Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Những tác động của nền kinh tế thị trường đến nền văn hóa Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.24 KB, 18 trang )

HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

BỘ XÂY DỰNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
ĐỀ TÀI: “Những tác động của nền kinh tế thị trường đến nền văn hóa Việt Nam
hiện nay? Làm thế nào để văn hóa thực sự là “nền tảng tinh thần xã hội, là mục
tiêu, là động lực phát triển đất nước”? Trách nhiệm của sinh viên?

GVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên
SVTH: Lê Quang Đạt
1


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
Văn hóa là một phạm trù riêng mang bản sắc của một dân tộc. Văn hóa Việt
Nam là âm hưởng mang bản sắc của cả dân tộc Việt Nam được hình thành và hoàn
thiện qua hàng ngàn năm lịch sử lâu dài của các thế hệ cha anh thời dựng nước và
giữ nước. Do vậy nguyên cứu về văn hóa là cách để chúng ta học hỏi và tiếp thu
tinh hoa văn hóa dân tộc trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và lưu giữ tuyên truyền bản


sắc dân tộc. Trong đó, giai đoạn nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường có nhiều tác động đến văn hóa Việt Nam cần tìm hiểu để học hỏi và đánh
giá những bài học để lại, hiểu rõ sâu sắc hơn tình hình đời sống văn hóa thời bấy
giờ và cả hệ quả tác động đến đời sống ngày hôm nay.
2. Mục đích của đề tài
Văn hóa là hồn cốt của một dân tộc. Vậy nên việc nghiên cứu văn hóa trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường trở nên quan trọng và cấp thiết. Nó có ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội như: Chính trị,
kinh tế, khoa học…
3. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng giúp trang bị
năng lực phản tư văn hóa, có tác dụng lớn trong giáo dục và bồi dưỡng nhân cách
con người; đặc biệt quan trọng nghiên cứu đã giúp lý giải khuynh hướng lựa chọn,
cách ứng xử, cách hành động, triết lý sống của con người Việt Nam, cũng như hiểu
rõ hơn đường lối và nghị quyết của Đảng. Cũng cố niềm tin đối với Đảng của dân
tộc Việt Nam.

2


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

4. Phương pháp nguyên cứu.
Văn hóa là một hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành
và hoàn thiện tích lũy qua hoạt động lao động thực tiễn trong suốt quá trình lịch sử
của mình. Do đó để nghiên cứu về văn hóa Việt Nam giai đoạn nên kinh tế thị
trường cần kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích, đánh giá, so sánh
đối chiếu kết hợp phương pháp luận…


NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN
NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm
1.1.1.Kinh tế thị trường
Nền kinh tế được coi như một hệ thống các quan hệ kinh tế. Khi các quan hệ
kinh tế giữa các chủ thể biểu hiện qua mua, bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
(người bán cần tiền, người mua cần bán và họ phải gặp nhau trên thị trường) thì
nền kinh tế đó gọi là nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội, trong đó các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua quan hệ mua, bán
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh
tế là định hướng vào việc tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá
cả thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao. Khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hoá, các yếu tố
của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất, sức lao
động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm dịch vụ tạo ra, chất xám đều là đối tượng
mua - bán và hàng hoá.

3


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Đại hội IX nêu lên: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý

của Nhà nước, được gọi tắt là kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế vừa
dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường vừa trên cơ sở được
dẫn dắt và chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất CNXH thể hệ trên ba mặt: Sở
hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
1.1.2. Văn hóa Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam
Có rất nhiều khái niệm, định nghĩa về văn hóa khác nhau, ở các mức độ rộng,
hẹp và rất hẹp. Nói văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng
lực, bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Để đi
đến một định nghĩa về văn hóa, cần thiết phải hiểu mối quan hệ tương tác giữa con
người và văn hóa. Trước hết, chính con người đã sáng tạo ra văn hóa. Chính trong
quá trình phát huy những năng lực bản chất để cải biến tự nhiên, cải biến xã hội và
thông qua đó cải biến chính bản thân, con người đã sáng tạo ra văn hóa. Văn hóa là
phương thức để con người tồn tại và phát triển, là cách thức để con người tách
mình ra khỏi giới động vật. Vì vậy khái niệm văn hóa luôn chứa đựng nội dung
nhân văn, nhân bản. Thứ hai, hoạt động văn hóa sáng tạo ra con người; nói cách
khác, con người là sản phẩm của văn hóa. Bởi chỉ trong xã hội loài người mới có
khái niệm văn hóa và hoạt động văn hóa; văn hóa phản ảnh về môi trường sống hay
là tổng thể các mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và với con người,
cộng đồng; mặt khác con người chỉ có thể tồn tại đúng bản chất người ở ngay trong
xã hội loài người và chính văn hóa là môi trường tạo nên nhân cách con người. Thứ
ba, nói đến văn hóa là nói đến hệ giá trị. Dù tồn tại dưới dạng các sản phẩm vật thể
hay phi vật thể, cái làm nên nội dung văn hóa của chúng chính là các giá trị. Đó là
các giá trị được tạo ra từ các hoạt động khoa học, đạo đức và nghệ thuật và các hoạt
động đó luôn hướng tới sự hoàn hảo của 3 giá trị: Chân, Thiện và Mĩ. Tóm lại, Văn
hóa là hoạt động tinh thần nhằm phát huy những năng lực bẩm sinh và bản chất của
con người để sáng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần dựa trên các chuẩn mực:
chân, thiện, mỹ nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của cá nhân và cộng đồng xã
hội. Văn hóa cũng là hoạt động nhằm tạo ra những giá trị những chuẩn mực xã hội,

là môi trường thứ 2, cái nôi nuôi dưỡng sự hình thành nhân cách con người.
4


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp
luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi sự sinh tồn”.
Trong khái niệm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã miêu tả văn hóa bằng những
thành tố của nó. Người đã nhìn văn hóa được xem là phương thức để con người tồn
tại và phát triển, nhấn mạnh đến mối quan hệ biện chứng giữa “sản sinh” văn hóa
với sự sinh tồn của con người.
Văn hóa có mặt trong tất cả các hoạt động của con người, dù đó là hoạt động
sản xuất vật chất hay sản xuất giá trị tinh thần; trong quan hệ giao tiếp, ứng xử
trong xã hội hay thái độ ứng xử với thiên nhiên.
1.1.2.2. Bản chất của văn hóa Việt Nam
Văn hóa có 7 thuộc tính cơ bản: Một là văn hóa luôn mang tính lịch sử. Mỗi
thời kỳ lịch sử, văn hóa có một dấu ấn riêng. Hai là văn hóa mang tính truyền
thống, do những giá trị văn hóa được lưu giữ, phát triển và truyền bá qua các giai
đoạn lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ba là văn hóa mang tính dân tộc thể
hiện rõ nhất ở bản sắc văn hóa dân tộc; văn hóa nói lên đặc điểm của một dân tộc,
biểu hiện bản lĩnh, tâm hồn, cốt cách của một dân tộc. Bốn là văn hóa mang tính
giá trị (vật thể, phi vật thể, vật chất hoặc tinh thần). Năm là, văn hóa bao giờ cũng

mang tính nhân sinh; chỉ có con người mới sáng tạo ra văn hóa và hoàn thiện mình
qua môi trường văn hóa. Sáu là, văn hóa mang tính phái sinh. Và bảy là trong xã
hội có giai cấp, văn hóa bao giờ cũng mang tính giai cấp.
Nền văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là
kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhiều nền văn minh thế giới để
không ngừng hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc mình. Văn hóa Việt Nam đã hun
đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam; tạo nên cốt cách, bản sắc riêng có
của con người, dân tộc Việt Nam.

5


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Từ khi Đảng ta ra đời và trong suốt lịch sử lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng
ta luôn coi văn hóa là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp cách mạng. Quan
điểm này được đề cập trong Cương lĩnh, đường lối, chiến lược của Đảng. Nghị
quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đầy sự phát triển
KT-XH”. Quan điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương
5, khóa VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”; và gần đây được khẳng định lại trong Kết luận hội nghị Trung
ương 10, khóa IX.
1.2. Mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa
Đời sống xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Khái
quát khoa học đó cho thấy tất cả tầm rộng lớn và sâu sắc của văn hóa, từ đó dẫn

đến nhiều khía cạnh lý luận cùng những kết luận thực tiễn hết sức quan trọng. Xã
hội đứng hai chân trên hai “nền tảng”, nếu chỉ có một nền tảng thì xã hội không thể
đứng vững.
Với tính cách là “nền tảng tinh thần của xã hội”, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương 5 viết: “Chăm lo văn
hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến
bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền
vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công
bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện”.
Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội XI thể hiện những quan điểm
xây dựng nền văn hóa Việt Nam ở tầm chiến lược phát triển. Cương lĩnh viết: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện,
thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến
bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Trên thế giới, người ta đang bàn nhiều về các lý thuyết phát triển, trong đó ưu
thế ngày càng thuộc về quan niệm coi mục tiêu phát triển phải là nâng cao chất
lượng cuộc sống con người với bảo đảm sao cho hài hòa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần; giữa mức sống cao với lối sống và nếp sống đẹp; không chỉ cho một
6


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

số ít người mà cho đại đa số, cho toàn xã hội; không chỉ cho hôm nay mà cho cả
mai sau.
Để đạt mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật

chất kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế thôi chưa đủ, và rất không đúng nếu
hiểu xây dựng kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tăng trưởng với bất kỳ giá nào,
thậm chí dù có phải hy sinh cả mặt xã hội, hy sinh văn hóa, hy sinh phẩm giá con
người. Nếu hiểu và làm như thế là hoàn toàn xa lạ với lý tưởng xã hội chủ nghĩa
của chúng ta. Ngay một số học giả tiến bộ phương Tây cũng đã đi đến nhận thức
rằng: những tiến bộ về kinh tế làm tăng mức sống nhưng đôi khi lại làm rối loạn
cuộc sống con người và môi trường. Không phải cứ của cải tăng lên là cuộc sống
gia đình, hôn nhân, lối sống, lao động... sẽ chỉ có tốt đẹp lên. Tiến bộ kỹ thuật góp
phần làm cuộc sống dễ dàng, có khi lại là nguyên nhân của nhiều rối loạn xã hội
nghiêm trọng. Trong những trường hợp như thế, có tăng trưởng nhưng không có
phát triển, trái lại là “phản phát triển”.
1.3. Tác động của kinh tế thị trường đến nền văn hóa Việt Nam hiện nay
1.3.1. Tác động tích cực
Trước hết, cần khẳng định, đời sống văn hóa xã hội ta hiện nay so với thời cơ
chế cũ có bước tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội kinh tế và tính
tích cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, trông
chờ bao cấp trong cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên.
Mặt bằng dân trí từng bước được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người
được khuyến khích, tôn trọng. Những nét mới nổi bật ấy được phản ánh qua hoạt
động khởi sắc, phong phú, đa dạng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đời sống,
trên báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình, giáo dục, văn học, nghệ thuật,...
Trong sự phong phú, đa dạng của đời sống và hoạt động văn hóa, chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng và phát triển sáng tạo đóng
vai trò là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam bảo đảm cho xã hội phát triển đúng
hướng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc nhân dân. Kinh tế thị trường và
mở cửa với bên ngoài làm sống động nền kinh tế và các hoạt động xã hội, phát triển
giao lưu hàng hóa, con người và các sản phẩm văn hóa với các nước, giúp nhân dân
ta mở rộng chân trời hiểu biết và kiến thức tiếp nhận từ bốn phương. Các mặt trái
của kinh tế thị trường và mở cửa - dù tác động dữ dội - đã không thể ngăn nổi nhân
dân ta duy trì và phát triển truyền thống tốt đẹp, như thấy rõ nhất vào những dịp kỷ
niệm lớn hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh

7


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

hùng dân tộc, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa những người có công, giúp
đỡ những người bất hạnh, v.v.
Ngày nay, toàn cầu hóa đã và đang trở thành một xu thế khách quan, trước hết
trong lĩnh vực kinh tế và từ đó tác động mạnh lên mọi mặt đời sống của tất cả các
quốc gia dân tộc. Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc
xích lại gần nhau, hiểu biết lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm phong phú và hỗ trợ
lẫn nhau. Đất nước ta nhất định nắm lấy xu thế này, coi đó là một thời cơ lớn, ra
sức tận dụng mọi điều kiện có lợi do xu thế ấy tạo ra, đặc biệt để tranh thủ những
khả năng vật chất kỹ thuật, khoa học, công nghệ cao, những kinh nghiệm và tri
thức hiện đại cần thiết cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
nhiên, cần thấy toàn cầu hóa hiện nay đang do chủ nghĩa tư bản chỉ đạo, là một quá
trình đầy mâu thuẫn phức tạp. Ở giác độ văn hóa, toàn cầu hóa đã mở ra khả năng
to lớn để giao lưu văn hóa toàn cầu, tạo thêm động lực cho quá trình đổi mới và
hiện đại hóa văn hóa dân tộc. Các dân tộc có điều kiện hiểu biết và học hỏi lẫn
nhau, làm cho "những thành quả của hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành
tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất đơn phương và phiến diện dân tộc
ngày càng không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn học dân tộc và địa
phương, muôn hình muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn học toàn thế giới".
1.3.2. Tác động tiêu cực
Đương nhiên, bức tranh không chỉ toàn màu sáng và thật sai lầm nếu chỉ thấy
một màu sáng. Cần thấy hết những mảng tối cùng nguyên nhân, trong đó một
nguyên nhân quan trọng là chúng ta chưa thấy hết và chưa làm tốt việc ngăn ngừa,
đấu tranh, khắc phục những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường. Đó

là những hiện tượng suy thoái đạo đức, đặc biệt là nạn tham nhũng, hối lộ, buôn
lậu, gian lận thương mại, mua bằng, bán điểm, mua bán chức quyền trước sự tấn
công của thói lừa đảo, chủ nghĩa cá nhân, lối sống tiêu dùng, sức mạnh đồng tiền và
chủ nghĩa thực dụng. Đó là trạng thái dao động, hoài nghi, giảm sút niềm tin, phai
nhạt lý tưởng ở một bộ phận đảng viên, cán bộ, kể cả một số cán bộ trung, cao cấp.
Đó là nhiều hiện tượng nhức nhối trước đây không hề có trong quan hệ gia đình,
đạo lý thầy trò, quan hệ bạn bè, sự đảo lộn một số chuẩn giá trị và nếp sống vốn tốt
đẹp. Đó là một bộ phận dân cư, kể cả một số thanh niên, học sinh, sinh viên do hiểu
biết còn quá ít về lịch sử dân tộc, về các giá trị truyền thống mà lịch sử và cách
mạng đã xây nên, trong khi đó lại phục hồi không phân biệt tốt, xấu các vốn cổ dân
tộc, đồng thời đi liền với tâm lý sùng ngoại đôi khi đến mức mù quáng, phi lý, kệch
8


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

cỡm, mất gốc. Đó là các tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, sự đam mê nhu cầu
vật chất và những dục vọng thấp hèn, lối sống bất chấp đạo lý, dư luận xã hội và
luật pháp, đang xô đẩy một số người đi vào con đường tội lỗi. Tất cả những hiện
tượng trên đang làm vẩn đục môi trường xã hội - văn hóa, gây bất bình lớn trong
nhân dân, làm xói mòn nền tảng tinh thần xã hội, tạo miếng đất màu mỡ cho sự
xâm nhập sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài.
Những biến đổi phức tạp trong văn hóa gắn với thị trường toàn cầu mà căn
bản đang là thị trường tư bản chủ nghĩa, lại đặt các nước đang phát triển trước
những thách thức to lớn. Sự tác động của chủ nghĩa thực dụng, "văn hóa tiêu dùng"
đang dẫn đến nguy cơ đồng nhất về văn hóa, về lối sống, một số thói quen và hình
thức giải trí lai căng. Các hãng tư bản độc quyền xuyên quốc gia ra sức tuyên
truyền, quảng cáo cho các sản phẩm mang tính toàn cầu có thể làm thay đổi nếp

sống và văn hóa truyền thống của các dân tộc theo hướng "Tây hóa", "Mỹ hóa".
Đứng trước thực trạng này, có lúc ngay Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Pháp cũng phải
kêu lên: Văn hóa không phải là một thứ hàng hóa thông thường. Mối nguy cơ thực
sự chính là quan điểm kiểu Mỹ về văn hóa, theo đó văn hóa cũng là một thứ hàng
hóa thông thường. Chúng ta phải đấu tranh chống lại "thương mại hóa" ngày càng
gia tăng đối với các hoạt động của con người, không cho nền công nghiệp giải trí
Mỹ vốn đã đạt được hiệu quả chính trên thị trường của họ giờ đây lại chiếm lĩnh
nốt mọi không gian sáng tạo của các nền văn hóa khác.
Có thể nói, toàn cầu hóa bên cạnh mặt tích cực, đang đặt văn hóa dân tộc
trước những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị tha hóa nếu thiếu bản sắc độc lập,
tự chủ. Quá trình toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, nếu áp dụng cho văn hóa, về thực
chất có nghĩa là chủ nghĩa đế quốc văn hóa, nó đưa những giá trị phương Tây thống
trị thế giới, nó đe dọa xóa bỏ sự khác biệt về nền văn hóa giữa các quốc gia dân tộc,
giữa các vùng, các khu vực, sẽ làm nghèo đi sự đa dạng phong phú của bức tranh
văn hóa nhân loại; nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống sẽ
dẫn đến xóa bỏ ý thức dân tộc, làm cạn kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa.

9


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Chương 2. LÀM THẾ NÀO ĐỂ VĂN HÓA THỰC SỰ LÀ “NỀN TẢNG
TINH THẦN XÃ HỘI, LÀ MỤC TIÊU, LÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN ĐẤT
NƯỚC”?
2.1. Khái niệm
2.1.1. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật

chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội có nghĩa là văn hóa góp phần tạo nền móng của xã hội.
Nền móng có vững chắc thì sự phát triển của đất nước mới lành mạnh. Nói văn hóa
là nền tảng tinh thần có nghĩa là coi văn hóa là tổng thể các giá trị, các tiềm năng
sáng tạo của đất nước. Muốn phát triển cần phải dựa vào các giá trị đó, cần khai thác
và phát huy các giá trị đó. Thông qua thực tế kiểm nghiệm, Đảng ta chỉ ra rằng: Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát
triển và bản lĩnh của một dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần, đòi hỏi phải đặt văn hóa vào vị trí quan trọng.
Cũng như kinh tế tạo nên giá trị vật chất, nền tảng vật chất và nền tảng tinh thần tạo
những điều kiện cần và đủ để xã hội tồn tại và phát triển. Thiếu điều kiện vật chất thì
không có sự tồn tại của con người, nhưng thiếu điều kiện tinh thần thì xã hội không
thể phát triển được. Trong quá trình tồn tại và phát triển của lịch sử, cơ sở vật chất
và tinh thần thường xuyên thấm lẫn vào nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Chừng nào nền
tảng tinh thần suy yếu, chừng đó xã hội sẽ lâm vào khủng hoảng, các tệ nạn xã hội
xuất hiện và sự phát triển kinh tế sẽ gặp khó khăn.
Mỗi một quốc gia, dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển, cải tạo tự
nhiên, lao động sản xuất, tổ chức xã hội … đã hình thành và tích lũy một hệ thống
những kinh nghiệm, những tri thức về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỗi dân tộc, và nhân loại trong quá trình hình thành và phát triển cho mình
những giá trị xã hội, những truyền thống, chuẩn mực xã hội. Giá trị là kết quả hoạt
động sáng tạo của con người và nó được coi là giá trị có ý nghĩa được cộng đồng
khẳng định, bảo vệ, có vai trò liên kết cộng đồng và định hướng cho hoạt động của
cộng đồng. Còn chuẩn mực xã hội là sự cụ thể hóa giá trị những quy định nhằm điều
chỉnh hành vi ứng xử của con người. Chuẩn mực đạo đức thông qua xã hội tác động
10


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên


SVTH: Lê Quang Đạt

đến lương tâm, không bị phát luật điều chỉnh nhưng qua dư luận xã hội tác động làm
điều chỉnh những hành vi ấy đúng chuẩn mực của xã hội.
2.1.2. Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Trong mỗi chính sách KT-XH
luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi
dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn lực quyết định sự phát triển xã hội.
Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị, xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có nghĩa là sự phát triển kinh tế
phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự
phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát
triển của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu
của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực sáng
tạo của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo của
mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao quý
và chuẩn mực của toàn xã hội.
Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được độc lập - tự do - hạnh phúc, Văn
kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII viết: “Về đời sống vật chất và văn
hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về
đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành
mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh phúc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân, vì mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố

nội sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát
huy năng lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau,
văn hóa vừa thể hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều kiện

11


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

cho sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần vào
điều tiết quá trình phát triển KT-XH.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều hay
ít lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm
trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí,
lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí
tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả
năng phát triển KT-XH càng lớn và hiện thực.
Đối với một quốc gia, phát triển và tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với
nhau. Muốn phát triển bền vững và toàn diện thì động lực không thể thiếu là phát
triển văn hóa. Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng có khả năng phát huy mặt
tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách và chủ quan của các điều kiện
bên trong và bên ngoài, bảo đảm cho sự phát triển của xã hội được hài hòa, cân đối,
lâu bền. Văn hóa hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng
kiến, cải tiến kỹ thuật, sản xuất ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng
cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Văn hóa còn góp phần phần tăng cường sự hiểu
biết, mở rộng sự giao lưu hợp tác giữa nước ta và các nước khác trên cơ sở bình
đẳng cùng có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa truyền thống là

cơ sở tinh thần để ngăn chặn, hạn chế các tệ nạn xã hội, xu hướng “sùng ngoại”,
sùng bái tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng đóng vai trò điều tiết trong quan hệ
quốc tế, để mở cửa và giữ vững được độc lập, chủ quyền, hợp tác kinh tế - văn hóa
với nước ngoài mà không để người ta lợi dụng biến đất nước mình thành nơi cung
cấp nguyên liệu và nhân công giá rẻ, nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa và tiếp nhận những
công nghệ lạc hậu, những ảnh hưởng văn hóa độc hại.
Văn hóa phát triển mạnh và đúng hướng còn có khả năng ngăn chặn, khắc phục
được những ham muốn quá mức dẫn đến làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và gây
ô nhiễm môi trường sinh thái, cổ vũ xây dựng một lối sống có điều độ và hướng đến
những hành vi ứng xử có văn hóa của con người đối với con người và đối với thiên
nhiên.

12


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

2.2. Giải pháp để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, là
động lực thúc đẩy phát triển đất nước
Ngày nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đứng trước xu thế
toàn cầu hóa, trong khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém so với một số nước trong
khu vực và trên thế giới. Để văn hóa phát huy đúng nghĩa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, cần có những biện
pháp:
Một là, mở rộng, vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu
nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, bằng nhiều hình
thức phong phú. Phát động phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa, hướng

vào cuộc thi đua yêu nước vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Hai là, Nhà nước cần ban hành các luật, chính sách về phát triển văn hóa dân
tộc ở trên các lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội. Hoàn chỉnh các quy chế, quy định
về tổ chức và hoạt động lễ hội, việc tang, việc cưới, cúng điếu phù hợp với giá trị
văn hóa truyền thống. Từng bước xây dựng các chuẩn mực văn hóa mới ở cơ sở.
Khuyến khích, huy động mọi nguồn lực, nhất là các nguồn lực trong nhân dân
nhằm phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Có chính sách bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, đặc biệt lưu ý sưu tầm, lưu truyền nền
văn hóa phi vật thể. Xây dựng chính sách đặc thù phù hợp, khuyến khích các hoạt
động văn hóa, như chế độ nhuận bút cũng như cách đánh giá các tác phẩm văn hóa,
nghệ thuật trong tình hình mới. Ban hành chính sách cụ thể về hợp tác quốc tế về
văn hóa.
Ba là, tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. Tăng
cường mức chi cho hoạt động văn hóa từ nguồn ngân sách nhà nước, cả về chi
thường xuyên và chi cho phát triển văn hóa. Nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý và nghiệp vụ ở các cơ quan quản lý
văn hóa. Củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ các cơ quan quản lý văn hóa;
các trường, khoa đào tạo về văn hóa
Thứ tư là, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trong
giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước ngày nay, yêu cầu Đảng ta phải tăng
cường nâng cao vai trò lãnh đạo trên lĩnh vực văn hóa. Nhận thức đúng đắn về vai
trò văn hóa cần làm tốt hơn nữa công tác bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.
13


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt


Các tổ chức cơ sở Đảng cần thực hiện thường xuyên việc giáo dục lý tưởng cách
mạng, về chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, các đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước cho cán bộ, đảng viên.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, theo hướng
nắm bắt được các nhu cầu văn hóa lành mạnh của quần chúng, nhằm định hướng
đúng cho các hoạt động văn hóa từ khâu nhận thức, sáng tạo, bảo quản, đến phổ
biến, phân phối và tiêu dùng sản phẩm văn hóa của giới văn nghệ sĩ và quần chúng
nhân dân. Không ngừng mở rộng dân chủ để phát huy vai trò các hoạt động sáng
tạo và tiêu dùng văn hóa trong nhân dân.
Năm là, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Nhà
nước thể chế hóa đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng bằng các văn bản pháp
quy. Và quản lý Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để điều tiết các hoạt động
văn hóa, văn nghệ. Tăng cường giám sát, kiểm tra tất cả các hoạt động liên quan
đến văn hóa, văn nghệ. Ngăn ngừa, đối phó với âm mưu “diễn biến hòa bình” của
các thế lực thù địch đang tìm cách thẩm thấu, du nhập các loại văn hóa độc hại, đồi
trụy vào các thế hệ người Việt Nam ta hôm nay.
Tóm lại, xác định văn hóa là nền tảng của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH, một mặt đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng
của văn hóa; mặt khác, cũng để khẳng định một chân lý là chỉ có đặt văn hóa trong
sự phát triển, gắn văn hóa với sự phát triển, nghĩa là văn hóa phải bén rễ trong kinh
tế thì kinh tế mới phát triển được. Sự nghiệp văn hóa, suy cho cùng là vì con người,
như nhận định của Đảng ta: Nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp văn hóa là bồi
dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối
sống, nhân cách, xây dựng thế giới quan khoa học, nhân sinh quan XHCN, hướng
con người tới những giá trị Chân - Thiện – Mĩ. Vì vậy trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, cần coi trọng chính sách đầu tư cho văn hóa, đầu tư cho con người,
khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia phát triển và sáng tạo văn hóa,
đồng thời hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn.

14



HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Chương 4. TRÁCH NHIỆM CỦA SINH VIÊN TRONG VIỆC GIỮ GÌN VÀ
PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM
Trước bối cảnh hội nhập quốc tế, tác động của mặt trái cơ chế thị trường, văn
hóa phương Tây và văn hóa phương Đông du nhập vào nước ta một cách tràn lan,
bên cạnh văn hóa trong sạch, lành mạnh thì sản phẩm xấu độc cũng nhanh chóng
thâm nhập, len lỏi vào mọi ngõ ngách, tâm hồn, đời sống của con người Việt Nam
trong đó có thanh niên. Thanh niên là đối tượng tiếp thu và đón nhận văn hóa đó
một cách nồng nhiệt và nhanh chóng nhất. Hiện tượng thanh niên ăn mặc theo
phong cách Hàn Quốc, Nhật Bản xuất hiện rất nhanh, với những chiếc quần xước
nửa tây, nửa ta, tóc thì nhuộm cho giống với phong cách thần tượng của mình. Có
một bộ phận không nhỏ thanh niên đi tham gia vào những lễ hội truyền thống chỉ
với mục đích đi giải trí là chính, họ đến với lễ hội truyền thống không phải với thái
độ thành tâm hướng về cội nguồn, hiện tượng đùa cợt trong lễ hội, xem bói, xem
quẻ xuất hiện ngày càng trở nên phổ biến… Đây là những hiện tượng cần được chú
ý trong quá trình giáo dục thanh niên hiện nay.
Để phát huy vai trò của thanh niên trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thiết
nghĩ cần phải thực hiện có hiệu quả một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, thanh niên phải nhận thức rõ ý nghĩa tầm quan trọng của việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, bởi chỉ có trên cơ
sở nhận thức đúng thì mới giúp thanh niên có những hành động đúng trong việc đề
ra chương trình, kế hoạch hành động có hiệu quả nhất. Không chỉ có vậy, nó còn là
cơ sở, động lực cho thanh niên tích cực nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa dân
tộc, tham gia vào các lễ hội với một thái độ nghiêm túc, cầu thị và biết tiếp thu
chọn lọc có phê phán tinh hoa văn hóa dân tộc và thế giới, thấy được cái hay, cái

tiến bộ cần phải trân trọng giữ gìn, quảng bá.
Thứ hai, phải đề ra chương trình, kế hoạch hành động cụ thể thiết thực để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Sau khi đã có nhận thức đúng thì thanh niên phải xây
dựng kế hoạch, đề ra những biện pháp cụ thể hữu ích để làm cho những di tích lịch
sử, những lễ hội truyền thống của dân tộc như lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ, lễ hội
chùa Hương ở Hà Nội…. được thăng hoa có ý nghĩa quan trọng về mặt tinh thần.
Thông qua công tác tuyên truyền vận động, giáo dục, thanh niên cần ý thức và giúp
người dân biết giữ gìn những gì đã có, hiểu rõ đâu là cái cần phải giữ gìn, bảo vệ
không những cho hôm nay mà còn cho mãi mãi về sau và cái gì cần phê phán, loại
15


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Ở những cuộc thi, những chương trình, những lễ hội là
dịp tốt nhất để cho thanh niên phát huy hết vai trò, sở trường, năng lực của bản thân
góp phần định hướng những giá trị về đạo đức, lối sống có văn hóa cho thanh niên
và các tầng lớp khác.
Thứ ba, phát huy tính tích cực, chủ động của thanh niên trong giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc. Điều kiện bên ngoài có thuận lợi bao nhiêu chăng nữa, nhưng nếu
bản thân mỗi thanh niên không tích cực nghiên cứu, tìm hiểu thì sẽ không bao giờ
phát huy được vai trò của bản thân mình. Không ai hết mà chính thanh niên phải là
người chiến sĩ xung phong trên mặt trận văn hóa như Hồ Chí Minh đã từng nói:
Mỗi người phải là một chiến sĩ trong cuộc đấu tranh chống lại văn hóa lai căng, xấu
độc từ bên ngoài. Thấy được vai trò của mình, có những bạn sinh viên đã vượt qua
chặng đường hàng mấy trăm cây số để lên vùng cao đem cái chữ đến với đồng bào,
góp phần xóa mù chữ, giúp đồng bào biết được ánh sáng của sự văn minh tiến bộ
và tích cực ủng hộ những chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền văn

hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ tư, thanh niên phải tích cực đấu tranh chống lại âm mưu chống phá của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hiện nay
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng cuộc đấu tranh trên
mặt trận văn hóa và chúng coi đây là mũi nhọn xung kích làm phai nhạt mục tiêu lý
tưởng của thanh niên. Những biểu hiện xấu của văn hóa phương Tây với lối sống
thực dụng, sống chỉ có biết hôm nay, không biết đến có ngày mai; những hành vi đi
ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc; sự thích thú những bộ phim nước ngoài
với nội dung chém giết, võ thuật và nhiều tệ nạn trong thanh niên hiện nay chính là
những phản văn hóa, những việc làm và hành động tác động rất mạnh đến tâm lý
của thanh niên. Sự tác động xấu đó dễ làm cho một bộ phận thanh niên chúng ta
quay lưng lại với lịch sử dân tộc, với phong tục tâp quán của con người Việt Nam,
với văn hóa Việt Nam. Thanh niên là những người hàng ngày hàng giờ phải đối
mặt, phải tiếp xúc với văn hóa đó nhiều nhất cho nên phải chủ động kế thừa những
cái tiến bộ và lọc bỏ những cái không phù hợp, đi ngược lại với văn hóa của dân
tộc. Thanh niên phải nhận thức rõ văn hóa Việt Nam là thành quả của sự kết tinh
văn hóa dân tộc và văn hóa thế giới, phải trang bị cho mình một hệ thống tri thức
vững vàng, đầy đủ để không bị động bất ngờ, thường xuyên tìm hiểu văn hóa dân
tộc và văn hóa thế giới để tạo hành trang tri thức, góp phần xây dựng đất nước.

16


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp
đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng của cả hệ thống chính trị. Trong quá trình hội
nhập mở cửa, chúng ta phải luôn coi trọng việc bảo tồn, giữ gìn những tinh hoa văn

hóa của dân tộc. Có như vậy, chúng ta mới không đánh mất mình, hòa nhập nhưng
không hòa tan và giữ được lối sống cốt cách tâm hồn của con người Việt Nam. Văn
hóa còn thì đất nước còn, mất văn hóa thì mất tất. Câu nói đó không chỉ có ý nghĩa
trong hiện tại, tương lai mà còn mãi mãi về sau. Nó luôn nhắc nhở thế hệ ngày hôm
nay, trong đó có thanh niên chúng ta, hãy biết giữ gìn, trân trọng nền văn hóa của
dân tộc đồng thời phải không ngừng bổ sung, phát triển, quảng bá cho văn hóa
tương lai của dân tộc.

KẾT LUẬN
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng
rộng mở, phải coi trọng việc thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm của
Đảng về văn hóa thành hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách, bảo đảm
phù hợp với thực tiễn đổi mới và các chuẩn mực quốc tế. Việc hoàn thiện, đổi mới
các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách cần theo hướng tạo môi trường, điều
kiện thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn
hóa; nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền và lợi ích trên lĩnh
vực văn hóa. Mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi địa phương, đơn vị cần chỉ đạo xây dựng,
ban hành những văn bản dưới luật phù hợp với lĩnh vực hoạt động, như: quy chế,
quy định, nội quy, hương ước, cam kết,… lấy đó làm căn cứ để điều chỉnh ý thức,
thái độ hành vi của mọi người. Để xây dựng văn hóa pháp luật, bên cạnh động viên
nêu cao tính tự giác, cần tăng cường quản lý văn hóa bằng pháp luật; thực hiện có
nền nếp công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm minh những
hành vi “phản cảm”, thiếu văn hóa, vi phạm pháp luật; chủ động đấu tranh với
những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng của
các thế lực thù địch; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về
chính trị tư tưởng, đạo đức và lối sống trong cán bộ, đảng viên và quần chúng. Sinh
thời, Bác Hồ đã dạy: “Phải làm sao cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân”.
Điều đó có nghĩa, văn hóa phải trở thành nhận thức, tình cảm, ý chí, động cơ hành
động của mọi người trong xã hội. Văn hóa và con người phải là một; văn hóa cùng
với chính trị, kinh tế cũng như các lĩnh vực khác phải đồng hành để có được “năng

lực nội sinh”, “nền tảng tinh thần vững chắc” cho phát triển. Chỉ có như vậy, sự
nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ,
17


HVHD: Nguyễn Thị Lan Chiên

SVTH: Lê Quang Đạt

văn minh”, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới thành
hiện thực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, nxb chính
trị quốc gia.





MỤC LỤC

18




×