Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA8000 tại công ty cổ phần cơ khí luyện kim sơn long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.58 KB, 25 trang )

BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI (CSII)


CHUYÊN ĐỀ

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
CỦA DOANH NGHIỆP VỀ LAO ĐỘNG

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang
Lớp:

C-Đ10NL1

Niên khóa: 2010 - 2012


_Tp. Hồ Chí Minh, tháng 01/2011_

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................3
Phần: MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................3
2. Mục tiêu ngiên cứu....................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................4
5. Nguồn số liệu.............................................................................................4
6. Kết cấu.......................................................................................................5
Phần: NỘI DUNG.................................................................................................5


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CỞ SỞ THỰC TIỄN..............................5
1.1. Sơ lược về Công ty CP luyện kim Sơn Long.........................................5
1.2. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp...................................6
1.3. Các nội dung và lý luận liên quan..........................................................8
1.3.1. Giới thiệu chung về SA8000..........................................................9
1.3.2. Khái quát chung về Trách nhiện xã hội (TNXH) trong lĩnh vực
An toàn, bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường (AT-BVSK và BVMT).............9
1.3.3. Thực trạng thực hiện TNXH trong lĩnh vực AT – BVSK............13
1.3.4. Thực trạng thực hiện TNXH đối với vấn đề BVMT....................13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ TIÊU CHUẨN SA8000 TẠI
CÔNG TY CP CƠ KHÍ LUYỆN KIM SƠN LONG..........................................15
2.1. Các yêu cầu khi áp dụng tiêu chuẩn SA8000 tại Công ty....................15
2.1.1. Điều kiện áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000...................................16
2.1.2. Lợi ích của việc áp dụng SA 8000 ở công ty................................16
2.2. Thực trạng áp dụng SA8000 ở công ty.................................................18
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT SA8000...........................19
KẾT LUẬN.........................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................25


Trách nhiệm xã hội

3

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Phần: MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 551 đơn vị đạt tiêu chuẩn quản
lý chất lượng ISO 9000, 21 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO

140000, nhưng mới chỉ có rất ít doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn quản lý trách
nhiệm xã hội và điều kiện lao động SA 8000. Đây là một thực trạng đáng lo
ngại, vì hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO
140000 và SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng hoá (đặc biệt là hàng dệt - may) sang thị trường Mỹ và Châu Âu.
Các nhà quản lý ở các công ty đã áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 ở Việt Nam
đều cho rằng, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn này không khó. Nền tảng của tiêu
chuẩn này chính là thực hiện tốt Bộ luật Lao động và xây dựng tác phong công
nghiệp trong quản lý, sản xuất, kinh doanh, tạo mối quan hệ tôn trọng đoàn kết,
gắn bó giữa những người lao động. Bộ luật Lao động Việt Nam cũng quy định
cấm phân biệt đối xử, ngược đãi, cưỡng bức người lao động và khống chế số giờ
làm thêm (không quá 4 giờ/ngày và 200 giờ/năm) SA 8000 quy định giờ làm
việc chuẩn (8 giờ/ ngày hoặc 48 giờ/tuần). Những vấn đề về kỷ luật lao động,
tiền lương trong Bộ luật Lao động cũng được đề cập xử lý tương tự như yêu cầu
của SA 8000. Qua một số nghiên cứu sơ bộ và khảo sát về việc áp dụng các tiêu
chuẩn SA 8000 do nhóm nghiên cứu của Viện Kinh tế TP. Hồ Chí Minh tiến
hành, việc áp dụng SA 8000 trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phần
khó khăn, nhưng sức ép từ phía công ty nhập khẩu sẽ là động cơ thúc đẩy các
doanh nghiệp này áp dụng SA 8000.
Trong tình hình công ty Cổ phần Cơ khí luyện kim Sơn Long có những
bước phát triển nhất định cũng gặp không ít khó khăn khi vừa cạnh tranh với
nền kinh tế thị trường, vừa có sự xâm nhập của các mặt hàng nước ngoài. Từ đó,
vấn đề là làm thế nào để có thể cung cấp thông tin kịp thời về tình hình tiêu thụ
hàng hóa trong mạng lưới tiêu thụ của công ty, cũng như xác định kết quả kinh
doanh của từng kênh phân phối là vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với doanh
nghiệp nhất là trong điều kiện cạnh tranh mạnh mẽ trong những mặt hàng kinh
doanh như hiện nay.
Xuất phát từ sự cần thiết về cách quản lý công ty một cách hiệu quả trên
cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, em đã tìm hiểu và nghiên cứu đề tài
“Thực trạng áp dụng bộ tiêu chuẩn SA8000 tại công ty Cổ phần Cơ khí luyện

kim Sơn Long”.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Nội dung của đề tài nhằm tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện bộ
tiêu chuẩn SA8000 tại công ty.
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

4

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Từ đó, đưa ra các khó khăn và giải pháp thực hiện giúp hoàn thiện hiệu
quả trong việc áp dụng bộ tiều chuẩn SA8000 tại công ty.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Bộ tiêu chuẩn thực hiện trách nhiệm xã hội
SA8000.
- Phạm vi nghiêm cứu: công ty Cổ phần Cơ khí luyện kim Sơn Long.
4.Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào giáo trình đã tìm hiểu;
Căn cứ vào việc tìm kiếm và thu thập thông tin từ các website, báo chí;
Dựa vào sự hỗ trợ của các chuyên gia, các đơn vị cơ quan trong xã hội;
Được thực hiện dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp thu thập số liệu,
thống kê, tổng hợp và phân tích số liệu và đưa ra nhận định.
5.Nguồn số liệu
Khảo sát điều tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
Các diễn đàn về trách nhiệm xã hội.
6.Kết cấu
Chương I: Cơ sở lý luận

Chương II: Thực trạng việc thực hiện tiêu chuẩn SA8000 tại công ty
Chương III: Giải pháp và kiến nghị

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

5

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Phần: NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Sơ lược về Công ty CP luyện kim Sơn Long
Công ty luyện kim Sơn Long là một Công ty sản xuất các mặt hàng phục
vụ các Công ty trong ngành mía đường như nhà máy đường Sóc Trăng, nhà máy
đường Hiệp Hòa (Long An)…và một số trang thiết bị phục vụ ngành xi măng
cốt thép.
Hiện nay Công ty CP luyện kim Sơn Long là thành viên của Công ty thép
Việt Nam, cơ quan đại diện cho ngành găng thép Việt Nam, cung ứng đa dạng
các mặ hàng trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
1.2. Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đó là sự tự nguyện của doanh nghiệp cam
kết thực hiện tốt các vấn đề về lao động, môi trường và hoạt động kinh doanh
trên cơ sở tuân thủ các luật pháp quốc gia, thông lệ quốc tế và đảm bảo hài hòa
lợi ích của các bên đồng thời góp phần phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia
một cách bền vững.
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được xem là sự cam kết của doanh

nghiệp đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những việc làm
nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên gia đình họ,
cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như
cho sự phát triển chung của xã hội.
Ngày nay, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao hàm nhiều khía cạnh
hơn, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, một doanh nghiệp hiện đan chỉ được xem
là có trách nhiệm xã hội khi: đảm bảo những hoạt động của mình không gây ra
những tác hại của môi trường sinh thái, tức phải thể hiện sự thân thiện với môi
trường trong qúa trình sản xuất, đây là một tiêu chí quan trọng với người tiêu
dùng; phải biết quan tâm đến người lao động, người làm công, không chỉ về mặt
vật chất mà cả vè tinh thần.
1.3. Các nội dung và lý luận liên quan
1.3.1. Giới thiệu chung về SA8000
SA 8000 được Hội đồng công nhận quyền ưu tiên kinh tế thuộc Hội
đồng Ưu tiên kinh tế CEPAA (Council on Economic Priorities Accreditation
Agency), nay được gọi là SAI (Social Accountability International) xây dựng
dựa trên 12 Công ước của Tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labor
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

6

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Organization), Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ em và Tuyên bố
toàn cầu về Nhân quyền. SAI là tổ chức phi chính phủ chuyên hoạt động về các
lĩnh vực hợp tác trách nhiệm xã hội, được thành lập năm 1969, trụ sở tại New
York.

SA 8000 ban hành năm 1997, đưa các yêu cầu về quản trị trách nhiệm
xã hội nhằm cải thiện điều kiện làm việc trên toàn cầu. SA 8000 khuyến khích
các doanh nghiệp sản xuất và các tổ chức khác xây dựng, duy trì và áp dụng các
việc thực hành tại nơi làm việc mà xã hội có thể chấp nhận. Tiêu chuẩn này
được xem là tiêu chuẩn về nơi làm việc có thể được chấp nhận toàn cầu, có thể
áp dụng cho các doanh nghiệp ở mọi quy mô lớn, nhỏ ở cả các nước công
nghiệp phát triển và đang phát triển. Tuy nhiên, hiện nay tiêu chuẩn đang thu hút
được sự chú ý của ngành công nghiệp nhẹ yêu cầu nhiều lao động.
Theo ước lượng, có khoảng 100 triệu trẻ em trên thế giới đang phải lao
động hàng ngày, chủ yếu thuộc khu vực Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ. Áp
dụng tiêu chuẩn SA 8000, doanh nghiệp không được sử dụng lao động trẻ em.
Thêm vào đó, các doanh nghiệp phải cung cấp một môi trường làm việc vệ sinh
và an toàn, tôn trọng quyền của người lao động trong việc tham gia công đoàn.
Các doanh nghiệp đề nghị được cấp chứng nhận SA 8000 phải đảm bảo
rằng các nhân viên của mình cũng như của các nhà cung cấp không làm việc quá
48 giờ, hoặc 6 ngày một tuần. Hơn nữa, thù lao lao động phải lớn hơn hoặc bằng
mức thù lao tối thiểu của ngành hoặc do luật pháp quy định. SA 8000 giúp ngăn
ngừa sự lạm dụng lao động trẻ em, lao động tù nhân và đối xử phân biệt lao
động nam nữ, dân tộc, tôn giáo, làm tăng trách nhiệm xã hội của người sử dụng
lao động ngày càng to lớn, đó là luôn hướng tới điều kiện làm việc ngày càng tốt
hơn cho công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp.
SA 8000 tạo ra một bộ quy tắc toàn cầu đối với điều kiện làm việc trong
các ngành sản xuất, giúp cho người tiêu dùng ở các nước phát triển tin tưởng
rằng hàng hóa mà họ mua và sử dụng, đặc biệt là quần áo, đồ chơi, mỹ phẩm, và
đồ điện tử đã được sản xuất phù hợp với bộ tiêu chuẩn được công nhận.
Đến ngày 01/01/2010, phiên bản SA 8000:2008 chính thức thay phiên
bản cũ.
SA8000 là một hệ thống các tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội để
hoàn thiện các điều kiện làm việc cho người lao động tại các doanh nghiệp,
trang trại hay văn phòng, do Social Accountability International (SAI) phát triển

và giám sát. Hướng dẫn cụ thể để thực hiện hay kiểm tra các tiêu chuẩn xã hội
theo SA8000 có sẵn tại trang chủ của tổ chức này (SA8000). SAI cũng đưa ra
chương trình tập huấn SA8000 và các tiêu chuẩn làm việc cho các nhà quản lý,
công nhân và các nhà kiểm tra tiêu chuẩn xã hội. Tổ chức này cũng hoạt động
trong vai trò của nhà môi giới trung gian để cấp phép và giám sát các tổ chức
kiểm tra chính sách xã hội nhằm cấp chứng chỉ cho các người (doanh nghiệp) sử
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

7

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

dụng lao động đạt tiêu chuẩn SA8000 cũng như hướng dẫn để các doanh nghiệp
đó phát triển phù hợp với các tiêu chuẩn tương tác đã đưa ra.
SA8000 dựa trên Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước
quốc tế về quyền trẻ em của Liên hợp quốc và một loạt các công ước khác của
Tổ chức lao động quốc tế (ILO). SA8000 bao gồm các lĩnh vực sau của trách
nhiệm giải trình:
- Lao động trẻ em: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động của trẻ
em dưới 14 (hoặc 15 tuổi tùy theo từng quốc gia) và trẻ vị thành niên 14(15)-18.
- Lao động cưỡng bức: Bao gồm các vấn đề liên quan đến lao động tù
tội, lao động để trả nợ cho người khác v.v
- An toàn và sức khỏe tại nơi làm việc: Các quy định về vận hành, sử
dụng máy móc thiết bị, các điều kiện về môi trường như độ chiếu sáng, độ ồn,
độ ô nhiễm không khí, nước và đất, nhiệt độ nơi làm việc hay độ thông thoáng
không khí, các theo dõi-chăm sóc y tế thường kỳ và định kỳ (đặc biệt các chế độ
cho lao động nữ), các trang thiết bị bảo hộ lao động mà người lao động cần phải

được có để sử dụng tùy theo nơi làm việc, các phương tiện thiết bị phòng cháychữa cháy cũng như hướng dẫn, thời hạn sử dụng, các vấn đề về phương án di
tản và thoát hiểm khi xảy ra cháy nổ, an toàn hóa chất (MSDS).
- Quyền tham gia các hiệp hội: Công đoàn, nghiệp đoàn
- Phân biệt đối xử: Các vấn đề về phân biệt đối xử theo các tiêu chuẩn
tôn giáo-tín ngưỡng, dân tộc thiểu số, người nước ngoài, tuổi tác, giới tính. Tiêu
chuẩn SA8000 không cho phép có sự phân biệt đối xử.
- Kỷ luật lao động: Các vấn đề liên quan đến các hình thức kỷ luật được
phép và không được phép (đánh đập, roi vọt, xỉ nhục, đuổi việc, hạ bậc lương,
quấy rối tình dục v.v)
- Thời gian làm việc: Nói chung được đưa ra tương thích với các tiêu
chuẩn trong bộ Luật lao động của từng quốc gia cũng như các tiêu chuẩn của
ILO về thời gian làm việc thông thường, lao động thêm giờ, các ưu đãi về thời
gian làm việc đối với lao động nữ (trong hay ngoài thời kỳ thai sản và nuôi con
nhỏ dưới 12 tháng tuổi).
- Lương và các phúc lợi xã hội khác (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
v.v)
Quản lý doanh nghiệp: Các vấn đề về quản lý của giới chủ, bao gồm các
vấn đề liên quan đến quyền được khiếu nại của người lao động và nghĩa vụ phải
trả lời hay giải đáp khiếu nại của chủ.
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

8

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Quan hệ cộng đồng: Bao gồm quan hệ với các tổ chức, cơ quan khác
hay dân cư trong khu vực.

1.3.2. Khái quát chung về Trách nhiện xã hội (TNXH) trong lĩnh vực
An toàn, bảo vệ sức khỏe và bảo vệ môi trường (AT-BVSK và BVMT)
Vấn đề AT-BVSK và BVMT luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm lớn
của Nhà nước và đã được đề cập khá chi tiết và rõ ràng trong Bộ Luật lao động
(LĐ), Pháp lệnh bảo hộ LĐ và Luật BVMT. Có thể khẳng định rằng, các quy
định của pháp luật Việt Nam về vấn đề AT-BVSK và BVMT là khá chặt chẽ,
phần lớn phù hợp với quy định quốc tế.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu với khu vực và thế giới,
các DN Việt Nam buộc phải có quan hệ với các đối tác nước ngoài. Để có mối
quan hệ chặt chẽ với các đối tác này, các DN Việt Nam phải thực hiện một số
quy định về TNXH trong lĩnh vực AT-BVSK và BVMT do các đối tác nước
ngoài dựng lên. Một số bộ quy tắc ứng xử (CoC) quốc tế được áp dụng khá phổ
biến ở Việt Nam đã đề cập khá rõ về vấn đề AT-BVSK như Tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội SA 8000 và WRAP; Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000; Hệ
thống quản lý an toàn và sức khoẻ OHSAS 18001 v.v…
Có thể tóm tắt các quy định của TNXH trong lĩnh vực AT-BVSK và
BVMT với một số điểm chính sau:
o

DN cần có cam kết của lãnh đạo về vấn đề đảm bảo AT-BVSK cho NLĐ
và BVMT, thiết lập hệ thống chính sách đảm bảo thực hiện tốt vấn đề
này, đưa ra yêu cầu với các nhà cung cấp, nhà thầu, nhà thầu phụ của
mình nhằm thực hiện tốt các nội dung AT-BVSK, BVMT và thiết lập cơ
chế giám sát các đối tác nói trên trong việc thực hiện các quy định về ATBVSK, BVMT.

o

DN cần đảm bảo một môi trường làm việc an toàn, lành mạnh để phòng
ngừa những tai nạn và thương tích có hại đến sức khoẻ của NLĐ.


o

DN phải đào tạo cho NLĐ về an toàn lao động trong sản xuất, có những
biện pháp và hệ thống quản lý thích hợp đảm bảo an toàn cho NLĐ.

o

DN phải phổ biến kiến thức ngành và các nguy hiểm có thể xảy ra cho
NLĐ, phải cung cấp môi trường làm việc an toàn và vệ sinh, phải có các
biện pháp thích hợp để ngăn ngừa tai nạn lao động và hạn chế việc gây
tổn hại đến sức khoẻ NLĐ. DN cần xây dựng và tổ chức thực hiện các
biên pháp nhằm giảm thiểu các nguyên nhân gây nguy hiểm trong môi
trường làm việc ở mức tối đa.

o

DN phải chỉ định đại diện lãnh đạo chịu trách nhiệm về AT-BVSK và
chịu trách nhiệm đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho NLĐ.

o

DN phải đảm bảo tất cả NLĐ đều được huấn luyện về an toàn, khám sức
khoẻ định kỳ và thiết lập hồ sơ huấn luyện. Việc huấn luyện phải được

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

9


GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

thực hiện đối với tất cả nhân viên mới hoặc chuyển công tác từ nơi khác
đến.
o

DN phải thiết lập hệ thống theo dõi, phòng ngừa hoặc xử lý các nguy
hiểm tiềm ẩn đối với sức khoẻ và an toàn của NLĐ.

o

DN phải cung cấp cho NLĐ phòng tắm sạch sẽ, đồ nấu nước và nếu có
thể là các trang thiết bị hợp vệ sinh để lưu trữ thức ăn. Nếu DN cung cấp
chỗ ở cho NLĐ thì phải đảm bảo nơi đó sạch sẽ, an toàn và đảm bảo các
yêu cầu cơ bản của họ.

o

DN phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và tiêu chuẩn về môi trường
trong lĩnh vực sản xuất của họ, phải có ý thức BVMT ở nơi hoạt động sản
xuất kinh doanh.

o

DN phải có hệ thống quản lí nhằm BVMT. Ngoài ra DN phải có hệ thống
kiểm tra việc xả rác thải công nghiệp ra môi trường.

o


DN cần có kế hoạch chi tiết để xử lý các chất thải nguy hiểm đối với môi
trường.

o

Doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi và lưu giữ hồ sơ đánh giá tác
động xấu của doanh nghiệp đến môi trường và cải tiến liên tục hoạt động
đánh giá tác động xấu của doanh nghiệp đến môi trường.

Nếu nghiên cứu kỹ các yêu cầu của các bộ quy tắc ứng xử (CoC) quốc tế
và so sánh các yêu cầu đó với quy định của pháp luật Việt Nam, có thể thấy
trong các quy định này có một số quy định cao hơn, gây khó khăn hơn cho DN,
có những quy định mà pháp luật Việt Nam chưa đề cập đến. Tuy nhiên, để thực
sự hội nhập với khu vực và thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam không thể
không cố gắng vượt qua các rào cản này.
1.3.3. Thực trạng thực hiện TNXH trong lĩnh vực AT – BVSK.
Để làm rõ việc thực hiện TNXH đối với nội dung AT-BVSK, chúng tôi đã
tiến hành điều tra xã hội học với 75 DN thuộc 5 ngành Da Giày – Dệt May,
Thuỷ sản, Khai thác mỏ, Xây dựng và Dịch vụ – Thương mại tại Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Quảng Ninh trong tháng 9/2008. Kết quả điều tra cho
thấy:
Phần lớn các DN (63,2%) đều đã có cam kết của lãnh đạo thực hiện các quy
định về AT-BVSK. Tỷ lệ này đạt rất cao ở ngành Da Giầy – Dệt May (82,9%),
sau đó đến Khai thác mỏ (61,7%) và thấp nhất ở ngành Xây dựng (54,2%). Điều
này khá dễ hiểu bởi phần lớn các DN ngành Da Giầy – Dệt May phải thực hiện
các quy định của SA 8000 hoặc WRAP, trong đó nội dung AT-BVSK là một
trong những nội dung quan trọng.
Tuy nhiên, việc xây dựng chính sách để thực hiện cam kết vẫn còn tồn tại
nhiều khiếm khuyết. Tính trung bình chỉ có 54,7% tổng số DN đã có cam kết có
chính sách để thực hiện các cam kết về AT-BVSK. Tỷ lệ này cao nhất ở ngành

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

10

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Khai thác mỏ (76,7%), sau đó đến Da Giầy – Dệt May (61%) và thấp nhất ở
ngành Dịch vụ – Thương mại (37,3%). Điều này nói lên khoảng cách quá lớn
giữa “nói” và “làm” trong các DN hiện nay.
Về bộ máy phụ trách công tác AT-BVSK, phần lớn các DN quan tâm đến
việc thiết lập bộ máy phụ trách công tác AT-BVSK cho NLĐ. Có 93,2% số ý kiến
khẳng định DN có phân công lãnh đạo phụ trách AT-BVSK. Xét theo ngành, ngành
có tỷ lệ cao nhất là Khai thác mỏ (97,9%), sau đó đến Da Giầy – Dệt May (97,6%),
Thuỷ sản (96,9%), Xây dựng (91,5%) và thấp nhất là ngành Dịch vụ – Thương mại
(84,3%).
Bảng 1 cũng cho thấy có 95,5% DN có bộ phận làm công tác AT-BVSK.
Ngành có tỷ lệ cao nhất là Da Giầy – Dệt May (100%), thấp nhất là Dịch vụ – Thương
mại (89,6%).
Kết quả trên chứng tỏ sự quan tâm của các DN đến việc thiết lập bộ máy làm
công tác AT-BVSK. Với ngành Thương mại – Dịch vụ, sở dĩ tỷ lệ DN có bộ máy làm
công tác này thấp nhất là do có một số doanh nghiệp quy mô nhỏ không cần thiết lập
bộ máy này.
Về công tác huấn luyện an toàn – vệ sinh lao động, theo kết quả điều tra,
vẫn còn có 5% số ý kiến ngành Da Giầy – Dệt May; 3,1% - ngành Thuỷ sản; 6,3% ngành Xây dựng và 3,9% - ngành Dịch vụ – Thương mại khẳng định DN của mình
chưa bao giờ huấn luyện AT-VSLĐ cho NLĐ. Có một số DN ngành Thuỷ sản và
Dịch vụ – Thương mại huấn luyện hoặc 2 năm, hoặc 3 năm 1 lần.
Xét tổng thể, có thể khẳng định ngành Khai thác mỏ là ngành làm rất tốt công

tác huấn luyện AT-VSLĐ (100% DN thực hiện huấn luyện từ 6 tháng đến 1 năm 1
lần), kế tiếp đến ngành Thuỷ sản (96,9%) và Da Giầy – Dệt May (95%).
Nếu coi những yếu tố ĐKLĐ có trên 50% ý kiến người được hỏi khẳng định có
gây ảnh hưởng xấu đến NLĐ thì các ngành cần chú ý khắc phục các ảnh hưởng xấu
của các yếu tố ĐKLĐ sau đây nếu muốn thực hiện tốt TNXH:
o

Da Giầy – Dệt May: Chú ý đặc biệt đến các yếu tố Bụi, Ồn, Nóng bức khó
chịu.

o

Khai thác mỏ: Chú ý đặc biệt đến các yếu tố Bụi, Ồn, Nóng bức khó chịu.

o

Thuỷ sản: Chú ý đặc biệt đến yếu tố Ồn.

o

Xây dựng: Chú ý đặc biệt đến các yếu tố Bụi, Ồn, Nóng bức khó chịu.

o

Dịch vụ – Thương mại: Chú ý đặc biệt đến các yếu tố Bụi.

Bên cạnh các yếu tố ĐKLĐ không thuận lợi, còn một số yếu tố nguy hiểm dễ
gây tai nạn lao động trong quá trình làm việc cần được các DN quan tâm để tránh
những tình huống xấu có thể xảy ra đối với sức khoẻ của NLĐ. Kết quả điều tra cho
thấy, chỉ có 31% số ý kiến khẳng định DN của họ có các yếu tố nguy hiểm dễ gây tai

nạn lao động, trong đó tỷ lệ cao nhất là ngành Khai thác mỏ (50%), sau đó đến Thuỷ
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

11

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

sản (38,7%), Xây dựng (36,2%), Dịch vụ – Thương mại (18%). Những yếu tố gây
nguy hiểm ở tình trạng đáng báo động nhất trong các DN là:
-

Vật liệu nổ: Khai thác mỏ (90,9%), Dịch vụ – Thương mại (85,7%).

- Xếp hàng quá cao, dễ đổ, dễ gây tai nạn: Da Giầy – Dệt May (100%),
Dịch vụ – Thương mại (57,1%), Thuỷ sản (55,6%) và Xây dựng (36,4%).
- Không có biển báo an toàn: Xây dựng (27,3%) và Dịch vụ – Thương
mại (28,6%).
-

Sàn trơn, gồ nghề: Thuỷ sản (33,3%) và Xây dựng (9,1%).

-

Máy móc không có bộ phận che chắn: Ngành Xây dựng (18,2%).

Kết quả điều tra này, so với một số kết quả điều tra do Viện Khoa học Lao
động và Xã hội tiến hành trước đây cho thấy một tình trạng khả quan hơn của các yếu

tố ĐKLĐ và các yếu tố gây nguy hiểm đến NLĐ. Nó chứng tỏ trong những năm vừa
qua, các DN đã quan tâm chú ý đến việc đầu tư làm giảm thiểu các mối nguy hại đến
NLĐ. Tuy nhiên, thực trạng trên cũng chứng tỏ trong các DN còn nhiều yếu tố ĐKLĐ
gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ NLĐ hoặc gây nguy hiểm cho họ. Điều này cho
phép đánh giá việc thực hiện TNXH đã dần có tính hội nhập cao hơn song mức độ hội
nhập vẫn chưa được như mong muốn.
Trong tình trạng các yếu tố ĐKLĐ có gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ
cho nlđ khá nghiêm trọng như vậy, vấn đề cải tiến các yếu tố ĐKLĐ đã được
quan tâm đáng kể. Tính trung bình, có 92,1% số ý kiến hỏi khẳng định DN
thường xuyên cải tiến hoặc lôi cuốn mọi người cùng tham gia cải tiến liên tục
các yếu tố ĐKLĐ. Chỉ có 7,5% số ý kiến cho rằng việc cải tiến là không thường
xuyên và 0,4% cho rằng DN của họ không cải tiến.
Ngành Khai thác mỏ là ngành quan tâm đến cải tiến các yếu tố ĐKLĐ
nhất (100%) và quan tâm nhất đến việc huy động trí tuệ tập thể cùng tham gia
cải tiến liên tục (66,1%). Xếp thứ hai là ngành Thuỷ sản (96,9% - cải tiến
thường xuyên song việc huy động tập thể cùng tham gia cải tiến lại kém nhất,
chỉ 34,4%). Ba ngành còn lại có mức độ cải tiến các yếu tố ĐKLĐ gần tương tự
nhau, song trội hơn cả vẫn là ngành Da Giầy – Dệt May, sau đó đến Dịch vụ –
Thương Mại (đều là 50%). Đáng tiếc rằng ngành Dịch vụ – Thương mại lại có
2% số ý kiến được hỏi khẳng định DN không cải tiến các yếu tố ĐKLĐ.
Nếu như việc cải tiến các yếu tố ĐKLĐ có mục tiêu đảm bảo NLĐ ít chịu các
ảnh hưởng xấu của môi trường làm việc thì việc trang bị phương tiện bảo hộ lao động
(BHLĐ) cho họ giúp NLĐ có khả năng tránh các rủi ro xảy ra trong quá trình LĐ.
Tuy nhiên, kết quả phỏng vấn lại cho thấy tỷ lệ các ý kiến được hỏi khẳng định DN
trang bị phương tiện BHLĐ ở mức tốt và rất tốt ở mức khá khiêm tốn: 64,5%. Có
34,6% khẳng định ở mức bình thường và chỉ có 1,9% khẳng định ở mức: “Hơi kém”.
Ngành gây ấn tượng nhất trong vấn đề này là Khai thác mỏ với 6,7% số ý kiến khẳng
định ở mức rất tốt và 86,7% - ở mức tốt. Điều này cũng dễ hiểu bởi đây là ngành có
nhiều yếu tố nguy hiểm đe doạ tính mạng và sức khoẻ của NLĐ.
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang



Trách nhiệm xã hội

12

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Theo kết quả điều tra, 100% số ý kiến cho rằng nhà ở do DN cung cấp không
rơi vào tình trạng mất vệ sinh nghiêm trọng, song vẫn có ý kiến đánh giá nhà ở “chưa
đạt” (19,8%). Xét theo ngành, chỉ có 2 ngành có đánh giá “chưa đạt” là Khai thác mỏ
(33,3%) và Xây dựng (21%).
Phần lớn các ý kiến đánh giá đều thống nhất về tình trạng vệ sinh ở khu nhà
ở của công nhân là “Đạt yêu cầu”. Tính trung bình, tỷ lệ ý kiến đánh giá ở mức này là
65,4% và có dao động không lớn giữa các ngành so với mức trung bình. Tuy nhiên, tỷ
lệ các ý kiến đánh giá ở mức: “Rất sạch sẽ” lại có sự chênh lệch khá lớn giữa các
ngành: Có 50% số ý kiến đánh giá nhà ở cho công nhân ở ngành Da Giầy – Dệt May
ở mức “Rất sạch sẽ”, trong khi đó ở ngành Xây dựng và Khai thác mỏ, tỷ lệ này chỉ
tương ứng là 5,2% và 5,6%. Điều này cũng dễ hiểu bởi các DN thuộc hai ngành này
chịu ảnh hưởng xấu do bụi mà nhà ở tập thể của công nhân lại thường có vị trí gần
DN. Như vậy, vấn đề vệ sinh nơi nhà ở nhìn chung chưa đáp ứng các yêu cầu của
TNXH, song 100% nhà ở được cung cấp đảm bảo an toàn.
Về vấn đề nhà vệ sinh cho công nhân, tính trung bình có 4,9% số ý kiến khẳng
định ở mức “rất tốt”; 56,8% - “tốt”; 35,8% - “bình thường” và chỉ có 2,5% ở mức “hơi
kém”. Không có ý kiến nào lựa chọn mức “rất thiếu thốn”. Ngành có tỷ lệ người đánh
giá khu vệ sinh ở mức tốt và rất tốt cao nhất là ngành Dịch vụ – Thương mại (85,3%),
sau đó đến ngành Xây dựng (62,8%) và thấp nhất ở ngành Khai thác mỏ (48,8%).
Như vậy, có thể thấy, việc đảm bảo tính sạch sẽ cho khu vực vệ sinh (WC) cho công
nhân đang là vấn đề cần có sự nỗ lực cao của các DN.
·


Về dịch vụ y tế cho công nhân
Nhìn chung, vấn đề đảm bảo các dịch vụ y tế cho công nhân được thực hiện
khá tốt. Bảng 5 cho thấy có 60,2% số ý kiến được hỏi khẳng định DN đã thành lập
trạm y tế. Tỷ lệ này cao nhất ở ngành Da Giầy – Dệt May (87,8%), sau đó đến ngành
Khai thác mỏ (86,7%). Các ngành còn lại có tỷ lệ tương đối thấp: Thuỷ sản (41,9%),
Dịch vụ – Thương mại (38,8%) và Xây dựng (35,6%).
Thực ra, theo các bộ CoC quốc tế và pháp luật lao động Việt Nam, DN chỉ phải
bắt buộc thành lập trạm y tế khi quy mô đủ lớn. Do vậy, số liệu trên không chứng
minh được rằng loại hình DN nào thực hiện TNXH tốt hơn và loại hình nào kém hơn.
Song, điều quan trọng trong việc thực hiện TNXH là việc cứu chữa và cấp phát thuốc
men cho NLĐ phải rất kịp thời, đầy đủ. Kết quả điều tra cho thấy rằng, tỷ lệ ý kiến
khẳng định DN thực hiện cứu chữa, cấp phát thuốc men cho NLĐ “rất đầy đủ, kịp
thời” không cao: chỉ 69,5%. Tỷ lệ này cao nhất ở ngành Da Giầy – Dệt May (87,9%),
sau đó đến Dịch vụ – Thương mại (81,3%), Thuỷ sản (75%), Xây dựng (68,8%) và
thấp nhất ở ngành Khai thác mỏ (52,9%). Như vậy, trong vấn đề cứu chữa và cấp phát
thuốc men cho NLĐ, ngành gây ấn tượng là ngành thực hiện TNXH tốt nhất vẫn là
ngành Da Giầy – Dệt May.
Pháp luật lao động Việt Nam và các bộ CoC nổi tiếng cũng đều quy định các
DN buộc phải mua bảo hiểm y tế (BHYT) cho tất cả NLĐ (trừ 1 số đối tượng đặc
biệt). Tuy nhiên, tình hình mua BHYT cho NLĐ không hoàn toàn khả quan. Chỉ có
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

13

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn


77,1% số ý kiến được hỏi khẳng định DN có mua BHYT cho trên 80% công nhân;
10,4% cho rằng DN mua BHYT cho từ 51-80% số công nhân; 5,6% cho rằng các DN
mua BHYT cho từ 31-50% số công nhân; 5,2% cho rằng tỷ lệ này là dưới 30% và
1,7% khẳng định là chưa ai được mua BHYT.
Bảng 5 cho thấy, ngành thực hiện TNXH tốt nhất trong vấn đề BHYT là Khai
thác mỏ (100% các DN đã mua BHYT cho trên 80% công nhân), sau đó đến Da Giầy
– Dệt May (87,8%), Thuỷ sản (68,8%). Hai ngành Xây dựng và Dịch vụ – Thương
mại có tình trạng thực hiện TNXH trong vấn đề này kém nhất và có DN chưa mua
BHYT cho bất kỳ công nhân nào.
1.3.3. Thực trạng thực hiện TNXH đối với vấn đề BVMT.
Đối với vấn đề BVMT, các quy định về TNXH trong lĩnh vực này đều
nhấn mạnh DN phải cam kết và thực hiện các cam kết giảm tác động xấu đến
môi trường. Tuy nhiên, theo ý kiến của lãnh đạo DN và lãnh đạo phòng nhân sự,
tính trung bình chỉ có 46,9% khẳng định là DN đã cam kết và thực sự tổ chức
thực hiện các cam kết BVMT. Tỷ lệ này đạt cao nhất ở ngành Da Giầy – Dệt
May (57,1%), sau đó đến ngành Thuỷ sản (55%), Dịch vụ – Thương mại
(47,4%). Hai ngành còn lại có tỷ lệ ý kiến khẳng định thấp hơn so với mặt bằng
chung là Khai thác mỏ (37,8%) và Xây dựng (43,2%). Như vậy, chỉ có khoảng
một nửa số doanh nghiệp của mỗi ngành có cam kết và thực hiện các cam kết về
BVMT.
Cũng theo đánh giá cả hai đối tượng trên, phần lớn các DN có quan tâm
đến việc đánh giá tác động xấu của DN đến môi trường (96%). Các DN thuộc
ngành Da Giầy – Dệt May, Khai thác mỏ và Thuỷ sản đều có thể hiện sự quan
tâm đến vấn đề này (đạt 100%), tuy nhiên có tới 11,1% DN ngành Dịch vụ –
Thương mại và 8,1% - ngành Xây dựng không quan tâm đến việc đánh giá tác
động xấu của DN đến môi trường.
Nhìn chung, phần lớn các ý kiến được hỏi đều khẳng định, việc đánh giá
tác động xấu của DN đến môi trường đã được cải thiện hoặc cải thiện liên tục
(90,2%) và tỷ lệ này đều cao ở tất cả các ngành (cao nhất là ngành Khai thác mỏ
– 100% và thấp nhất ở ngành Xây dựng – 81,1%). Tuy nhiên, vấn đề mà TNXH

của DN quan tâm là phải thực hiện cải tiến liên tục thì ở các DN lại thiếu vắng
– chỉ có 28,7% khẳng định là có cải tiến liên tục. Thực hiện tốt nhất các yêu cầu
này là ngành Da Giầy – Dệt May (57,1%), kế tiếp là ngành Thuỷ sản và Dịch vụ
– Thương mại (đều 33,3%), Xây dựng (16,2%). Ngành Khai thác mỏ tuy có tỷ lệ
các ý kiến khẳng định là có cải thiện và cải thiện liên tục đạt 100% (cao nhất)
song lại có tỷ lệ ý kiến khẳng định có cải thiện liên tục thấp nhất (chỉ 11,1%).
Nếu nhìn từ góc độ của lãnh đạo công đoàn và nhân viên TNXH thì tỷ lệ ý kiến
khẳng định có cải thiện liên tục chỉ là 0%. Như vậy, việc thực hiện TNXH về
đánh giá tác động xấu của DN đến môi trường để từ đó có giải pháp khắc phục
hiện nay vẫn chưa được thực hiện tốt và ngành thực hiện kém nhất vấn đề này
lại là ngành dễ gây ô nhiễm nhiều nhất (Khai thác mỏ).
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

14

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Theo quy định, DN phải theo dõi và lưu giữ hồ sơ về tác động của DN
đến môi trường và coi đó là hoạt động mang tính thường xuyên. Việc theo dõi
và lưu giữa hồ sơ về vấn đề này cũng là bằng chứng chứng tỏ việc DN có thiết
lập hệ thống quản lý môi trường. Kết quả điều tra cho thấy có 89,2% số ý kiến
lãnh đạo DN và phòng nhân sự khẳng định là có theo dõi và lưu giữ về tác động
của DN đến môi trường, nghĩa là có khoảng 89,2% số DN có hệ thống quản lý
môi trường. Tỷ lệ này cao nhất ở ngành Khai thác mỏ (100%), sau đó đến ngành
Thuỷ sản (95,2%) và thấp nhất ở ngành Dịch vụ – Thương mại (78,4%).
Việc các DN có hệ thống quản lý môi trường chỉ chứng tỏ một điều là họ
có quan tâm đến việc BVMT song điều đó không có nghĩa là DN thực hiện tốt

TNXH đối với vấn đề BVMT. Như đã đề cập, DN phải theo dõi và lưu giữ hồ sơ
về tác động của DN đến môi trường và coi đó là hoạt động mang tính thường
xuyên. Tuy nhiên, tỷ lệ các ý kiến khẳng định DN của họ thực hiện hoạt động
này thường xuyên lại chiếm tỷ lệ rất thấp – tính trung bình chỉ 18,3% và ngành
có tỷ lệ thấp nhất lại vẫn là ngành Khai thác mỏ (4,4%). Số liệu này cho thấy
tình trạng đáng báo động trong việc thực hiện TNXH đối với vấn đề BVMT, đặc
biệt là ở ngành có mức độ gây ô nhiễm cao – ngành Khai thác mỏ.

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

15

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BỘ TIÊU CHUẨN SA8000 TẠI CÔNG TY CP
CƠ KHÍ LUYỆN KIM SƠN LONG
2.1. Các yêu cầu khi áp dụng tiêu chuẩn SA8000 tại Công ty
2.1.1. Điều kiện áp dụng bộ tiêu chuẩn SA 8000
Các doanh nghiệp khi áp dụng SA 8000 phải đáp ứng được các yêu cầu
trên và phải thực hiện một cách nghiêm túc. Để đạt được yêu cầu này, phải có
quá trình áp dụng và thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt. Cũng tương tự
như ISO 9000, ISO 14000, Hệ thống Quản trị Xã hội xây dựng theo SA 8000
cũng được thực hiện dựa trên chu trình PDCA (lập kế hoạch - thực hiện - kiểm
tra - hành động khắc phục).
Trước hết, doanh nghiệp phải có chính sách xã hội đáp ứng các điều kiện
làm việc của người lao động và các yêu cầu, quy định của SA 8000; phải thoả

mãn các quy định, luật lệ, khuyến nghị và thoả thuận quốc tế; chính sách xã hội
phải được ghi thành văn bản để áp dụng, phổ biến trong nội bộ, bên ngoài hoặc
cộng đồng khi có thể; phải cam kết cải tiến liên tục.
Đại diện lãnh đạo phải là người có thể đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu
của Tiêu chuẩn SA 8000. Người đại diện theo Tiêu chuẩn SA 8000 là một cán
bộ không làm công tác quản lý, đóng vai trò trao đổi thông tin, đầu mối liên lạc
giữa cấp lãnh đạo và các nhân viên trong toàn doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải lập kế hoạch cụ thể, đảm bảo doanh nghiệp thấu hiểu
các yêu cầu của Tiêu chuẩn SA 8000. Để có được một kế hoạch thực hiện SMS
doanh nghiệp phải đảm bảo:
-

Xác định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn;

-

Đào tạo lao động mới hoặc lao động tạm thời khi thuê;

-

Thường xuyên đào tạo lao động hiện có;

-

Thường kỳ tổ chức các khoá đào tạo về nhận thức.

Áp dụng Hệ thống Quản trị Xã hội đòi hỏi phải thường xuyên giám sát liên
tục, đảm bảo hệ thống luôn đáp ứng các yêu cầu của Tiêu chuẩn SA 8000. Chính
vì vậy, doanh nghiệp phải xây dựng và duy trì các thủ tục theo yêu cầu của tiêu
chuẩn như: lưu hồ sơ cam kết của người cung ứng về trách nhiệm xã hội; cam

kết tham gia vào các hoạt động giám sát khi có yêu cầu; phát hiện tình trạng
không phù hợp; thông báo về những thay đổi có liên quan đến người cung ứng
và nhà thầu phụ.
Khi không đáp ứng được các yêu cầu của tiêu chuẩn, doanh nghiệp phải
thực hiện các hành động khắc phục ngay tức thì và nhanh chóng tìm ra nguyên
nhân và phân bổ nguồn lực thực hiện. Doanh nghiệp phải điều tra tất cả các
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

16

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

nguyên nhân trong nội bộ và bên ngoài có liên quan đến sự không phù hợp.
Nghiêm cấm mọi hành động trù dập người lao động báo cáo sự không phù hợp.
Xem xét của lãnh đạo phải được thực hiện một cách hệ thống và định kỳ
dựa trên các kết quả xem xét, đánh giá nội bộ, đảm bảo hệ thống SMS luôn được
duy trì và hiệu quả.
Doanh nghiệp phải thiết lập các thủ tục trao đổi thông tin với bên thứ ba về
các kết quả xem xét, kiểm tra, các dữ liệu giám sát việc thực hiện tiêu chuẩn.
Tuỳ theo tính chất và quy mô của doanh nghiệp, các thông tin này có thể được
thông báo tới các thành viên của doanh nghiệp.
Các hồ sơ liên quan đến việc áp dụng tiêu chuẩn phải được lưu giữ để tạo
điều kiện chứng minh kết quả hoạt động phù hợp với tiêu chuẩn, làm cơ sở cho
việc chứng nhận của bên thứ ba.
2.1.2. Lợi ích của việc áp dụng SA 8000 ở công ty
Việc đưa vào áp dụng SA 8000 sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho các
tổ chức mà cụ thể là:

- Lợi ích đứng trên quan điểm của khách hàng:
- Sử dụng sản phẩm được sản xuất từ một tổ chức có trách nhiệm cao đối
với cộng đồng và xã hội.
- Khách hàng và người tiêu dùng tin rằng sản phẩm hay dịch vụ cung ứng
đã được sản xuất trong một môi trường làm việc an toàn và công bằng và tạo cơ
sở để nâng cao uy tín cũng như hình ảnh tốt đẹp về doanh nghiệp trên thương
trường.
- Lợi ích đứng trên quan điểm của nhà cung cấp:
- Trong môi trường kinh doanh khi mà vấn đề xã hội ngày có nhiều ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức thì SA 8000 chính là cơ
hội để đạt được lợi thế cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng hơn và xâm nhập
được vào thị trường mới đồng thời đem lại cho Công ty cũng như các nhà quản
lý “Sự yên tâm về mặt trách nhiệm xã hội”.
- Áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 sẽ giúp các tổ chức giảm được chi phí liên
quan đến tai nạn lao động, sức khỏe nghề nghiệp, … dẫn đến việc gia tăng năng
suất lao động.
- Tiêu chuẩn SA 8000 tạo cho Công ty có một chỗ đứng tốt hơn trong thị
trường lao động. Cam kết rõ ràng về các chuẩn mực đạo đức và xã hội giúp cho
Công ty có thể dễ dàng thu hút được các nhân viên được đào tạo và có kỹ năng,
đây là yếu tố được xem là “Chìa khóa cho sự thành công” đốI với mọi tổ chức.
- Cam kết của Công ty về đảm bảo phúc lợi xã hội cho người lao động sẽ
làm tăng sự gắn bó và cam kết của họ đối với công ty.
Việc thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn SA8000 mang lại lợi ích từ người
lao động đến công ty và các bên hữu quan khác có thể phân loại như sau:
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

17


GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Lợi ích đứng trên quan điểm của người lao động, các tổ chức công
đoàn và tổ chức phi chính phủ:
Tạo cơ hội thành lập tổ chức công đoàn và việc thương lượng tập thể.
Đây là một công cụ nhằm đào tạo công nhân về quyền lao động
Tạo cơ hội làm việc trực tiếp với doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến
quyền lao động.
Nhận thức của công ty về cam kết đảm bảo cho người lao động được làm
việc trong môi trường lành mạnh về an toàn, sức khoẻ và môi trường.
Lợi ích đứng trên quan điểm của doanh nghiệp:
Nâng cao uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp.
Cải thiện và duy trì nguồn lao động.
Đẩy mạnh việc thực hiện và quản lý dây chuyền cung cấp tốt hơn
Lợi ích trên quan điểm của khách hàng và nhà đầu tư:
Thu hút sự quan tâm và tạo lòng tin của khách hàng đối với những quyết
định mua hàng
Tạo ra sự tin tưởng cao hơn rằng các sản phẩm được tạo ra trong một môi
trường làm việc an toàn và công bằng mà công ty đã cam kết thực hiện.
Mở rộng được thị phần các loại sản phẩm trên thị trường.
Áp dụng SA8000 tại doanh nghiệp như thế nào?
Bộ Luật Lao động đã được Quốc hội Nước CHXHCN Việt nam ban hành,
có hiệu lực từ năm 1995. Năm 2002 Bộ Luật Lao động được sửa đổi và có hiệu
lực từ năm 2003.
Nội dung, yêu cầu của SA8000 khá tương đồng với các nguyên tắc và các
điều kiện của Bộ Luật Lao đông.
Nếu các doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ Luật Lao động thì việc xây dựng, áp
dụng SA8000 tại doanh nghiệp rất thuận lợi.
Việc xây dựng Hệ thống quản lý trách nhiệm xã hội SA8000 nhằm quản lý

theo quá trình, từ chính sách trách nhiệm xã hội, trách nhiệm của các chức vụ cụ
thể của doanh nghiệp, các thủ tục quản lý, các yêu cầu kiêm soát hồ sơ, kiểm
soát nhà thầu phụ và nhà cung cấp, các hướng dẫn biểu mẫu đến xem xét của
lãnh đạo về hệ thống, kiểm soát hệ thống là các yêu cầu mà doanh nghiệp phải
xây dựng, áp dụng và vận hành thường xuyên.
Chứng nhận đối với SA8000: Các công ty hoạt động sản xuất có thể tìm
kiếm những điều kiện thuận lợi cụ thể để chứng nhận tiêu chuẩn SA8000 thông
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

18

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

qua các cuộc đánh giá của một trong các tổ chức chứng nhận được công nhận.
Kể từ khi hệ thống SA8000 được áp dụng vào năm 1998, có 30 nước tham gia
chứng nhận tại năm châu lục và áp dụng tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội theo
SA8000 ở 22 ngành công nghiệp và dịch vụ.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế, việc thực hiện SA 8000 có
rất nhiều thuận lợi bởi những tiêu chuẩn của SA 8000 có nhiều điểm tương đồng
với các văn bản pháp luật và các chính sách liên quan đến bảo vệ quyền lợi của
người lao động. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt Bộ luật Lao động cũng như quy
định của Nhà nước thì đã đáp ứng gần như các tiêu chuẩn của SA 8000.
Công ty đã áp dụng tiêu chuẩn SA 8000 thấy rằng cho rằng, xây dựng và áp
dụng tiêu chuẩn này không khó. Nền tảng của tiêu chuẩn này chính là thực hiện
tốt Bộ luật Lao động và xây dựng tác phong công nghiệp trong quản lý, sản
xuất, kinh doanh, tạo mối quan hệ tôn trọng đoàn kết, gắn bó giữa những người
lao động. Bộ luật Lao động Việt Nam cũng quy định cấm phân biệt đối xử,

ngược đãi, cưỡng bức người lao động và khống chế số giờ làm thêm (không quá
4 giờ/ngày và 200 giờ/năm) SA 8000 quy định giờ làm việc chuẩn (8 giờ/ ngày
hoặc 48 giờ/tuần). Những vấn đề về kỷ luật lao động, tiền lương trong Bộ luật
Lao động cũng được đề cập xử lý tương tự như yêu cầu của SA 8000.
2.2. Thực trạng áp dụng SA8000 ở công ty
Công ty CP cơ khí luyện kim Sơn Long đã áp dụng bộ tiêu chuẩn SA8000
từ khi công ty được cổ phần hóa năm thứ 3.
Về sản xuất: khi công ty áp dụng bộ tiêu chuẩn SA8000 đã giúp Công ty có
điều kiện thuận lợi hơn trong việc sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sang các
nước mà có yêu cầu nghiêm ngặt về bội tiêu chuẩn này. Trong quá trình hội
nhập trên thị trường thì công ty không ngừng nâng cao sản xuất để tạo lợi thế
cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu trong nước cũng như nước ngoài.
Về quản lý lao động trong doanh nghiệp: từng bước cải thiện và giảm tối đa
chi phí cho việc tuyển dụng và đào tạo lao động lành nghề. Người lao động an
tâm sản xuất, thu nhập cũng từng bước nâng cao.

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

19

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT SA8000
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy công ty thực hiện tốt SA8000
Có nhiều giải pháp để thúc đẩy việc thực hiện TNXH ở các DN trong lĩnh
vực AT-BVSK và Bảo vệ môi trường. Song song với các giải pháp hiện nay

đang được Cục an toàn lao động (Bộ LĐ-TB-XH) và Cục Môi trường (Bộ TNMT) thực hiện như giải pháp tuyên truyền, nâng cao nhận thức, đào tạo, ...,
chúng tôi đề xuất thêm một số giải pháp sau:
Giải pháp 1: Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật lao động về vấn đề an
toàn và bảo vệ sức khoẻ và Luật BVMT.
Bộ Luật lao động Việt Nam đã dành riêng chương IX quy định về vấn đề an
toàn lao động, vệ sinh lao động (AT-VSLĐ) với 14 Điều (từ Điều 95 đến 108), sau
đó, Bộ Luật lao động sửa đổi bổ sung năm 2002 đã hoàn thiện thêm các quy định ở
Khoản 2 Điều 96 và Khoản 3 Điều 107. Có thể khẳng định rằng, những quy định
của Bộ Luật lao động về vấn đề AT – VSLĐ rất chặt chẽ và có tính hội nhập cao.
Tuy nhiên, để các quy định của pháp luật lao động Việt Nam phù hợp với các quy
định của các bộ CoC quốc tế, qua đó giúp các DN vượt qua được các rào cản kỹ
thuật và rào cản thương mại, cũng cần có một số điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhất
định:
·
Điều 97: Nên bổ sung thêm ý: “Người sử dụng lao động phải đảm bảo
nơi làm việc không xảy ra tình trạng có các yếu tố gây nguy hiểm đến sức khoẻ cho
người lao động như sàn trơn, gồ ghề; máy móc không có bộ phận che chắn; không
có biển báo an toàn; đường hẹp khó đi; xếp hàng cao dễ đổ; … và phải khắc phục
tình trạng có yếu tố gây nguy hiểm đến người lao động ngay sau khi phát hiện”.
·
Điều 101: Cần làm rõ, phương tiện bảo vệ cá nhân được cung cấp phải
đảm bảo chất lượng tốt và được DN thay ngay khi không còn đảm bảo tiêu chuẩn.
·
Điều 102: Cần làm rõ quy định về huấn luyện AT-VSLĐ định kỳ 6
tháng 1 lần và quy định về chất lượng huấn luyện. Quy định các DN phải phổ biến
rõ các yếu tố tiềm ẩn có khả năng gây nguy hiểm cho NLĐ và cách khắc phục các
yếu tố đó.
·
Nên bổ sung các quy định về nhà ở tập thể cho NLĐ, trong đó nêu rõ:
“Nếu DN cung cấp nhà tập thể cho NLĐ thì nơi ở phải đảm bảo an toàn và vệ

sinh”.
·
Nên bổ sung các quy định về nhà vệ sinh và phòng tắm cho cả lao động
nam và nữ, trong đó cần thể hiện rõ, doanh nghiệp phải cung cấp nhà vệ sinh và
phòng tắm riêng chon am và nữ. Doanh nghiệp phải đảm bảo nhà vệ sinh và phòng
tắm cho nam và nữ đảm bảo an toàn và vệ sinh.
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

20

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

·
Nên bổ sung quy định về việc cung cấp thuốc men và các dịch vụ y tế
khác cho NLĐ, trong đó nhấn mạnh người sử dụng lao động phải có trách nhiệm
cung cấp thuốc men đầy đủ, kịp thời cho NLĐ để đảm bảo sức khoẻ của họ.
Đối với Luật BVMT được ban hành ngày 29/11/2005, có thể khẳng định đây
là một bộ Luật khá hoàn hảo, các vấn đề được nêu ra phù hợp với thông lệ chung
của thế giới và có nhiều điểm thích ứng với quy định của các bộ CoC quốc tế như
các DN ngay trước khi thành lập phải lập cam kết BVMT; các chủ dự án (Dự án
trọng điểm quốc gia; Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư tập trung; Dự án
khai thác, sử dụng nước dưới đất, tài nguyên thiên nhiên quy mô lớn; v.v... – Theo
Điều 18) phải lập báo cáo đánh giá về tác động môi trường. Tuy nhiên, để giúp các
DN thực hiện tốt hơn vấn đề BVMT nhằm đáp ứng được các quy định của các bộ
CoC quốc tế, qua đó giúp các DN Việt Nam vượt qua được các rào cản phi thuế
quan, theo chúng tôi cần bổ sung thêm một số quy định về quản lý môi trường
trong DN. Những điểm cần bổ sung là:


Các doanh nghiệp phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định và tiêu
chuẩn về môi trường trong lĩnh vực sản xuất của họ, phải có ý thức bảo vệ môi
trường ở nơi hoạt động sản xuất kinh doanh.

Doanh nghiệp phải có hệ thống quản lí nhằm bảo vệ môi trường và
phải có hệ thống kiểm tra việc xả chất thải công nghiệp ra môi trường.

Doanh nghiệp cần có kế hoạch chi tiết để xử lý các loại chất thải nguy
hiểm đối với môi trường và tổ chức thực hiện hiệu quả các biện pháp đó.

Doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi và lưu giữ hồ sơ đánh giá
tác động xấu của doanh nghiệp đến môi trường và cải tiến liên tục hoạt động đánh
giá tác động xấu của doanh nghiệp đến môi trường.
Chính phủ cũng nên ban hành một Nghị định hướng dẫn thi hành các quy định
về quản lý môi trường đối với DN dựa trên các tiêu chuẩn quản lý môi trường của
các bộ CoC quốc tế và phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Giải pháp 2: Xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiệnDự án an toàn và
sức khoẻ cho NLĐ tại nơi làm việc và Dự án xây dựng xã hội thân thiện với môi
trường.
Dự án 1: Dự án về AT-BVSK cho người lao động tại nơi làm việc.
Mục tiêu chính của Dự án này là:
o
Cho các DN vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư các trang thiết bị đảm
bảo an toàn – vệ sinh lao động tại nơi làm việc (mua quạt thông gió, các thiết bị
lọc bụi, chống ồn; cải thiện hệ thống vệ sinh như nhà tắm, nhà vệ sinh, nhà ở tập
thể, nhà ăn; v.v...).
o
Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư các kỹ thuật, công nghệ có
tính năng an toàn cao.

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

21

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

o
Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để các DN đầu tư mua sắm các trang
thiết bị BHLĐ.
o

Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để đảm bảo điều kiện y tế cho NLĐ.

Dự án này nên giao cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì thực
hiện. Các DN muốn vay vốn đầu tư phải trình Dự án vay vốn có tính khả thi và
qua thẩm định của các cấp có thẩm quyền mới được vay vốn.
Dự án 2: Dự án xây dựng xã hội thân thiện với môi trường.
Dự án này có mục tiêu chính là:
Cho các doanh nghiệp vay vốn với lãi suất ưu đãi để đầu tư công
nghệ thân thiện với môi trường, đầu tư mua sắm phương tiện xử lý rác
thải, nước thải và khí thải, đầu tư thực hiện các tiêu chuẩn môi trường
quốc tế và các bộ CoC quốc tế về quản lý môi trường (ISO 14000, …).


Đầu tư cho các tổ chức, DN bảo vệ môi trường (các Công ty nước,
các Công ty xử lý rác, …) vay vốn với lãi suất ưu đãi để trang bị các công
nghệ xử lý chất thải và thực hiện các Dự án xử lý chất thải.



Đầu tư cho chính quyền địa phương nơi có khu công nghiệp để địa
phương xử lý chất thải công nghiệp.


Chính phủ nên giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đồng chủ trì Dự án này. Các tổ chức, doanh nghiệp
muốn vay vốn đầu tư phải trình Dự án vay vốn có tính khả thi và qua thẩm định
của các cấp có thẩm quyền mới được vay vốn.
Giải pháp 3:Liên kết các DNcùng ngành, nghề, cùng xây dựng một bộ quy
tắc ứng xử chung, trong đó có các quy định về AT-BVSK và bảo vệ môi trường
để các DN cùng thực hiện. Xây dựng các điển hình thực hiện bộ quy tắc ứng xử
chung này và từng bước phổ biến và nhân rộng mô hình.
Theo chúng tôi, các Hiệp hội DN theo ngành, nghề nên đầu tư xây dựng một
bộ quy tắc ứng xử chung. Bộ quy tắc ứng xử này được hình thành trên cơ sở tích
hợp các quy định của:
- Các bộ CoC quốc tế mà các đối tác nước ngoài, các quốc gia khác quy định
buộc các doanh nghiệp của ngành muốn xuất khẩu hàng hoá hoặc có quan hệ
thương mại, quan hệ hợp tác với nước ngoài phải tuân thủ;
- Pháp luật lao động; Luật bảo vệ môi trường; Luật Thuế, Hải quan; Luật
phòng chống tham nhũng của Việt Nam.
Ngoài ra, có thể tích hợp thêm các quy định trong các Công ước và Khuyến
nghị quốc tế về vấn đề lao động và môi trường.
Để phổ biến và nhân rộng bộ quy tắc ứng xử chung của ngành, nên áp dụng
kinh nghiệm của Trung Quốc. Với mỗi ngành, trước hết lựa chọn khoảng 10 DN
lớn có tầm ảnh hưởng cao trong ngành để thực hiện bộ quy tắc ứng xử chung.
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang



Trách nhiệm xã hội

22

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

Thông qua sự điều phối của Nhà nước và đại diện giới chủ, giới thợ của ngành, các
chuyên gia TNXH sẽ tập trung giúp các ngành này triển khai thực hiện TNXH,
đồng thời đào tạo thêm các chuyên gia về tổ chức thực hiện các nội dung TNXH
được quy định trong bộ quy tắc ứng xử chung. Sau 1-2 năm, khi các DN lớn này
thực hiện có hiệu quả bộ quy tắc ứng xử chung, có kết quả rõ rệt, có lợi nhuận cao,
lực lượng chuyên gia này lại tiếp tục đầu tư cho các DN khác của ngành nhưng với
số lượng lớn hơn, khoảng chừng thêm 100 DN có quy mô lớn của ngành. Tương tự
như vậy, sẽ tổ chức áp dụng đồng bộ cho tất cả các DN còn lại.
Giải pháp 4: Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức đối
với các DN về vấn đề TNXH trong lĩnh vực AT-BVSK, bảo vệ môi trường, đặc
biệt là các lợi ích do thực hiện TNXH trong lĩnh vực này mang lại cho DN; thiết
lập kênh thông tin tư vấn cho DN về thực hiện TNXH trong lĩnh vực AT-BVSK,
BVMT (tư vấn cách thức thực hiện bộ OHSAS 18001, ISO 14000, thực hiện nội
dung AT-BVSK và bảo vệ môi trường trong các bộ CoC khác như SA 8000,
WRAP, …).
Giải pháp 5:Thúc đẩy việc thành lập và trao quyền cho các cơ quan giám
sát độc lập đối với vấn đề thực hiện TNXH.
Với các nước phát triển, các cơ quan giám sát độc lập luôn đóng một vai trò
quan trọng và được Nhà nước trao cho một số quyền nhất định. Để thực hiện
việc giám sát thúc đẩy việc thực hiện TNXH, Việt Nam có thể học tập kinh
nghiệm này.
Theo chúng tôi, có thể quy định quyền của các cơ quan giám sát độc lập
như sau:
(a) Được hợp đồng với các doanh nghiệp trong việc giám sát, tư vấn và

đánh giá các nội dung TNXH mà doanh nghiệp thực hiện và nhận thù lao của
các doanh nghiệp từ hoạt động này;
(b) Được nhận uỷ quyền của các tổ chức quốc tế trong việc đánh giá và cấp
chứng chỉ thực hiện các bộ CoC quốc tế và nhận kinh phí từ hoạt động này theo
quy định;
(c) Báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về tình hình thực
hiện TNXH của doanh nghiệp;
(d) Được phép nhận uỷ quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
giám sát thực hiện TNXH của các doanh nghiệp theo quy định.
Trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay đã có một số cơ quan giám sát,
đánh giá độc lập song nhiệm vụ của các cơ quan này mới chỉ dừng lại ở hai
nhiệm vụ đầu tiên. Nên có quy định bổ sung thêm 2 nhiệm vụ (c) và (d).
Giải pháp 6: Cần nhanh chóng xúc tiến thành lập Hiệp hội người tiêu
dùng Việt Nam với tôn chỉ là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng; thúc đẩy DN
sản xuất sản phẩm sạch, chất lượng cao và an toàn, không gây ô nhiễm; không mua
SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

23

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

hàng hoá của những DN không thực hiện tốt các nội dung cơ bản của TNXH, trong
đó có nội dung AT-BVSK và bảo vệ môi trường.
Giải pháp 7: Đẩy mạnh các phong trào vì một môi trường xanh – sạch
đẹp và phong trào chống gây ô nhiễm môi trường. Có cơ chế thích hợp thúc đẩy
các địa phương và các cộng đồng dân cư phát hiện và báo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về việc gây ô nhiễm môi trường của các doanh nghiệp trên địa bàn.

Đưa các thông tin về các doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường lên các phương
tiện truyền thông đại chúng.
Trên đây là một số nghiên cứu mới đây của chúng tôi về vấn đề thực
hiện TNXH trong vấn đề AT-BVSK và BVMT. Đây là vấn đề lớn, cần có những
nghiên cứu chi tiết hơn ở quy mô lớn. Hy vọng rằng, một số nghiên cứu trên đây
sẽ có ích cho các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách.

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


Trách nhiệm xã hội

24

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt
Nam đang đứng trước nhiều thử thách trong việc tìm kiếm và thực hiện những
chính sách phát triển, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập
khu vực và tiến tới hội nhập toàn cầu. Một trong những phương thức hữu hiệu
luôn được các nhà sản xuất và người bán lẻ áp dụng và ghi nhớ là chú trọng bảo
vệ uy tín và giá trị của các thương hiệu nhằm giữ vững thế cạnh tranh. Do vậy,
SA 8000 được xem là tiêu chuẩn “khẳng định giá trị đạo đức” của sản phẩm mà
công ty cần thiết phải trang bị cho “hành trang” hội nhập của mình.
Theo quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế, việc thực hiện SA 8000 có
rất nhiều thuận lợi bởi những tiêu chuẩn của SA 8000 có nhiều điểm tương đồng
với các văn bản pháp luật và các chính sách liên quan đến bảo vệ quyền lợi của
người lao động. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt Bộ luật Lao động cũng như quy
định của Nhà nước thì đã đáp ứng gần như các tiêu chuẩn của SA 8000.


SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


25

Trách nhiệm xã hội

GVHD: Nguyễn Ngọc Tuấn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam (Bộ luật lao động số 35L/CTN ban hành ngày 5/7/1994; Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của
Bộ luật lao động số 35/2002/QH10 ngày 19/4/2002 và số 74/2006/QH11
ngày 12/12/2006).
2. Luật Bảo vệ Môi trường của nước CHXHCN Việt Nam (Luật số 29L/CTN ngày 10/1/1994 và số 52/2005/QH11 ngày 12/12/2005).
3. TS. Lê Thanh Hà. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong lĩnh vực
lao động- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn/Tạp chí Kinh tế và Phát triển
số 109/ 2006.
4. TS. Lê Thanh Hà (Chủ nhiệm). Các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập
WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài cấp Bộ mã số CB 2007-01-04
của Bộ LĐ-TB-XH. Hà Nội, 2008.
5. Tài liệu trực tuyến, tài liệu điện tử, thư viện tài liệu tham khảo qua
Internet.

SVTH: Nguyễn Cao Ngọc Trang


×