Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Thi hành án dân sự đối doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh hải dương (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.69 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MẠNH HÀ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số: 60. 38. 01. 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI THỊ ĐÀO

Phản biện 1: PGS.TS. Vũ Thư
Phản biện 2: PGS.TS. Lương Thanh Cương

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Học viện Khoa học Xã hội vào lúc:
...... giờ, ngày ..... tháng ..... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện khoa học xã hội



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã
có hiệu lực thi hành của Tòa án được thực hiện. Nếu như kết quả hoạt
động xét xử là đưa ra phán quyết (bản án, quyết định) trên cơ sở áp
dụng các điều luật cụ thể để xem xét các tình tiết xảy ra, thì kết quả
của thi hành án làm cho các phán quyết đó được thực hiện trong thực
tế. Đòi hỏi nâng cao việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, đảm
bảo cho các quyết định và bản án dân sự có hiệu lực pháp luật được thi
hành trong thực tế đặc biệt là thi hành án đối với doanh nghiệp tại tỉnh
Hải Dương trở nên cấp thiết.
Với những lý do trên tôi chọn để tài: “Thi hành án dân sự
đối doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm luận văn thạc sĩ
Luật chuyên ngành Luật hiến pháp và luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thi hành án đối
với doanh nghiệp đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các
cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Những công trình nghiên cứu
nói trên đã nghiên cứu những vấn đề chung của pháp luật; thực hiện
pháp luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội và những công
trình nghiên cứu về vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh,
phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự. Nhưng đến nay,
chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực trạng
thi hành án trong lĩnh vực tín dụng, lý giải các nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng thực hiện pháp luật, đề ra các giải pháp đảm
bảo pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải
thi hành án nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng.

1



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn nêu ra các giải pháp nhằm thi
hành án hiệu quả trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói chung và thi hành án
đối với doanh nghiệp là người được thi hành án nói chung tại tỉnh Hải
Dương.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm
vụ sau:
- Một là, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án;
- Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp là người phải thi hành án ở tỉnh Hải Dương hiện
nay;
- Ba là, xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực,
hiệu quả thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải thi
hành án ở tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Pháp luật thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp rất rộng được
nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn
thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội
dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung, thực trạng và giải pháp.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn dưới góc độ lý luận chung về nhà nước
và pháp luật, thông qua thực tiễn và số liệu của cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh và các cơ quan liên quan đến thi hành án dân sự ở Hải Dương từ năm
2013 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận của luận văn


2


Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám
sát đường lối, chủ trương của Đảng về pháp luật, về công tác thi hành
án dân sự và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy
vật biện chứng của triết học Mác- Lênin theo quan điểm phát triển,
toàn diện, lịch sử, cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương
pháp như: logic, phân tích, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò ý nghĩa của
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là
người phải thi hành án trong việc phát huy tính tích cực, chủ động
trong thi hành án dân sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và công dân đối với công
tác thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm
một số vấn đề của pháp luật thi hành án dân sự. Luận văn có thể là tài
liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Hải Dương trong
việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp. Luận văn cũng có thể là tài liệu tham khảo của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh trong việc nghiên cứu và chỉ đạo các hoạt động về thi
hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án. Đối
với các cơ quan có liên quan đến thi hành án dân sự, luận văn có thể
là tài liệu tham khảo trong việc thực hiện trách nhiệm của mình theo
quy định của pháp luật, trong việc phối hợp hoạt động thi hành án
dân sự.


3


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo;
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh
nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự và thi hành
án dân sự đối với doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự
- Khái niệm thi hành án dân sự: Dưới góc độ lý luận, thi
hành án dân sự hiện nay còn có hai quan điểm khác nhau về nghĩa
hẹp và nghĩa rộng của khái niệm "dân sự".
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án
dân sự như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư
pháp do cơ quan thi hành án, chấp hành viên tiến hành theo trình tự,
thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định dân sự của
Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được
thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.


4


- Đặc điểm của thi hành án dân sự:
- Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài sản. Bản chất
của các quan hệ dân sự là quan hệ mang tính tài sản chính vì thế mà
quá trình thi hành án dân sự cũng mang tính tài sản.
- Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính định đoạt: Xuất
phát từ quyền tự định đoạt của các chủ thể trong luật dân sự. Chủ thể
có quyền được yêu cầu chủ thể khác thực hiện những hành vi nhất
định hoặc không thực hiện những hành vi nhất định để đáp ứng lợi
ích.
- Thi hành án dân sự còn là hoạt động mang tính thỏa thuận:
Pháp luật công nhận sự thỏa thuận tự nguyện của người thi hành án
và người phải thi hành án về việc chấp hành quyết định của Tòa án,
nếu sự thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
- Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước nhằm bảo đảm hiệu lực thực tế của các bản án, quyết định của
Tòa án, được sử dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của
pháp luật.
- Hoạt động thi hành án dân sự phải tuân thủ những trình tự,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
- Trong quá trình thi hành án dân sự Chấp hành viên, cán bộ
thi hành án độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là hoạt động thi
hành án nhằm mục đích buộc doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của Trọng tài hoặc

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội động xử lý vụ việc cạnh
tranh đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng

5


được thi hành ngay.
- Thứ nhất, Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính tài
sản. Chính vì thế mà quá trình thi hành án dân sự đối với các doanh
nghiệp là người phải thi hành án cũng mang tính tài sản.
Thứ hai, cơ sở phát sinh hoạt động thi hành án dân sự bắt
buộc phải từ một bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của
Trọng tài thương mại, của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tuyên
buộc doanh nghiệp phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định, phần lớn
là nghĩa vụ về tài sản.
Thứ ba, đối phải thi hành án là doanh nghiệp – là pháp nhân
có con dấu và tài sản độc lập nhân danh mình tham gia các quan hệ
pháp luật. Được thành lập và hoạt động phù hợp với pháp luật Việt
Nam.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự đôi với doanh nghiệp
Vai trò của việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là
người phải thi hành án thể hiện như sau:
- Một là., bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước, các tổ
chức và cá nhân
- Hai là, bảo đảm, giữ gìn bản chất Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân
- Ba là, góp phần ổn định xã hội, ổn định nền kinh tế
- Bốn là, tạo khuôn khổ pháp lý, trật tự, kỷ cương cho hoạt
động thi hành án dân sự
1.2. Quy định của pháp luật về thẩm quyền thi hành án

đối với doanh nghiệp
1.2.1. Thẩm quyền thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 35 của Luật thi hành án dân sự.
1.3. Nội dung thi hành án đối với doanh nghiệp

6


Nội dung thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là người
phải thi hành án bao gồm: Thi hành án chủ động và thi hành án theo
yêu cầu.
Về thời hiệu yêu cầu thi hành án: Luật thi hành án dân sự đã
quy định thời hiệu yêu cầu thi hành án là 05 năm, như sau:
1.4. Thủ tục thi hành án đối với doanh nghiệp
Thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp là một thủ
tục hành chính – tư pháp đặc biệt, do đó pháp luật về thi hành án dân
sự cũng có những quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tụcvề thi hành án
dân sự. Hoạt động thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gồm thi
hành án chủ động với những khoản nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước
và thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án.
1.5. Tổ chức thi hành quyết định thi hành án dân sự đối với
doanh nghiệp
1.5.1. Các biện pháp bảo đảm thi hành án
- Thứ nhất, phong toả tài khoản của người phải thi hành án.
- Thứ hai, Tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành
án.
Thứ ba, Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện
trạng về tài sản của người phải thi hành án.
1.5.2. Biện pháp và thủ tục cưỡng chế thi hành án
- Thứ nhất, cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền của

doanh nghiệp là người phải thi hành án
- Thứ hai, cưỡng chế đối với tài sản là giấy tờ có giá của
doanh nghiệp là người phải thi hành án
Thu giữ giấy tờ có giá; Bán giấy tờ có giá
- Thứ ba, cưỡng chế đối với tài sản là vật
- Thứ tư, định giá, định giá lại, bán đấu giá tài sản kê biên

7


Thứ năm, thi hành nghĩa vụ buộc nhận người lao động trở lại
làm việc
Kết luận chương 1
Để pháp luật thi hành án dân sự được bảo đảm thực hiện
trong đời sống xã hội, phát huy được tác dụng, đòi hỏi các chủ thể
thực hiện phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò và ý nghĩa thiết thực
của nó, từ đó chủ động có các biện pháp thích hợp để tổ chức thực
hiện tốt những qui định của pháp luật thi hành án dân sự. Làm được
như vậy sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
các tổ chức và cá nhân; bảo đảm, giữ gìn bản chất Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; góp
phần ổn định xã hội, ổn định nền kinh tế; đẩy mạnh hội nhập quốc tế
và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đó là toàn bộ nội dung của
Chương 1 - Những vấn đề lý luận và pháp lý về thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp. Trên nền tảng pháp lý đó, tác giả vận dụng vào
thực tiễn của địa phương mình, đánh giá thực trạng thi hành án dân
sự đối với doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Hải Dương trong phần tiếp
theo của luận văn.

8



Chương 2
THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP Ở TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Thực trạng thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương
2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về Thi hành án dân
sự đối với doanh nghiệp
- Hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án dân sự, cấp và
chuyển giao, nhận bản án, quyết định
- Thời hiệu yêu cầu thi hành án
- Thủ tục gửi và nhận đơn yêu cầu thi hành án
- Ra quyết định thi hành án và thu hồi, sửa đổi, bổ sung, huỷ
quyết định về thi hành án
- Xác minh điều kiện thi hành án
- Thời hạn tự nguyện thi hành án
- Hoãn thi hành án
- Đình chỉ thi hành án
- Xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
- Ủy thác thi hành án
- Biện pháp bảo đảm thi hành án
- Cưỡng chế thi hành án
- Thi hành án trong một số trường hợp cụ thể
2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật Thi hành án dân sự
đối với Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Trong công tác giao nhận bản án với Tòa án nhân dân và
ban hành quyết định thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án đối
với các vụ việc thi hành án đối với Doanh nghiệp


9


Trong 4 năm từ năm 2013 đến năm 2016 Cơ quan thi hành
án tỉnh Hải Dương đã nhận tổng số bản án, quyết định về thi hành án
đối doanh nghiệp là 852 bản án, quyết định. Trong đó có 552 quyết
định án phí, và 443 đơn yêu cầu thi hành án. Trên cơ sở đó toàn tỉnh
đã ban hành 995 việc thi hành án thuộc điện chủ động và theo yêu
cầu thi hành án. Cơ quan thi hành án cũng từ chối nhận đơn yêu cầu
thi hành án 12 trường hợp; 05 trường đã hết thời hiệu yêu cầu thi
hành án. [11, tr 8].
Thực hiện áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành
án dân sự đối với doanh nghiệp là người phải thi hành án tại tỉnh
Hải Dương
Trong 4 năm 2013 đến năm 2016 toàn ngành thi hành án dân
sự tỉnh Hải Dương đã thực hiện kê biên cưỡng chế được 256 việc trên
tổng số 995 việc phải thi hành.. Năm 2013, Toàn tỉnh đã ban hành ra
60 quyết định cưỡng chế; năm 2014 có 67 quyết định cưỡng chế; năm
2015 có 50 quyết định cưỡng chế và năm 2016 có 79 quyết định cưỡng
chế [11, tr15].
Thực hiện việc, định giá lại và bán đấu giá tài sản kê biên để thi
hành án
Trong 04 năm từ năm 2013 đến năm 2016 các cơ quan thi
hành án đã tiến hành kê biên được 220 việc và đã tiến hành định giá
và bán đấu giá được 118 việc, địnhgiá lại 9 việc [11, tr 18].
Thực hiện việc áp dụng biện pháp buộc nhận người lao động
trở lại làm việc
Thực trạng thực hiện thi hành án về việc và tiền đối với
doanh nghiệp trong các năm 2013-2016


10


Biểu đồ 2.1. Kết quả về việc thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp ở
tỉnh Hải Dương từ năm 2013-2016
400
341

350

308
300
250

229
211

Tổng số thụ lý (việc)
Số việc thi hành xong

200

Số việc còn phải thi hành
150

133

117

130


108

100

99

97

2015

2016

67
50

50
0
2013

2014

1.522.132.805

1.063.578.489

1.313.530.744

1.228.662.085


1.131.210.376

1.200.000.000

1.252.408.460

1.400.000.000

1.089.854.617

1.600.000.000

1.117.280.860

Biểu đồ 2.2. Kết quả thi hành án về tiền đối với doanh nghiệp ở tỉnh
Hải Dương từ năm 2013-2016
Đơn vị tính: 1.000 đồng

458.554.316

1.000.000.000
800.000.000

121.198.084

97.091.341

600.000.000

2014


2015

Tổng số thụ lý (tiền)
Số tiền thi hành xong
Số tiền còn phải thi hành

200.000.000

27.426.243

Qua các số liệu thống kê trên nhìn thấy một thực tế là số liệu

400.000.000

0
2013

2016

Nguồn: Báo cáo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương 2013-2016

11


Qua các số liệu thống kê trên nhìn thấy một thực tế là số liệu
thụ lý mới trong đó có năm trước chuyển qua (án tồn đọng) là rất lớn.
Ví dụ như năm 2013 số việc phải thi hành là 117 đến năm 2014 số
lượng việc đã lên gấp gần ba lần so với năm trước. Về số tiền phải thi
hành năm 2013 là 1.117.280.860.000 đồng đến năm 2016 số tiền

phải thi hành là 1.522.132.805.000 đồng. Thi hành xong
1.063.578.489.000 đồng, số tiền còn phải thi hành là 458.554.316. Số
tiền thi hành xong tăng đột biến như vậy là do Hồ sơ thi hành án đối
với doanh nghiệp là Công ty Cổ phần Quốc tế Contener CAS đã thi
hành xong hơn 1.076 tỷ đồng [11,tr 24].
Tóm lại: Mặc dù tổng số việc và tiền phải thi hành án dân sự
đều tăng qua các năm nhưng việc giải quyết thi hành án dân sự đối
với những vụ việc có điều kiện thi hành luôn đạt tỷ lệ tương đối cao.
2.2. Đánh giá chung về thực trạng thi hành án dân sự đối
với Doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương
2.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
Nhìn chung trong những năm trở lại đây, công tác thi hành
án dân sự ở tỉnh Hải Dương đã có những bước tiến đáng kể, tỷ lệ chất
lượng công việc cả thi hành án về việc và thi hành án về giá trị năm
sau cao hơn năm trước đặc biệt là năm 2016 Cục thi hành án dân sự
tỉnh Hải Dương đã thi hành xong hơn 1.076 tỷ đồng đối với doanh
nghiệp là Công ty Cổ phần Quốc tế Contener CAS. Đạt được kết quả
đó ngoài sự nỗ lực phấn đấu cố gắng khắc phục khó khăn để vươn lên
của lực lượng làm công tác thi hành án trong tỉnh, còn có sự quan
tâm kịp thời của Bộ Tư pháp và Tổng cục thi hành án dân sự và của
lãnh đạo tỉnh và sự phối hợp, giúp đỡ của các ngành hữu quan. Công
tác thi hành án dân sự cũng đã tác động tới ý thức chấp hành pháp

12


luật, chấp hành nghĩa vụ của doanh nghiệp góp phần giữ vững kỷ
cương, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà [11,
tr 30].
Việc thi hành án dân sự nói chung và thi hành án đối với

doanh nghiệp nói riêng ở tỉnh Hải Dương đạt được trong thời gian
qua là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Đối với tỉnh Hải Dương đội ngũ và cơ cấu cán bộ thi hành
án dân sự tiếp tục được tăng cường và phân bổ hợp lý hơn. Chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự
tiếp tục được quan tâm thực hiện bảo đảm đúng quy định:
Thứ nhất, có sự lãnh đạo kịp thời, đúng đắn của Trung ương
Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong công tác thi hành án dân sự và sự
quan tâm của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương trong việc đề ra
được nhiều chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực đối với việc thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự.
Thứ hai, sự nỗ lực, quyết tâm phấn đấu của đội ngũ cán bộ,
công chức làm công tác thi hành án.
Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự ngày càng được kiện
toàn, đội ngũ cán bộ ngày được bổ sung về số lượng, từng bước nâng
cao về chất lượng và năng lực nghiệp vụ. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị phục vụ cho công tác thi hành án dân sự từng bước được tăng
cường. Các bản án, quyết định của Toà án nhân dân các cấp từng
bước được cơ quan thi hành án đưa ra thi hành một cách nghiêm
chỉnh đúng quy định của pháp luật thi hành án, giữ vững pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong công tác thi hành án dân sự.
Thứ ba, thực hiện tốt vai trò của Ban chỉ đạo Thi hành án
dân sự: Hoạt động của BCĐTHADS rất đa dạng, không chỉ dừng lại
ở việc chỉ đạo phối hợp, chỉ đạo các vụ việc cưỡng chế mà còn thực

13


hiện với vai trò là một bộ phận tham mưu, giúp cho Lãnh đạo Ủy ban
nhân dân tỉnh trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công

tác THADS tại địa phương.
Thứ tư, trong công tác phối hợp thi hành án dân sự: Thi hành
án dân sự là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền về tài sản và
nhân thân của các bên đương sự, để giải quyết việc thi hành án, cơ
quan thi hành án dân sự phải tiến hành nhiều thủ tục như: Tống đạt,
xác minh, áp dụng các biện pháp đảm bảo, biện pháp cưỡng chế thi
hành án v.v... vì thế, cơ quan thi hành án dân sự không thể “đơn thân
độc mã” thực hiện được các công việc trên, mà cần có sự phối hợp
với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Ví dụ: Liên quan đến xác minh
việc thuê đất sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cơ quan thi hành
án dân sự cần sự phối hợp của cơ quan quản lý tài nguyên và môi
trường; liên quan đến xác minh tài khoản của doanh nghiệp cần sự
phối hợp của ngân hàng, tổ chức tín dụng v.v...
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân
Như phần trên đã nêu, trong những năm qua số lượng bản án,
quyết định của Tòa án phải đưa ra thi hành đối với doanh nghiệp
ngày càng tăng, trong đó việc không có điều kiện thi hành chiếm tỷ lệ
không nhỏ. Đây là số lượng án tồn đọng vì những lý do khách quan
mà cơ quan thi hành án không thể thi hành được, cụ thể:
Thứ nhất, thi hành án kinh doanh, thương mại thường liên
quan đến việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản,
hợp đồng kinh tế giữa các pháp nhân kinh tế; hợp đồng tín dụng,
ngân hàng...,
Thứ hai, hiện trạng tài sản bảo đảm không đúng với nội dung
bản án, quyết định của tòa, dẫn đến việc cơ quan THA gặp khó khăn
khi kê biên, xử lý... và cũng do tâm lý của người mua là ngại mua tài

14



sản đã kê biên, bán đấu giá thi hành án, dẫn đến việc bán đấu giá tài
sản thành rất thấp ở lần đầu, mà chủ yếu phải đưa ra bán nhiều lần
mới thành công hoặc tuy đưa ra bán đấu giá nhiều lần vẫn không bán
được.
Thứ ba, nhiều người được thi hành án là ngân hàng, tổ chức
tín dụng còn lúng túng trong việc nhận tài sản bán đấu giá để trừ vào
khoản vay. Qua tổ chức khảo sát tại địa phương cho thấy, nhiều việc
Chấp hành viên đã vận động, thuyết phục ngân hàng nhận tài sản
giảm giá đã nhiều lần không bán được để trừ vào khoản vay nhưng
ngân hàng không nhận.
Thứ năm, một tài sản của doanh nghiệp thế chấp cho nhiều tổ
chức tín dụng, ngân hàng. việc thẩm định, nhận thế chấp tài sản chưa
chặt chẽ; đối với án liên quan đến ngân hàng thì đại diện ngân hàng
tham gia việc yêu cầu thi hành án chưa tích cực, chủ động phối hợp
trong quá trình tổ chức thi hành án. Trong quá trình tiến hành thẩm
định, cho vay, một số trường hợp ngân hàng không thực hiện đúng
quy trình, quy định; không xác định hiện trạng tài sản, không thẩm
định kỹ nguồn gốc, giá trị tài sản hoặc một tài sản được thế chấp cho
nhiều nơi.
Thứ sáu, chưa có quy định cụ thể về ủy thác THA để các cơ
quan THA dân sự cùng xử lý đồng thời các tài sản bảo đảm thuộc
nhiều địa bàn khác nhau, thuộc thẩm quyền của các cơ quan THA
dân sự khác nhau.
Thứ bảy, cơ quan THA dân sự thiếu kinh phí để tạm ứng khi
tiến hành đo vẽ, xác định mốc giới tài sản (có những vụ kinh phí tạm
ứng rất lớn, lên đến hàng trăm triệu đồng).
Thứ tám, việc thẩm định giá đối với một số tài sản đặc thù
gặp khó khăn. Nhiều vụ việc cơ quan THA dân sự đã kê biên tài sản

15



nhưng đương sự chống đối, không hợp tác nên không thẩm định giá
được. Tại thời điểm tổ chức thẩm định giá, tài sản có thay đổi đáng
kể về hiện trạng so với thời điểm tổ chức kê biên; đương sự không
thống nhất về giá đã định, khiếu nại, tố cáo dẫn đến việc thẩm định
giá kéo dài.
Thứ chín, thị trường bất động sản còn trầm lắng. Người dân e
ngại không muốn đầu tư vào tài sản THA nên việc bán tài sản để
THA còn nhiều hạn chế. Phần lớn các trường hợp tài sản phải đưa ra
bán nhiều lần mới thành. Có nhiều trường hợp tài sản đã giảm giá
nhiều lần cũng không bán được.
Thứ mười, chậm giao tài sản cho người trúng đấu giá. Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến các nhà đầu tư không mặn mà đối với tài
sản bán đấu giá trong thi hành án liên quan đến tài sản kê biên, cưỡng
chế của doanh nghiệp. Pháp luật hiện hành mới chỉ nêu được nguyên
tắc bảo vệ người mua trúng đấu giá, chưa có quy định cụ thể về trách
nhiệm của cơ quan nhà nước. Điều 103 Luật THA dân sự đã bổ sung
quy định về cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá nhưng
vẫn có trường hợp chưa nhận được sự đồng thuận của các cơ
quan hữu quan...
Bên cạnh tình trạng án tồn đọng do nguyên nhân khách quan
nói trên, còn tình trạng nhiều bản án, quyết định có điều kiện thi hành
nhưng chưa được thi hành do các nguyên nhân chủ quan sau đây:
- Một là, một số Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự địa
phương (nhất là ở cấp huyện) và Chấp hành viên chưa thực sự nhận
thức đầy đủ về trách nhiệm được giao, chưa tích cực, chủ động trong
việc tổ chức thi hành án nói chung và thi hành án đối với doanh
nghiệp nói riêng. Một số nơi, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
chưa sát sao kiểm tra, chỉ đạo, phân công lãnh đạo trực tiếp phụ trách


16


những vụ việc có giá trị lớn, có vướng mắc liên quan đến doanh
nghiệp; Chấp hành viên chưa có kế hoạch cụ thể, nên chưa tập trung
để tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ giải quyết án.
- Hai là, trình độ, chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận
Chấp hành viên, công chức thi hành án chưa đáp ứng yêu cầu; nhận
thức và áp dụng pháp luật chưa chính xác, dẫn đến khiếu nại, tố cáo
của đương sự, việc thi hành án bị kéo dài thể hiện ở một số dạng như:
Ra quyết định thi hành án không đúng với nội dung bản án và đơn
yêu cầu thi hành án; không thực hiện việc lập bản vẽ xác định mốc
giới, vị trí thửa đất trước khi kê biên, không xác định được mốc giới,
vị trí thửa đất đã kê biên dẫn đến tranh chấp về diện tích đất hoặc
không tiến hành xác minh mà chỉ căn cứ vào bản án và hợp đồng thế
chấp tài sản để tiến hành kê biên dẫn đến việc không kê biên đúng,
đủ tài sản thế chấp, làm cho việc xử lý tài sản sau khi đã bán đấu giá
thành gặp khó khăn; ra quyết định kê biên không đúng quy định của
pháp luật như ra quyết định kê biên quyền sử dụng đất thuộc trường
hợp đất thuê trả tiền hàng năm...
- Ba là, đa phần cơ quan có thẩm quyền tuy đã thực hiện đúng
qui định của pháp luật về phối hợp trách nhiệm trong thi hành án,
nhưng vẫn còn nhiều trường hợp qui định đó chưa đi vào thực tiễn.
Thực tế cho thấy có nhiều trường hợp án đã có hiệu lực pháp luật, đã
được đưa ra thi hành hoặc thi hành đã xong hoàn toàn nhưng sau đó
vẫn có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoãn hoặc kháng nghị theo
trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Kết quả của việc kiến nghị trên
nhiều khi làm thay đổi nội dung bản án, gây ra khó khăn phức tạp cho
việc thi hành bản án mới.

- Bốn là, hoạt động của cơ quan xét xử có tác động trực tiếp
đến hiệu quả của thi hành án dân sự, nhưng hiện nay trong mối quan

17


hệ giữa cơ quan thi hành án và cơ quan xét xử còn nhiều vướng mắc
như: những trường hợp bản án của Tòa án tuyên không rõ ràng,
không sát với thực tế, bỏ sót người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án... nên cơ quan thi hành án không thể thi hành được.
- Năm là, chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan thi hành án
và cơ quan, tổ chức khác trong quá trình thi hành án. Pháp luật qui
định, việc thi hành án không chỉ là nhiệm vụ riêng của cơ quan thi
hành án mà còn là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp, của toàn
xã hội. Nhưng thực tế, có nhiều lúc, nhiều nơi, sự phối hợp của chính
quyền các cấp, của tổ chức xã hội, của công dân chưa tốt. Nhiều khi,
lực lượng cảnh sát còn ngần ngại, né tránh trong việc bảo vệ cưỡng
chế thi hành án, còn coi việc thi hành án là nhiệm vụ riêng của cơ
quan thi hành án, chứ không phải nhiệm vụ của ngành mình nên
không có thái độ hợp tác đúng mực.
- Sáu là, chưa có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ trong tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự. Nhiều nơi,
người được thi hành án do không hiểu pháp luật nên đã không yêu
cầu thi hành án hoặc người phải thi hành án nhận thức sai lầm về
pháp luật nên đã cản trở hoặc chống đối việc thi hành án.
Kết luận chương 2
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác thi hành án
dân sự những năm qua, thi hành án dân sự cũng bộc lộ những bất cập
làm cản trở, hạn chế hiệu quả hoạt động thi hành án, đó là sự tản
mạn, không đầy đủ, không thống nhất, đồng bộ của các văn bản quy

phạm pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật có liên quan. Tình
trạng án tồn đọng, sự tách biệt trong cơ chế thi hành án hình sự và
dân sự, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong công tác thi hành án

18


dân sự, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo, mô hình tổ chức và đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án, việc bồi thường thiệt
hại trong thi hành ándân sự vẫn là vấn đề bức xúc trong công tác thi
hành án hiện nay.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, thực
trạng thi hành án dân sự ở Hải Dương còn một số tồn tại đó là một số
địa phương, cấp uỷ, chính quyền còn chưa thật sự quan tâm đến thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự. Ban chỉ đạo thi hành án một số nơi
hoạt động còn hình thức. Một số tổ chức và cá nhân có liên quan đến
thi hành án chưa làm hoặc làm chưa hết trách nhiệm của mình theo
luật định, chưa tạo ra mối quan hệ phối hợp hiệu quả. Do đó, lượng
án tồn đọng còn lớn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tồn tại kể trên,
đó là pháp luật chưa hoàn thiện, vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, quản lý
nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền có lúc có nơi bị buông lỏng,
trách nhiệm của các của cơ quan, tổ chức có liên quan đến thi hành
án còn chưa đầy đủ... Từ thực trạng trên, phần tiếp theo tác giả trình
bày định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp ở tỉnh Hải Dương.
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Hải Dương

3.1.1. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cán
bộ công chức ngành Thi hành án

19


Thứ nhất, việc kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan Thi hành
án cần thực hiện theo hướng nâng cao vai trò của cơ quan Thi hành
án, bảo đảm tương xứng với vị trí của các cơ quan tiến hành tố tụng ở
địa phương như: Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an. Trước hết cần tăng
cường thêm biên chế cho các Cơ quan Thi hành án dân sự nhất là lực
lượng Chấp hành viên so với yêu cầu công việc hiện nay thì số lượng
này vẫn còn chưa đáp ứng được với yêu cầu mới.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt công tác tổ chức cán bộ theo
phương châm “Công tác cán bộ đi trước một bước” tập trung chấn
chỉnh, củng cố, kiện toàn đối với các đơn vị còn nhiều yếu kém, tăng
cường tham mưu giúp lãnh đạo thực hiện tốt công tác đánh giá, quy
hoạch, luân chuyển, đào đạo, bồi dưỡng và bổ nhiệm cán bộ lãnh
đạo, nhanh chóng thực hiện việc chuyển ngạch Chấp hành viên, thi
nâng ngạch, thi tuyển Chấp hành viên.
Thứ ba, Tổng cục Thi hành án dân sự nên quan tâm hơn nữa
đến việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ thi hành án,
nhất là bồi dưỡng về nghiệp vụ cho đội ngũ thư ký thi hành án và
những người làm công tác quản lý và chỉ đạo nghiệp vụ từ Tổng cục
có những kiến thức cơ bản và chuyên sâu trong lĩnh vực thi hành án,
từ đó đã tạo nên hiệu quả cao trong việc nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ thư ký thi hành án là đội ngũ giúp việc
đắc lực cho chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.
Thứ tư, cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật thi
hành án theo hướng tăng thêm thẩm quyền cho Cơ quan thi hành án

và chấp hành viên.
3.1.2. Bảo đảm công tác chỉ đạo điều hành thi hành án dân sự
Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Thi hành án dân
sự chỉ đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh tăng cường công tác chỉ đạo

20


kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan chuyên môn, cơ quan
quản lý thi hành án, theo quy định của pháp luật, kịp thời khắc phục
những thiếu sót và sai phạm trong công tác thi hành án dân sự, chấn
chỉnh và xử lý nghiêm các sai phạm về nghiệp vụ, về công tác quản
lý, các tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ
quan liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn tổ chức
Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh, xây dựng quy chế tổ chức hoạt
động và kế hoạch công tác; chỉ đạo, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các
huyện, thành phố, thị xã kiện toàn Ban Chỉ đạo, xây dựng qui chế tổ
chức hoạt động theo qui định.
3.1.3. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giải quyết thi hành án
dân sự của các cơ quan hữu quan
Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh, huyện, thành phố, thị xã
khẩn trương kiện toàn tổ chức, xây dựng quy chế tổ chức, hoạt động
và kế hoạch công tác của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự, giúp Uỷ
ban nhân dân cùng cấp thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn theo qui
định của Luật thi hành án dân sự.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ
quan liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh kiện toàn tổ chức
Ban chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh, xây dựng quy chế tổ chức hoạt
động và kế hoạch công tác; chỉ đạo, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các

huyện, thành phố, thị xã kiện toàn Ban chỉ đạo, xây dựng quy chế tổ
chức hoạt động theo quy định.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự đối
với doanh nghiệp

21


3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật thi hành án dân sự
đối với doanh nghiệp
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án được thể hiện ở
việc sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới nhằm đảm bảo hiệu lực,
hiệu quả công tác thi hành án, theo hướng đó cần nghiên cứu quy
định trong một số trường hợp liên quan đến xác minh tài sản của
doanh nghiệp.
Hiện nay, pháp luật về thi hành án dân sự còn tản mạn, hiệu lực
pháp lý chưa cao, việc tổ chức, quản lý thi hành án thuộc các lĩnh vực khác
nhau lại do nhiều văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh, không đồng bộ
dẫn đến việc không thống nhất trong sự phối hợp hoạt động giữa các cơ
quan quản lý và tổ chức thi hành án, không phát huy hiệu quả thi hành án.
Hoạt động thi hành án do nhiều cơ quan thực hiện đã tạo ra sự thiếu thống
nhất trong quản lý, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa cơ quan thi
hành án và các cơ quan hữu quan, hạn chế hiệu quả của mỗi lĩnh vực thi
hành án. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự chính là tạo
hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, Quốc
Hội đã nhanh chóng sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự trên cơ sở hệ
thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi
mới tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự trong tình hình hiện nay.
3.2.2. Xã hội hóa một phần công tác Thi hành án dân sự
Về xã hội hóa một số hoạt động trong thi hành án dân sự:

Quan điểm chỉ đạo, đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng các
công việc liên quan đến thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại
tại 13 địa phương theo kế hoạch hoạt động của Ban chỉ đạo thực
hiện thí điểm chế định này, đồng thời phát huy tốt hơn nữa mối
quan hệ phối hợp nhất là các cơ quan Tư pháp, Tòa án, Kiểm sát và
Thi hành án dân sự trong hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, chuyển

22


giao tài liệu, giấy tờ tống đạt, tổ chức thi hành án và các hoạt động
nghiệp vụ khác của Thừa phát lại [21, tr.322].
Ở nước ta hiện nay đang thí điểm mô hình thừa phát lại.
Nhưng chưa thể xác định trong một vài năm tới là có thể áp dụng mô
hình xã hội hóa tương đối triệt để đối với hoạt động thi hành án dân
sự trên toàn quốc mà cần phải có thời gian hơn nữa. Vì trình độ dân
trí còn thấp. Hơn nữa với một lưc lượng hùng hậu chính quy, cùng
với sự hỗ trợ từ phía cảnh sát, chính quyền các cấp mà việc tổ chức
thi hành án còn khó khăn thì khó có thể nói rằng các tổ chức tư nhân
có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dịch vụ thi hành án.
Kết luận chương 3
Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp phải được đặt trong
những yêu cầu, đòi hỏi chung của xã hội, đồng thời việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam , của dân, do dân, vì
dân; sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và điều kiện tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập của nước ta
cũng đặt ra yêu cầu khách quan phải sớm hoàn thiện pháp luật thi
hành án dân sự. Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự không chỉ
dừng lại việc xây dựng mô hình thi hành án phù hợp, hay việc ban
hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành

án dân sự , mà còn bao hàm cả việc bổ sung, sửa đổi các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan nhằm đảm bảo tăng cường cơ chế kiểm
tra, giám sát đối với hoạt động thi hành án dân sự, đồng thời huy
động được sự tham gia của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong
việc chỉ đạo, phối hợp, giám sát, hỗ trợ hoạt động thi hành án, từng
bước xã hội hoá hoạt động thi hành án và nhằm giải quyết tình trạng
án tồn đọng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ

23


×