Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chính sách tôn giáo từ thực tiễn thành phố hồ chí minh (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.75 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH HÒA

CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60.34.04.02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI- 2017


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS VĂN TẤT THU

Phản biện 1: ........................................................................
........................................................................

Phản biện 2: ........................................................................
........................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội ….giờ .…ngày ….tháng.....năm 2017.


Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là một phạm trù thuộc thượng tầng kiến trúc. Tôn giáo
ra đời và tác động sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Việt Nam là quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo.
Đến năm 2017, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 14 tôn
giáo, với 38 tổ chức tôn giáo.
Bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh,
tuân thủ pháp luật, thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, cao
hơn là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Thực hiện chính sách tôn giáo của Nhà nước và công tác quản lý
nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm
qua bên cạnh những ưu điểm còn một số hạn chế, bất cập ảnh hưởng trực
tiếp đến thực hiện mục tiêu chính sách tôn giáo.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Chính sách tôn giáo từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian qua, về lĩnh vực tôn giáo đã có nhiều công trình
nghiên cứu và những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, Công trình nghiên cứu, cụ thể như sau: “Mối quan hệ
giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay” của PGS. TS Ngô Hữu Thảo, chủ nhiệm (1998); Cuốn sách “Vấn
đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam lý luận và thực tiễn" của GS.TS
Đỗ Quang Hưng;…

Thứ hai, Những cuốn sách viết về tôn giáo Việt Nam, cụ thể như:
“Lý luận tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng
1


Nghiêm Vạn (2001); “Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo” (2005); “Một số
tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Thanh Xuân (2013).
Các công trình của các tác giả chủ yếu đi vào một nội dung, một
quan điểm nào đó của C.Mác, Ph.Ăngghen hoặc giải quyết một vấn đề
nào đó của tôn giáo ở Việt Nam.
Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về
chính sách tôn giáo ở Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam
để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng chính sách và thực hiện chính sách
Tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất các giải pháp hoàn
thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở
Việt Nam.
3.2.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng chính sách tôn giáo và thực
hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ rõ ưu điểm, hạn
chế, bất cập, nguyên nhân của các hạn chế, bất cập.
3.2.3. Xác định phương hướng và đề xuất của các giải pháp hoàn
thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách tôn giáo
của Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh, về thời gian là từ khi có Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12
2


tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công
tác tôn giáo đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được triển khai dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính
sách tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo của nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Triển khai luận văn này, tác giả sử dụng những nguyên tắc
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp của các khoa học cụ thể,
như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và
lôgic, xã hội học, tôn giáo học.
6. Ý nghĩa của luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết luận, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung
hoàn thiện những vấn đề lý luận về chính sách công nói chung, chính
sách tôn giáo nói riêng ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây
dựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính
sách tôn giáo ở địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đông
Nam bộ có tình hình tôn giáo tương tự với Thành phố Hồ Chí Minh.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học
tập tại trường đại học, cao đẳng, trung cấp trên địa bàn Thành phố Hồ

Chí Minh.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
3


Chương 1. Những vấn đề lý luận về chính sách tôn giáo ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo ở Thành
phố Hồ Chí Minh.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về chính sách tôn giáo ở
Việt Nam

1.1.1. Các khái niệm: Tín ngưỡng; Tôn giáo; chính sách tôn giáo
Theo quan điểm mác-xít, tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức
xã hội mà còn là một thực thể xã hội.
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường
và và hư ảo hiện thực khách quan. Qua phản ánh của tôn giáo mọi sức
mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội trở thành thần bí. Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo năm 2016 quy định: “Tôn giáo là niềm tin của con người, tồn tại
với hệ thống và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật,
lễ nghi và tổ chức” 1.
Chính sách tôn giáo là quan điểm, là tập hợp các quyết định
chính trị có liên quan với nhau của nhà nước với mục tiêu, giải pháp,
công cụ cụ thể nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo

hoặc không theo tôn giáo nào của công dân, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đoàn kết

1

Quốc hội (2016) Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

4


đồng bào theo hoặc không theo tôn giáo nào vì sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước.
1.1.2. Vấn đề chính sách tôn giáo
Giải quyết tốt vấn đề tôn giáo sẽ tạo tiền đề quan trọng để thực
hiện đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục
hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những
giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều
kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các
tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp
luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn
kết dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của
pháp luật.
Với yêu cầu, nhiệm vụ thực hiện đặt ra trong xây dựng nhà nước
pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội và mở cửa
hội nhập quốc tế cần phải nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chính sách tôn
giáo trở thành vấn đề, nhiệm vụ quan trọng và cấp bách đặt ra hiện nay,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.3. Mục tiêu chính sách tôn giáo
Những mục tiêu cụ thể của chính sách tôn giáo, nhằm tạo mục

tiêu để hướng tới trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
Một là, chính sách tôn giáo ở Việt Nam bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân trên cơ sở pháp luật.
Hai là, chính sách tôn giáo thực hiện theo hướng tích cực vận
động đồng bào các tôn giáo tăng cường đoàn kết toàn dân.
Ba là, hướng các chức sắc giáo hội hoạt động tôn giáo theo đúng
pháp luật, ủng hộ các xu hướng tiến bộ trong các tôn giáo, làm cho các
giáo hội ngày càng gắn bó với dân tộc và sự nghiệp cách mạng toàn dân.
5


Bốn là, luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu
và thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội.
Năm là, những quan hệ quốc tế và đối ngoại về tôn giáo hoặc có
liên quan đến tôn giáo phải theo chế độ, chính sách chung về quan hệ quốc
tế đối ngoại của Nhà nước.
1.1.4. Các giải pháp, công cụ chính sách tôn giáo
Một là, giải pháp tác động thông qua lợi ích kinh tế.
Để đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo nhà nước đã ban
hành và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và văn hóa của nhân
dân, trong đó có các giáo dân, đồng bào các tôn giáo.
Hai là, giải pháp tác động thông qua quan hệ cộng đồng.
Quan hệ cộng đồng chặt chẽ của các giáo dân, các tín đồ tôn giáo
tạo nên sức mạnh, sự bền vững của các tôn giáo. Do đó trong xây dựng
và hoàn thiện chính sách tôn giáo phải sử dụng giải pháp tác động thông
qua quan hệ cộng đồng các tôn giáo để tạo ra động lực giúp chính sách
tôn giáo được thực hiện trên thực tế.
Ba là, giải pháp tác động thông qua giá trị xã hội.
Giải pháp này được sử dụng nhằm tạo ra niềm tin, hệ giá trị được

mọi người tôn trọng và yêu thích, giải pháp này đặc biệt có tác dụng
mạnh đối với các tôn giáo, và lý tưởng chính trị.
Ngoài các giải pháp đã được nêu trên, khi xây dựng chính sách
tôn giáo cần phải xây dựng các công cụ chính sách như:
Thứ nhất, công cụ quyền lực, pháp luật của Nhà nước;
Thứ hai, công cụ hành chính tổ chức;
Cuối cùng, một công cụ hữu dụng và tác động tương đối mạnh
cần được sử dụng trong xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo đó
là công cụ “tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng”.
6


Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng để các đối tượng chính
sách và người dân hiểu rõ về mục tiêu, yêu cầu của chính sách, về tính
đúng đắn của chính sách để họ tự giác thực hiện.
1.1.5. Thể chế chính sách tôn giáo
Quan điểm của Đảng về tôn giáo đã được nhà nước ta thể chế
hóa trong các văn bản pháp luật cao nhất của nhà nước, trong các Hiến
pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt trong Hiến pháp 2013.
Trên cơ sở quan điểm, chủ trương nêu trong Nghị quyết số 24 NQTW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khóa VI, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là chính phủ) cụ thể hóa bằng việc ban hành Nghị định số 69/NĐ- HĐBT
ngày 21/3/1991 về việc “Quy định về các hoạt động tôn giáo” là văn bản
mở đầu.
Sau đó là nhiều văn bản được ban hành để giải quyết tình hình
tôn giáo như: Nghị định 26/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ “Về
các hoạt động tôn giáo” [21]; Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQH11
ngày 18 tháng 6 năm 2004 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tín
ngưỡng, tôn giáo được ban hành cũng như Nghị định số 22/2005/NĐCP của Chính phủ về việc “Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo” ban hành (3/2005); Chỉ thị 01/2005/CT-TTg
ngày 04 tháng 02 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số công

tác đối với đạo Tin lành; Chỉ thị số 1940/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12
năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về nhà, đất liên quan đến tôn giáo;…
Đặc biệt, ngày 18/11/2016 tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa 14
đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của công dân đã được Hiến định và luật định đầy đủ và cụ thể.
1.1.6. Chủ thể chính sách tôn giáo
Chủ thể quyết định chính sách tôn giáo cũng được Hiến pháp
trao cho Quốc hội, cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cụ
7


thể, Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn:
“Quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước (khoản 5 Điều 70 Hiến
pháp 2013)”2.

1.1.7. Những yếu tố tác động đến chính sách tôn giáo ở Việt Nam
Thứ nhất, yếu tố chủ quan
Một, quá trình xây dựng chính sách tôn giáo
Một số quy định của Pháp lệnh còn thiếu cụ thể, chưa phù hợp
với thực tiễn hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người.
Hai, quá trình thực hiện chính sách tôn giáo
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp có nhiều
điểm chưa phù hợp với nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, yếu tố khách quan
Thứ nhất, âm mưu lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc đang đẩy mạnh chiến lược “diễn
biến hoà bình” chống Việt Nam với phương châm lấy chống phá về chính

trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn,
tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn
đe, gây sức ép về quân sự.
Thứ hai, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch.
Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau :
Chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước; lợi dụng
những vấn đề tôn giáo để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc

2

Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

8


cực đoan; tập trung phá hoại các cơ sở kinh tế - xã; tìm mọi cách để xây
dựng, nuôi dưỡng các tổ chức phản động người Việt Nam ở nước ngoài…
1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về tôn giáo

1.2.1. Quan điểm của Đảng về tôn giáo và chính sách tôn giáo
Vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về tôn giáo, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 24NQ/TW ngày 16/10/1990 về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới, Nghị quyết xác định: “Tôn giáo là một vấn đề còn tồn tại lâu
dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng
xã hội mới”3.
Đến Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX
đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 thống nhất nhận

thức về các quan điểm về tôn giáo, cụ thể như sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là một bộ phận của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo
1.2.2. Chính sách của Nhà nước về tôn giáo

Bộ Chính trị (1990) Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 16/10/1990 về tăng cường
tôn giáo trong tình hình mới.
3

9


Từ những quan điểm của Đảng về tôn giáo và chính sách tôn giáo,
ngày 18/06/2004, Thường vụ Quốc hội khóa XI đã thông qua Pháp lệnh
Tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm 6 chương và 41 điều. Sau đó, Luật Tín
ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc hội thông qua ngày 18/11/2016 có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018 bao gồm 9 chương và 68 điều, với
những nội dung cụ thể về:
Một là, chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Hai là, chính sách về hoạt động tín ngưỡng.
Ba là, chính sách về việc đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo

Bốn là, chính sách về việc thành lập, chia, tách, sát nhập, hợp
nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Năm là, chính sách về việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
bầu cử, suy cử, thuyên chuyển, cách chức bãi nhiệm chức sắc, chức việc,
nhà tu hành.
Sáu là, chính sách về cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng
tôn giáo.
Bảy là, chính sách về hoạt động tôn giáo; hoạt động xuất bản, giáo
dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo.
Tám là, chính sách về tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức
tôn giáo.
Chín là, chính sách về quản lý nhà nước và xử lý vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Kết luận Chương 1
Việc xây dựng và hoàn thiện chính sách tôn giáo hiện nay là một
việc làm cấp bách. Cần phải thực hiện xây dựng và hoàn thiện chính sách
tôn giáo một cách bài bản, đủ quy trình, đúng nguyên tắc trên cơ sở lý
luận và thực tiễn để khắc phục những hạn chế hiện tại và tình hình tôn
giáo trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
10


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và tôn giáo của Thành phố Hồ
Chí Minh ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo

2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 100 10'

– 10038 vĩ độ bắc và 1060 22' – 106054' kinh độ đông. Phía Bắc giáp tỉnh
Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh , Đông và Đông Bắc giáp tỉnh
Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp
tỉnh Long An và Tiền Giang. Đây là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh
trong vùng và là cửa ngõ quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện,
tổng diện tích 2.095,06 km². Về dân số, tính đến năm 2015, Thành phố
có 8.224.000 triệu người và sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh
không đồng đều. Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm
(GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách nhà nước.
Về mặt văn hóa - xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ nhiều
dòng chảy văn hóa. Nét đặc trưng văn hóa của vùng đất này là sự kết hợp
hài hòa giữa truyền thống dân tộc với những nét văn hóa phương Bắc,
phương Tây, góp phần thành lối sống, phong cách con người Thành phố.
2.1.2. Tình hình tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh
Theo số liệu của Ban Tôn giáo Thành phố, đến cuối năm 2014,
Thành phố Hồ Chí Minh có 2.530.902 tín đồ, 9.062 chức sắc, 4.742 nhà tu
hành, 85 hội đoàn tôn giáo, 1544 cơ sở thờ tự, 2 tòa soạn báo Giác Ngộ và
báo Công giáo và Dân tộc.
11


Hiện nay, tại Thành phố Hồ Chí Minh, 1/3 dân số là tín đồ của 7
tôn giáo với 24 tổ chức giáo hội các cấp hoạt động tại nhiều quận, huyện
của Thành phố.
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu, công tác thực hiện chính sách
tôn giáo trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một số khó khăn
nhất định trong đó lợi dụng tôn giáo phá hoại công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, cụ thể là ở Thành phố Hồ Chí Minh.


2.1.3. Quan điểm của Thành ủy và Chính quyền Thành phố
về chính sách tôn giáo
Trước sự đa văn hóa, đa tín ngưỡng, tôn giáo của các dân tộc
sinh sống trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Thành ủy và Chính
quyền Thành phố đã có những quan điểm về việc đảm bảo ổn định xã
hội trong đó có vấn đề tôn giáo. Cụ thể là:
Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách tôn giáo của Nhà
nước đã đề ra;
Tạo điều kiện cho các tôn giáo trên địa bàn Thành phố hoạt động
bình thường theo đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước;
Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống tốt
đời, đẹp đạo trong quần chúng, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ cở trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Tăng cường thông tin tuyên truyền về chính sách tôn giáo của
nhà nước đến với toàn nhân dân thành phố, nhất là những quận, huyện
có đông đồng bào có đạo;
Tăng cường, củng cố chính quyền thành phố và các quận, huyện
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về vấn đề tôn giáo.
Bên cạnh đó, hướng dẫn các tôn giáo trên địa bàn thành phố thực hiện
quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối của Đảng và Nhà nước.

12


2.2. Thực trạng chính sách tôn giáo hiện nay
2.2.1 Thực trạng mục tiêu chính sách tôn giáo
Chính sách nhất quán của nhà nước Việt Nam là tôn trọng và tạo
điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tôn giáo, tín
ngưỡng; coi trọng chính sách đoàn kết và hòa hợp giữa các tôn giáo, đảm
bảo sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng,

bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.
Chính sách tôn giáo ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu
thực tế hiện nay. Nhưng không vì lý do đó mà chúng ta chủ quan thực hiện
chính sách tôn giáo một cách lỏng lẻo, thiếu nghiêm túc. Bởi vì, vấn đề tôn
giáo luôn thay đổi theo tình hình thế giới, luôn có những tình huống mới
mà chúng ta cần phải đề phòng.
2.2.2. Thực trạng thể chế chính sách tôn giáo
Có thể đánh giá những kết quả đạt được kể từ khi ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
Thứ nhất, đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tôn giáo và
quản lý các hoạt động tôn giáo;
Thứ hai, là công cụ sắc bén đấu tranh với mọi âm mưu, hoạt động
lợi dụng tôn giáo chống lại Đảng, Nhà nước ta;
Thứ ba, góp phần quan trọng trong việc củng cố sự đoàn kết, phát
huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc trong phát triển kinh tế và giữ vững
ổn định chính trị - xã hội.
Bên cạnh các kết quả đã đạt được như trên. Các văn bản quy phạm
pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay ở nước ta còn một số hạn chế,
tồn tại cần phải khắc phục như:
Một là, một số chủ trương, chính sách tôn giáo còn chậm được thể
chế hóa, gây lúng túng cho địa phương;
Hai là, một số nội dung chưa được quy định trong pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo;
13


Ba là, còn có cách hiểu và vận dụng khác nhau đối với một số
nội dung quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
Bốn là, có sự vận dụng khác nhau ở một số địa phương khi
xem xét việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử trong

tôn giáo;
Năm là, một số quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
còn thiếu cụ thể;
Sáu là, một số quy định trong pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo
chưa phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi;
Bảy là, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo còn thiếu các biện pháp
chế tài.
2.2.3. Thực trạng các giải pháp công cụ chính sách tôn giáo
Hệ thống quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được bổ
sung, hoàn thiện; công tác vận động quần chúng và công tác quản lý nhà
nước về tín ngưỡng, tôn giáo, về an ninh, trật tự ở cơ sở ngày càng được
chú trọng.
Tuy nhiên, thực tiễn đã đặt ra vấn đề đặt ra cho chính sách tôn
giáo trong tình hình hiện nay là:
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện và ban hành văn bản pháp
luật, hành lang pháp lý để thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được
Quốc hội khoa 14 thông qua ngày 18/11/2016.
Thứ hai, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác quản
lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ ba, xử lý các vấn đề nảy sinh trong tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ tư, hình thành nguyên tắc, phương châm trong công tác
tôn giáo.
Thứ năm, chú trọng công tác đối ngoại tôn giáo.

14


2.3. Thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo tại Thành phố
Hồ Chí Minh
2.3.1. Thực trạng thực hiện mục tiêu chính sách tôn giáo tại

Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh luôn hướng tới mục tiêu giải quyết vấn
đề tôn giáo đó là: một là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của công dân theo quy định của Hiến pháp và Pháp luật; Hai là,
thực hiện chính sách theo hướng tích cực vận động đồng bào các tôn giáo
tăng cường đoàn kết toàn dân; ba là, hướng các chức sắc, giáo hội, tín đồ
trên địa bàn Thành phố hoạt động tôn giáo theo đúng pháp luật; bốn là,
luôn luôn cảnh giác, kịp thời chống lại những âm mưu và thủ đoạn của
các thế lực thù địch.
2.3.2. Thực trạng thực hiện các giải pháp, công cụ chính sách
tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh
Những năm gần đây thực trạng thực hiện chính sách tôn giáo ở
Thành phố Hồ Chí Minh đã gặt hái được những thành tựu, cụ thể là:
Thứ nhất, Công tác vận động chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Thứ hai, về công tác quản lý nhà nước được triển khai hiệu quả.
Thứ ba, công tác đấu tranh xử lý các vấn đề phức tạp về tôn giáo.
Thứ tư, công tác thực hiện giải pháp thông qua lợi ích kinh tế.
Tuy nhiên, còn tồn tại một số hạn chế như: Chế độ thông tin, báo
cáo tình hình tôn giáo từ Thành phố đến quận, huyện và các ngành đoàn
thể thành phố chưa được duy trì thường xuyên; một số nơi chưa thực hiện
nghiêm túc, nhất là báo cáo nhanh các vấn đề tôn giáo có diễn biến phức
tạp, dẫn đến xử lý thiết đồng bộ, kịp thời;…
2.3.3. Thực trạng thực hiện thể chế chính sách tôn giáo tại
Thành phố Hồ Chí Minh
Trong những năm qua, việc thực hiện thể chế chính sách tôn giáo
trên Thành phố Hồ Chí Minh được Thành ủy và Chính quyền Thành phố
15


nghiêm túc thực hiện và đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng trong việc

thực hiện thể chế chính sách tôn giáo.
Tình hình tôn giáo trên địa bàn Thành phố có những phát sinh
mới mà nhà nước và chính quyền chưa thể dự báo được, từ đó chưa có
những cơ sở pháp lý để quản lý tốt hơn vấn đề tôn giáo mới phát sinh.
Cụ thể như: việc quản lý các hội đoàn tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ
nước ngoài, vấn đề đòi lại cơ sở vật chất tôn giáo, vấn đề tranh chấp nội
bộ trong các tôn giáo và đặc biệt là vấn đề an ninh tôn giáo và bọn phản
động lưu vong ở nước ngoài cấu kết các thế lực chống phá công cuộc xây
dựng Thành phố;…
2.3.4. Thực trạng các chủ thể tham gia thực hiện chính sách
tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh
Là một trung tâm về nhiều mặt của cả nước, là đầu mối giao lưu
quốc tế, Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách tôn giáo đã tích cực
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước đề ra mang lại
nhiều thành tựu cụ thể.
Mặt khác, chủ thể tham gia chính sách tôn giáo tại Thành phố Hồ
Chí Minh vẫn còn nhiều hạn chế. Các cấp ủy, chính quyền, cán bộ làm công
tác tôn giáo chưa nhận thức đúng đắn chủ trương, chính sách tôn giáo, chưa
làm tốt công tác hướng dẫn, vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo.
2.3.5. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính
sách tôn giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh
Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách tôn giáo trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh cụ thể là:
Thứ nhất, dân số đông, các nguồn lưu dân nhập cư ngày càng tập
trung về Thành phố Hồ Chí Minh để làm việc tạo nên có nhiều thành
phần dân tộc và tôn giáo;
Thứ hai, các thế lực thù địch nội tại của chế độ cũ luôn tìm cách
chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố;
16



Thứ ba, từ xu hướng mở cửa hội nhập, các thế lực thù địch ngoại
sinh đã lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tín đồ tôn giáo gây rối, biểu
tình chống phá chính quyền.
Thứ tư, có nhiều tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận vẫn
hoạt động, hoạt động mạnh tác động không nhỏ đến quá trình thực hiện
chính sách tôn giáo;
2.4. Đánh giá chung về chính sách tôn giáo hiện nay
2.4.1. Ưu điểm của chính sách tôn giáo
Thứ nhất, về vấn đề tín ngưỡng.
Trong thời gian vừa qua nhiều lễ hội tín ngưỡng, cơ sở tín
ngưỡng đã được khôi phục hoạt động và có chiều hướng phát triển, đa
dạng hóa các loại hình hoạt động. Nhưng xét cho cùng hoạt động tín
ngưỡng cơ bản tuân thủ pháp luật, góp phần nâng cao đời sống tinh thần
của một bộ phận nhân dân.
Thứ hai, về vấn đề tôn giáo.
Cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp theo thẩm quyền
đã cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo và thừa ủy quyền
công nhận cho 22 tổ chức, hệ phái, cộng đồng tôn giáo, và pháp môn tu
học; Ban Tôn giáo Chính phủ đã cấp đăng ký hoạt động cho 39 dòng tu,
4 hội đoàn của Công giáo4.
2.4.2. Các hạn chế, bất cập của chính sách tôn giáo
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong việc cụ thể hóa thực hiện chính
sách tôn giáo vào cuộc sống;
Thứ hai, chính sách tôn giáo trong quá trình thực hiện, công cụ thực
hiện còn một số nội dung thiếu cụ thể, không phù hợp với thực tiễn.
4

Ban Tôn giáo Chính phủ (2015), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Pháp lệnh


Tín ngưỡng, tôn giáo 2004.

17


Thứ ba, chính sách tôn giáo Việt Nam luôn đứng trước thách thức
của tình hình tôn giáo hiện nay như việc kích động giáo dân tập trung đông
người tổ chức cầu nguyện, hiệp thông, lên án chính quyền đàn áp tôn giáo, coi
thường pháp luật, công khai thách thức chống đối chính quyền, gây rối trật tự
công cộng, chống người thi hành công vụ, bắt giữ cán bộ, đập phát tài sản,…

2.4.3. Nguyên nhân của các hạn chế, bất cập của chính sách
tôn giáo
Những hạn chế, bất cập của chính sách tôn giáo ở Việt Nam đã
được nêu ở trên đều có những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo, có những
quy định liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo được quy định mới không
thống nhất dẫn đến sự mâu thuẩn, chồng chéo;
Thứ hai, việc áp dụng pháp luật trong quản lý hoạt động tôn giáo và
giải quyết vấn đề tôn giáo của cơ quan có thẩm quyền chưa được thống nhất;
Thứ ba, việc phân công, phân cấp phân quyền trong việc thực
hiện chính sách tôn giáo vào trong cuộc sống chưa phù hợp, chưa tương
xứng với điều kiện, năng lực thực hiện các chủ thể, chưa tính tới yếu tố
đặc thù, nhạy cảm của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo;
Thứ tư, trong quá trình thực hiện chính sách, nhất là các văn bản
pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, các cơ quan quản lý nhà
nước chưa lường hết được các yếu tố phát sinh trong thực tiễn;
Kết luận Chương 2
Sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo của Thành phố Hồ Chí Minh,
làm cho tình hình tôn giáo trên địa bàn, trong quá trình thực hiện chính

sách tôn giáo còn gặp nhiều bất cập. Từ việc nghiên cứu thực trạng thực
hiện chính sách tôn giáo từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm xây
dựng phương hướng, xây dựng các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay.
18


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Phương hướng hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
Về nhận thức lý luận, Đảng ta đã nêu lên "3 luận đề" có tính đột
phá về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng:
Một là, tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài;
Hai là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân;
Ba là, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới.
Đồng thời nêu lên “3 quan điểm” đổi mới về công tác tôn giáo:
Một là, công tác tôn giáo vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu
tín ngưỡng của quần chúng, vừa cảnh giác kịp thời đấu tranh chống địch
lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng;
Hai là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động
quần chúng;
Ba là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị.
Từ những nhận thức mới về vấn đề tôn giáo, Đảng ta đã nêu lên
những quan điểm mới về công tác tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ nhất, công tác tôn giáo vừa phải quan tâm hợp lý nhu cầu

tín ngưỡng của quần chúng, vừa phải kịp thời đấu tranh chống địch lợi
dụng tôn giáo đế phá hoại cách mạng;
Thứ hai, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận
động quần chúng;
19


Thứ ba, làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ
thống chính trị do Đảng lãnh đạo;
Thứ tư, việc theo đạo, truyền đạo và hoạt động tôn giáo (sinh hoạt
động, truyền đạo và quản đạo) phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện thể chế chính sách tôn giáo
Hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác
quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện, thể
chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo.
Trước hết, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được ghi nhận trong
Hiến pháp. Để đảm bảo thực hiện tốt Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012
Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo
(gồm 5 chương, 46 điều), bổ sung nhiều quy định mới rõ ràng, minh bạch,
đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo.
Như vậy, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam đã khá phù hợp và đẩy đủ. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc
hội thông qua ngày 18/11/2016 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 đòi
hỏi nhà nước khẩn trương cụ thể hóa các quy định về chính sách trong Luật
Tín ngưỡng, tôn giáo nhằm nâng cao hiệu quả của Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo và đạt được mục tiêu của chính sách tôn giáo.


3.2.2. Hoàn thiện các giải pháp, công cụ chính sách tôn giáo
Việc hoàn thiện các giải pháp và công cụ chính sách tôn giáo hiện
nay là một việc làm rất cần thiết và quan trọng để giải quyết các bất cập,
hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách tôn giáo. Hoàn thiện giải pháp
và công cụ chính sách tôn giáo nên tập trung hoàn thiện các giải pháp và
công cụ sau:
20


Một là, hoàn thiện giải pháp tác động đến đối tượng chính sách
thông qua lợi ích kinh tế.
Hai là, hoàn thiện giải pháp tác động đến đối tượng chính sách
thông qua quan hệ cộng đồng tôn giáo bằng việc tăng cường, củng cố
quan hệ cộng đồng của các tôn giáo ở nước ta.
Ba là, hoàn thiện giải pháp tác động đến đối tượng chính sách
thông qua phát huy các giá trị xã hội.
Đặc biệt là thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục xây
dựng nhân tố tích cực trong tín đồ, các chức sắc, chức việc tôn giáo vì họ là
lực lượng có uy tín và được các tín đồ, đồng bào các tôn giáo đặc biệt tin cậy.
3.2.3. Nâng cao năng lực của chủ thể chính sách tôn giáo
Để chính sách tôn giáo thực sự đáp ứng được tình hình tôn giáo
ở nước ta hiện nay, công tác thực hiện chính sách tôn giáo cần phải được
nâng cao năng lực của các chủ thể chính sách. Cụ thể là:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tôn
giáo trong tình hình hiện nay.
Thứ hai, nâng cao năng lực của chủ thể thực hiện chính sách tôn
giáo cũng là một việc làm quan trọng.
Xuất phát từ những bất cập, hạn chế của công tác tôn giáo, cần
phải có những giải pháp để khắc phục nâng cao chủ thể thực hiện chính
sách tôn giáo, cụ thể là:

Thứ nhất, đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo phải có một lộ
trình dài hạn, khoa học.
Thứ hai, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo bằng những
hình thức đa dạng và thiết thực hơn.
Thứ ba, tăng cường hoạt động khảo sát tình hình thực tiễn nhằm
đúc rút những bài học kinh nghiệm.
Thứ tư, tăng cường huấn luyện các kỹ năng cho cán bộ thực hiện
chính sách tôn giáo.
21


3.2.4. Tăng cường tuyên truyền giáo dục về chính sách tôn giáo
Để tiếp tục thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng trong vùng đồng bào có đạo trên phạm vi cả nước cần tập trung một
số công tác sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, triển khai và thực hiện tốt Nghị
quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo; thực hiện Luật
Tín ngưỡng tôn giáo; thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết, Quyết
định, chương tình, kế hoạch liên quan đến công tác tôn giáo.
Thứ hai, tiếp tục củng cố, kiện toàn hệ thống Mặt trận và các tổ chức
thành viên từ tỉnh đến cơ sở theo hướng chuyên sâu, thiết thực, hiệu quả.
Thứ ba, các cấp, các ngành, đoàn thể trên địa bàn các tỉnh cần
chủ động phối hợp tham mưu, đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, giải
quyết có hiệu quả các vụ việc, vấn đề phát sinh liên quan đến tôn giáo.
Thứ tư, đổi mới công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối ngoại liên quan
đến tôn giáo; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của chức
sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo.

3.2.5. Tăng cường các nguồn lực cho chính sách tôn giáo
Nguồn lực chính sách tôn giáo được cấu thành bởi 3 yếu tố: Cơ
sở vật chất phục vụ thực hiện chính sách tôn giáo, nguồn nhân lực thực
hiện chính sách tôn giáo, kinh phí thực hiện chính sách tôn giáo, trong
đó nguồn lực con người được coi là quan trọng nhất trong thực hiện chính
sách tôn giáo hiện nay.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho tôn giáo, nghĩa là đầu tư phát
triển đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách tôn giáo ở nước ta hiện nay.
3.2.6. Những giải pháp khác
22


Một là, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền về
tôn giáo, tín ngưỡng theo tinh thần của Hiến pháp 2013 và các văn bản chỉ
đạo về công tác tôn giáo, tín ngưỡng;
Hai là, nhanh chóng xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống văn
bản pháp luật để thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo;
Ba là, làm tốt công tác quy hoạch, xây dựng và kiện toàn tổ chức
bộ máy thực hiện chính sách tôn giáo các cấp, bắt đầu từ cơ sở.
Bốn là, xây dựng kế hoạch, tạo nguồn tuyển dụng, ưu tiên tuyển
dụng cán bộ, công chức cho ngành quản lý nhà nước về tôn giáo;
Năm là, xây dựng và hoàn thiện một chiến lược tổng thể phát
triển ngành quản lý nhà nước về tôn giáo trong cơ cấu tổ chức đa ngành,
đa lĩnh vực..
3.3. Các kiến nghị đề xuất
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới nhận thức về chính sách tôn giáo.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện chính sách tôn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng và công ước quốc tế.
Thứ ba, đổi mới về quản lý tôn giáo.
Thứ tư, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh

hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước
công nhận, đúng quy định của pháp luật.
Thứ năm, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh chống
những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc.

23


×