan xét xử trong áp dụng quy phạm
pháp luật, nhằm bảo đảm tính thống nhất áp dụng pháp luật trong xét xử và giải thích này
có giá trị bắt buộc đối với các cơ quan, người tiến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức, người
tham gia tố tụng.
3.2.2.2. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao chất lượng công tác xét xử của các cơ quan
Tòa án
Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các cấp cần tăng cường tổ chức các lớp
hoặc các đợt tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng xét xử cho các Thẩm phán Tòa án
nhân dân các cấp; thường xuyên tổ chức hội nghị, cuộc họp để rút kinh nghiệm trong việc
áp dụng các quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, kết hợp với việc tổ chức các
Hội thảo khoa học, Hội nghị chuyên đề về áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu
khởi kiện trong xét xử án dân sự.
Cùng với đó, trong chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo cần chú trọng tới
việc đào tạo chuyên sâu về lý luận và thực hành áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ
án dân sự. Ngoài ra, cần làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên về pháp luật và
kỹ năng xét xử trong đó có kỹ năng xử lý các vấn đề về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
3.2.2.3. Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về các quy định liên quan
đến trình tự, thủ tục khởi kiện, thụ lý các vụ án dân sự tại Tòa án nói chung và vấn đề thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự nói riêng

Song song với tăng cường chất lượng đội ngũ làm công tác xét xử, Tòa án nhân dân
tối cao cần có giải pháp để tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các
quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, góp phần hình thành ở người
dân thái độ, ý thức chấp hành pháp luật và giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
23
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự cần được
thực hiện với nhiều biện pháp, hình thức phong phú, phù hợp với từng đối tượng tuyên
truyền như thông qua công tác xét xử, lựa chọn các vụ án điển hình có liên quan đến thời
hiệu khởi kiện để tổ chức xét xử lưu động; xây dựng chuyên trang, chuyên mục giới thiệu,
hướng dẫn, giải đáp thắc mắc về thời hiệu khởi kiện trên Trang thông tin điện tử của Tòa án
nhân dân các cấp, trên Tạp chí Tòa án nhân dân,...
3.2.2.4. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
của Nhân dân đối với hoạt động xét xử của Thẩm phán; tăng cường kiểm sát các bản án,
quyết định, kháng nghị, kiến nghị yêu cầu khắc phục kip thời vi phạm pháp luật
Cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ trong việc kiểm sát các bản án, quyết định giải
quyết vụ án dân sự của Tòa án đã có hiệu lực nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật về thời
hiệu khởi kiện vụ án dân sự để báo cáo Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cần phối hợp với Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên để làm tốt công tác giám sát, phát hiện những
trường hợp áp dụng không đúng quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự tại các Tòa án
dẫn tới làm mất cơ hội bảo vệ quyền lợi của chủ thể, từ đó có những kiến nghị nhằm kịp
thời khắc phục, sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

24

Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.

KẾT LUẬN
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự có thể thấy rằng thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là một vấn đề phức tạp và còn nhiều
quan điểm khác nhau cả trong lý luận và thực tiễn áp dụng. Qua phân tích, so sánh, tác giả
đã đưa thêm những góc nhìn khác nhau về thời hiệu khởi kiện tạo cơ sở cho việc đánh giá
và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về thời hiệu khởi kiện.
Đồng thời, tác giả cũng đi sâu vào phân tích, đánh giá các quy định về thời hiệu khởi
kiện trong BLDS năm 2005 cũng như những ngoại lệ khi áp dụng thời hiệu khởi kiện được
quy định trong Bộ luật này, BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 và một số
Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có liên quan. Qua nghiên cứu,
tác giả đã chỉ rõ những bất cập, hạn chế, những mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất
trong một số quy định của pháp luật hiện hành dẫn đến những cách hiểu khác nhau trên thực
tiễn.
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự và
phân tích, đánh giá một cách khoa học các quy định của pháp luật về vấn về này cũng như
thực tiễn áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện của Tòa án, tác giả đã đưa ra một số kiến
nghị hoàn thiện và thực thi pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.
Tuy nhiên, với phạm vi một đề tài nghiên cứu thuộc chương trình cao học luật và
cũng là lần đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này nên Luận văn không tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót. Tác giả Luận văn mong được các thầy, cô giáo, các nhà nghiên cứu quan tâm
đến vấn đề thời hiệu khởi kiện có những ý kiến đóng góp để có thể tiếp tục nghiên cứu sâu
sắc vấn đề này trong các công trình nghiên cứu tiếp theo.

25
Footer Page 25 of 126.



×