Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật kinh tế về pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.47 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

LÝ XUÂN THIỆN

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP – PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
QUẬN 10

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

LÝ XUÂN THIỆN

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP – PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
QUẬN 10



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật kinh doanh – Mã số 52380101

Người hướng dẫn khoa học: GVC - ThS. Nguyễn
Triều Hoa


TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành khoá luận này, tôi chân thành gửi lời cám ơn đến:
Th.S Nguyễn Triều Hoa và ThS Nguyễn Khánh Phương đã hướng dẫn và
chỉ bảo tận tình để giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Chấp hành viên Nguyễn Thị Thủy đã giúp tôi trong quá trình tìm hiểu quy
trình nghiệp vụ và hoạt động thực thi pháp luật thi hành án dân sự tại đơn vị.
Ban lãnh đạo đơn vị đã tạo điều kiện cũng như các anh chị em đồng nghiệp
đã hết lòng hỗ trợ giúp tôi về mặt thông tin, tư liệu cho hoạt động nghiên cứu.

Xin chân thành cảm ơn!

i


LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng

được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ
nguồn gốc”

Tác giả khóa luận
(ký và ghi rõ họ tên người cam đoan)

LÝ XUÂN THIỆN

ii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Sinh viên thực tập: LÝ XUÂN THIỆN MSSV: 33131020265
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10
Thời gian thực tập: Từ 03/08/2015 đến 18/10/2015

Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
Đánh giá cụ thể
(1) Có tinh thần, thái độ, chấp hành tốt kỷ luật đơn vị; đảm bảo thời gian
và nội dung thực tập của sinh viên trong thời gian thực tập
(tối đa được 5 điểm)……………………………….……………..….………
(2) Viết báo cáo giới thiệu về đơn vị thực tập (đầy đủ và chính xác)
(tối đa được 2 điểm)..………………………………………………...……...
(3) Ghi chép nhật ký thực tập (đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, và chính xác).
(tối đa được 3 điểm)………………………………………………………..…..…..
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)………………………….
Điểm chữ:………………………………..…………………
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người nhận xét đánh giá

Chi cục trưởng NGUYỄN VĂN HÒA

iii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên thực tập: LÝ XUÂN THIỆN MSSV: 33131020265

Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10
Đề tài nghiên cứu:
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP – PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN
10
Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Đánh giá và chấm điểm quá trình thực tập
(1) Có tinh thần thái độ phù hợp, chấp hành kỷ luật tốt (tối đa 3 điểm)..…….
(2) Thực hiện tốt yêu cầu của GVHD, nộp KL đúng hạn (tối đa 7 điểm)……..
Tổng cộng điểm thực tập cộng (1) + (2)……………….
Điểm chữ:…………………………………………………
Kết luận của người hướng dẫn thực tập & viết khóa luận
(Giảng viên hướng dẫn cần ghi rõ việc cho phép hay không cho phép
đưa khóa luận ra khoa chấm điểm)
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người hướng dẫn


GVC – ThS NGUYỄN TRIỀU HOA
iv


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA NGƯỜI CHẤM THỨ NHẤT
Sinh viên thực tập: LÝ XUÂN THIỆN MSSV: 33131020265
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10
Đề tài nghiên cứu:
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP – PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN
10
Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Đánh giá cụ thể
(1) Điểm quá trình (tối đa 1 điểm)……………………………………….

(2) Hình thức khóa luận (tối đa 1 điểm)………………………………….
(3) Nội dung khóa luận

- Tính phù hợp, thực tiễn và mới của đề tài (tối đa 1 điểm)……..…..
- Phần mở đầu (tối đa 0,5 điểm)…………………………………………
- Phần 1(tối đa 1,5 điểm)………………………………………..………..
- Phần 2 (tối đa 3 điểm)…………………………………………….…….
- Phần 3 (tối đa 1 điểm)……………………………….…………...…….
- Phần kết luận (tối đa 1 điểm)……………………………………..……
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)……………………….
Điểm chữ:……………………………………………….
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người chấm thứ nhất

v


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA NGƯỜI CHẤM THỨ NHẤT
Sinh viên thực tập: LÝ XUÂN THIỆN MSSV: 331110…
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16


Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 10
Đề tài nghiên cứu:
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP – PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ QUẬN
10
Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Đánh giá cụ thể
(1) Điểm quá trình (tối đa 1 điểm)……………………………………….
(2) Hình thức khóa luận (tối đa 1 điểm)………………………………….
(3) Nội dung khóa luận

- Tính phù hợp, thực tiễn và mới của đề tài (tối đa 1 điểm)……..…..
- Phần mở đầu (tối đa 0,5 điểm)…………………………………………
- Phần 1(tối đa 1,5 điểm)………………………………………..………..
- Phần 2 (tối đa 3 điểm)…………………………………………….…….
- Phần 3 (tối đa 1 điểm)……………………………….…………...…….
- Phần kết luận (tối đa 1 điểm)……………………………………..……
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)……………………..….
Điểm chữ:………………..……………………………….
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người chấm thứ hai

vi



MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu:......................................................................................................2
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu.............................................................................2
4. Kết cấu đề tài..................................................................................................................3



BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
BA:

Bản án

CHV:

Chấp hành viên

KDTM:

Kinh doanh thương mại

NĐTHA:

Người được thi hành án

NPTHA:

Người phải thi hành án


QĐ:

Quyết định

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

THADS:

Thi hành án dân sự

vii


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là một hoạt động quan trọng nhằm hiện
thực hóa kết quả của quá trình tố tụng và giải quyết tranh chấp trong thực
tiễn. Việc bảo đảm thi hành các bản án, quyết định (BA, QĐ) của Tòa án một
cách có hiệu quả đã được ghi nhận tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013: Bản
án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành.
Năm 2008, Luật thi hành án dân sự được ban hành là mốc quan trọng
đánh dấu sự hoàn thiện một bước của hệ thống pháp luật về thi hành án dân
sự. Quá trình sáu năm thi hành Luật thi hành án dân sự đã đạt được những kết
quả nhất định, góp phần quan trọng vào bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, tổ chức và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế đất
nước. Bên cạnh những mặt tích cực, Luật thi hành án dân sự cũng bộc lộ
những thiếu sót, bất cập như một số quy định chưa cụ thể, chưa phù hợp với
thực tiễn, còn có những quy định chưa thống nhất giữa Luật thi hành án dân
sự với các đạo luật khác, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nhưng chưa
được pháp luật thi hành án dân sự điều chỉnh. Ngoài ra, có rất nhiều thủ tục về
THADS có những đặc thù riêng như thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp;
kê biên, bán đấu giá tài sản tài sản là cổ phiếu, vốn góp, quyền sở hữu trí tuệ...
nhưng pháp luật thi hành án dân sự hiện hành chỉ quy định chung cho một
loại thủ tục thi hành án. Điều đó đã gây khó khăn cho các cơ quan thi hành án
dân sự.
Thực tiễn THADS trong cả nước cho thấy, mặc dù các cơ quan thi hành
án dân sự đã tích cực tổ chức thi hành Bản án, Quyết định thuộc thẩm quyền
thi hành, song kết quả THADS chưa đáp ứng được kỳ vọng của xã hội. Số
việc và giá trị phải thi hành còn tồn đọng chiếm tỷ lệ cao. Trong đó, số vụ
việc THADS đối với doanh nghiệp ngày càng tăng và số tiền phải thi hành
1


lớn, nhưng rất khó thi hành. Đây là vấn đề bức xúc đang được xã hội quan
tâm. Tình trạng này đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tính
nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
và nhà nước chưa được bảo đảm. Do vậy, việc nghiên cứu để tìm ra nguyên
nhân của những khó khăn, vướng mắc để tìm ra giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả công tác THADS và không ngừng hoàn thiện pháp luật THADS nói
chung và THADS đối với doanh nghiệp nói riêng là việc làm cần thiết và có ý
nghĩa thực tiễn. Trong quá trình thực tập tại đơn vị, tác giả nhận thấy các hồ
sơ thi hành án mà đương sự là doanh nghiệp là các hồ sơ khó thi hành và có
những vấn đề pháp lý cần được nghiên cứu. Tác giả luôn suy nghĩ làm thế nào
để vận dụng các quy định của pháp luật để giải quyết những vấn đề trên. Đó

là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp –
Pháp luật và thực tiễn áp dụng tại Cơ quan thi hành án dân sự Quận 10”
để nghiên cứu trong phạm vi khóa luận cử nhân luật chuyên ngành Luật kinh
doanh của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích những vấn đề pháp lý và thực tiễn trong việc thi
hành án dân sự đối với loại hình Công ty cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH), tác giả muốn tìm hiểu đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự
đối với hai loại hình doanh nghiệp trên. Qua đó, tác giả muốn tìm ra nguyên
nhân hạn chế trong hoạt động thi hành án dân sự và đề xuất phương hướng để
có thể nâng cao được hiệu quả thi hành án dân sự đối với hai loại hình doanh
nghiệp Công ty cổ phần và Công ty TNHH.

3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp duy
vật biện chứng kết hợp với các phương pháp logic, phân tích, tổng hợp, thống
kế, so sánh để giải quyết những vấn đề đặt ra của đề tài.
Tuy tên đề tài là “Thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp - Pháp
luật và thực tiễn áp dụng tại Cơ quan thi hành án dân sự Quận 10”
nhưng doanh nghiệp nói chung thì có rất nhiều loại hình doanh nghiệp được
2


quy định trong Luật doanh nghiệp. Trong khuôn khổ khóa luận cử nhân luật
kinh doanh, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về THADS đối với Công ty
TNHH và Công ty cổ phần dựa trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành và hoạt động THADS tại Quận 10, trọng tâm từ khi Luật THADS 2008
được ban hành và Luật THADS sửa đổi, bổ sung 2014 có hiệu lực.
Đối với số liệu thống kê, khóa luận giới hạn số liệu thống kê từ giai

đoạn từ năm 2013 đến 30/6/2015, là thời điểm Luật THADS đã đi vào thực
tiễn và trước thời điểm Luật THADS sửa đổi, bổ sung 2014 có hiệu lực.

4. Kết cấu đề tài
Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài; mục tiêu, phạm vi, kết cấu đề tài.
Chương 1: Cơ sở lý luận - pháp lý về thi hành án dân sự đối với Công ty
cổ phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn
Chương 2: Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự đối với Công ty cổ
phần và Công ty trách nhiệm hữu hạn tại Cơ quan Thi hành án Dân sự Quận
10.
Chương 3:Một số nhận xét và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
án dân sự đối với doanh nghiệp.
Phần kết luận:

3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
ĐỐI VỚI CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN
1.1

Nhận thức chung về hoạt động thi hành án dân sự:

1.1.1 Khái niệm và bản chất của hoạt động thi hành án dân sự:
1.1.1

Khái niệm thi hành án dân sự:
Thi hành án dân sự là hoạt động làm cho các Bản án, Quyết định về

dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực
nhưng được thi hành ngay trên thực tế.
Xét trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp
thì quyền tư pháp thực hiện xoay quanh trục của hoạt động xét xử.
Toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động hỗ trợ tư pháp
đều nhằm phục vụ công tác xét xử để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, trật tự công cộng của nhà nước.
Song các quá trình trên mới chỉ là những giai đoạn đầu của quá trình
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Kết thúc giai đoạn
xét xử, Tòa án đưa ra những phán quyết về nội dung vụ án. Bản án
của Tòa án thể hiện tập trung quyền lực nhà nước trong việc quản lý
xã hội nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
nước và các chủ thể khác, bảo đảm trật tự, kỷ cương. Khi những
phán quyết đó của Tòa án được thực thi trên thực tế thì quyền tư
pháp của nhà nước mới được thực hiện trọn vẹn, công lý mới trở
thành hiện thực, trật tự pháp luật mới được khôi phục 1.
Như thế, có thể thấy rằng vấn đề bảo đảm hiệu lực bản án, quyết
định của Tòa án là yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động nhà
nước. Từ năm 1945 đến nay, ở nước ta hoạt động THADS luôn

1

Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, tr.10.

4


được coi là hoạt động của nhà nước. Trong thực tế, hoạt động
THADS ở nước ta có nhiều biến động qua các thời kì lịch sử, nhất là

từ khi hoạt động THADS được chuyển giao từ Tòa án nhân dân các
cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Về phương diện lý luận đã
và đang có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề khái
niệm THADS, tựu hình chung thành ba luồng ý kiến chính.
Ý kiến thứ nhất cho rằng THADS là một dạng của hoạt động
hành chính, bởi THADS là hoạt động mang tính điều hành, chấp
hành. Đây là đặc trưng của hoạt động hành chính. Hơn nữa, hiện tại
THADS nước ta không do Tòa án – cơ quan tư pháp thực hiện 2.
Ý kiến thứ hai cho rằng THADS là một dạng của hoạt động hành
chính – tư pháp vì THADS là một dạng hoạt động chấp hành, điều
hành quyết định của cơ quan tư pháp – Tòa án 2.
Ý kiến thứ ba lại cho rằng THADS là một dạng của hoạt động tư
pháp vì thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, mang tính
tài sản, độc lập và do cơ quan tư pháp có thẩm quyền tổ chức thực
hiện 2 .
Mỗi ý kiến trên đều dựa trên những cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và
thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, tác giả chưa đồng ý với quan điểm
cho rằng THADS chỉ là một dạng của hoạt động tư pháp, bởi vì:
- Hoạt động THADS khác với hoạt động điều tra, công tố ở chỗ
hoạt động này không trực tiếp giúp cơ quan xét xử đưa ra các
phán quyết công bằng mà chỉ là thực thi những phán quyết đã có.
- Chưa có thể khẳng định cơ quan THADS và Chấp hành viên
(CHV) là cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng,
nhất là trong hoạt động THADS.
- Cơ quan THADS không phải là cơ quan duy nhất hiện nay có thể
tổ chức thi hành án dân sự mà còn có các Văn phòng Thừa phát
lại (xã hội hóa ngành thi hành án) có thể tổ chức thi hành các
2

Chủ biên Chu Thị Trinh (2011), Giáo trình thi hành án dân sự, Đại học Vinh, tr.6.


5


BA, QĐ của Tòa án mà Thừa phát lại thì không phải là một cơ
quan tư pháp.
Vì thế, tác giả cho rằng không nên xem hoạt động THADS là một
dạng hoạt động tố tụng, hành chính hay tư pháp đơn thuần. Tác giả
cùng quan điểm cho rằng hoạt động THADS là một dạng hoạt động
hành chính – tư pháp mang tính quyền lực nhà nước, vừa mang tính
chất hoạt động hành chính, vừa có yếu tố của hoạt động tư pháp
nhằm đưa BA, QĐ về dân sự của Tòa án ra thi hành trên thực tế dựa
trên những phân tích sau.
1.1.2

Thi hành án dân sự với những đặc điểm của hoạt động hành chính:
Thi hành án là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của
Toà án. Các BA, QĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để
tiến hành các hoạt động thi hành án. Do đó, không có kết quả của
hoạt động xét xử thì không có hoạt động thi hành án. Là một dạng
hoạt động hành chính nhà nước, thi hành án thể hiện tính chấp hành,
quản lý rất rõ bởi toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động,
biện pháp, cách thức khác nhau nhằm thực hiện những nội dung đã
được thể hiện trong các BA, QĐ của Tòa án và theo các quy định cụ
thể của pháp luật 3.
Quá trình thi hành án, cơ quan THADS tác động tới NPTHA để họ
tự giác thi hành hoặc cơ quan THADS áp dụng các biện pháp buộc
họ phải thực hiện nghĩa vụ được xác định trong BA, QĐ của Tòa án
hoặc các Quyết định khác theo quy định pháp luật. Qua đó, giáo dục
mọi người dân về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích cá

nhân và cộng đồng, kỉ cương của nhà nước. Do đó, yêu cầu của hoạt
động thi hành án là phải có tính kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm
tra… Đó là tính chất của hoạt động quản lý. Đối với THADS,
phương pháp giáo dục, thuyết phục là cần thiết nhưng phương pháp
mệnh lệnh, bắt buộc phải thực hiện lại mang tính đặc thù.

1.1.3
3

Thi hành án dân sự với những đặc điểm của hoạt động tư pháp:

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình luật THADS, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.10.

6


Thi hành án chủ yếu do cơ quan tư pháp tiến hành mà cụ thể ở đây
là Cục THADS, Chi cục THADS. Có nhiều cơ quan, tổ chức tham
gia vào quá trình thi hành án, nhất là trong việc tổ chức thi hành án
các BA, QĐ phức tạp. Tuy nhiên, các cơ quan tư pháp lại đóng vai
trò chính trong hoạt động THADS.
Cơ sở để tiến hành các hoạt động thi hành án là các quy định của
pháp luật, các BA, QĐ của Tòa án và các quyết định khác theo quy
định của pháp luật.
Trong quá trình tố tụng, giai đoạn thi hành án có thể bắt đầu ngay
khi việc xét xử một vụ án chưa kết thúc như việc thi hành các Quyết
định khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Ngay cả khi việc xét xử chấm
dứt thì mối quan hệ giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS vẫn tồn
tại, như việc cơ quan THADS yêu cầu Tòa án giải thích những điểm
chưa rõ hoặc kiến nghị xem xét lại khi phát hiện có sai sót trong

BA, QĐ hoặc án tuyên không khả thi, khó có thể thi hành được.
Ngoài ra, trong quá trình đang thi hành một BA, QĐ đang có hiệu
lực pháp luật, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao có thể yêu cầu cơ quan THADS hoãn
việc thi hành án, tạm đình chỉ việc thi hành án để xem xét lại BA,
QĐ theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Hoạt động THADS
cũng được kiểm sát bởi Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Viện kiểm
sát có thể kháng nghị đối với các quyết định THADS.
1.1.2 Cơ sở của việc thi hành án dân sự:
Căn cứ phát sinh quan hệ hoạt động THADS là nội dung BA, QĐ của
Tòa án và của các cơ quan có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật. Đây
chính là cơ sở pháp lý trực tiếp để làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt
quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan.
Theo Luật Tố tụng Dân sự sửa đổi, bổ sung 2011 thì điều 375 Bộ luật
Tố tụng Dân sự quy định về những bản án, quyết định của Tòa án được
thi hành bao gồm các BA, QĐ đã có hiệu lực pháp luật hoặc những BA,
7


QĐ của Tòa án cấp sơ thẩm nhưng được thi hành ngay dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị như BA, QĐ về cấp dưỡng, nhận người lao
động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã
hội… hay các QĐ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Tuy nhiên, đây chỉ là căn cứ pháp lý chung làm phát sinh quan hệ hoạt
động THADS.
Đối với các trường hợp các bên tự thỏa thuận thực hiện thì căn cứ pháp
lý chính là nội dung BA, QĐ dân sự. Trong trường hợp này, quan hệ
hoạt động THADS giữa NĐTHA, NPTHA và những người có quyền
lợi và nghĩa vụ liên quan đã phát sinh ngay từ thời điểm BA, QĐ dân
sự có hiệu lực pháp luật và hoạt động THADS được xem là chấm dứt

khi các bên đã thực hiện xong quyền và nghĩa vụ theo nội dung BA,
QĐ dân sự mà không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Đối với các trường hợp cần phải có sự tổ chức thi hành của cơ quan
THADS thì có các căn cứ sau làm phát sinh quan hệ hoạt động
THADS:
- Đơn yêu cầu thi hành án là căn cứ pháp lý phát sinh việc thi hành
án. Một BA, QĐ có thể có nhiều NĐTHA và mỗi người lại có
quan điểm riêng và có thời điểm riêng để yêu cầu thi hành án, có
trường hợp NĐTHA không yêu cầu thi hành án thì không nhất
thiết cơ quan THADS phải tổ chức thi hành. Đơn yêu cầu thi
hành án chính là căn cứ ngoài BA, QĐ của Tòa án để Cơ quan
THADS ra quyết định thi hành án.
- Quyết định thi hành án là căn pháp lý phát sinh quan hệ giữa
NĐTHA, NPTHA và người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan,
gọi chung ở đây là đương sự với cơ quan THADS. Mỗi quyết
định thi hành án chính là căn cứ để xác định trách nhiệm pháp lý
của Cơ quan THADS với các đương sự.
Trong các tranh chấp về kinh doanh thương mại thì đương sự chủ yếu
là doanh nghiệp, nghĩa là doanh nghiệp có thể là người được thi hành
8


án, người phải thi hành án hoặc có thể là người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan. Các quyết định THADS bao gồm các quyết định về hoạt
động THADS như quyết định kê biên xử lý tài sản, quyết định phong
tỏa tài khoản…là căn cứ pháp lý xác định trách nhiệm pháp lý của Cơ
quan THADS, của cá nhân mỗi CHV đối với các đương sự này.

1.2


Thi hành án dân sự đối với Công ty cổ phần và Công ty
trách nhiệm hữu hạn:

1.2.1 Một số đặc điểm pháp lý của Công ty cổ phần và Công ty trách
nhiệm hữu hạn:
1.2.1.1

Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có một số đặc điểm sau:
- Về mặt tư cách pháp nhân, Công ty cổ phần là một loại hình
công ty có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về các khoản nợ
của công ty. Thông qua đại diện trước pháp luật của mình, Công
ty cổ phần có thể là nguyên đơn hay bị đơn dân sự trong các
quan hệ pháp luật.
- Về quyền sở hữu tài sản, Công ty cổ phần có quyền sở hữu tài
sản riêng, các cổ đông chỉ sở hữu cổ phần của công ty và không
có bất kì quyền sở hữu nào đối với tài sản công ty.
- Về chế độ chịu trách nhiệm, chế độ chịu trách nhiệm của Công ty
cổ phần là trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các
cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.

1.2.1.2

Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Công ty TNHH là doanh nghiệp có một số đặc điểm sau:

9



- Công ty TNHH là loại hình công ty có tư cách pháp nhân, trong
đó chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng.
- Thành viên công ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH có quyền sở hữu tài sản riêng, công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác bằng tài sản
của công ty.

1.2.2 Đặc thù của thi hành án dân sự đối với Công ty cổ phần và Công ty
trách nhiệm hữu hạn:
Khác với hoạt động THADS đối với các đối tượng khác, thi hành án
đối với Công ty cổ phần và Công ty TNHH có những đặc thù sau:
1.2.2.1

Tư cách chủ thể của đương sự:
Theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì những vụ việc như sau
được coi là vụ án kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án, bao gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt động
kinh doanh thương mại giữa các cá nhân, tổ chức như mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ… hoặc tranh chấp giữa
chính công ty với các thành viên của công ty trong việc thành lập,
giải thể, sát nhập, hợp nhất, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty.
Căn cứ theo quy định trên, có thể thấy chủ thể đương sự trong án
kinh doanh thương mại (KDTM) có thể là doanh nghiệp, nhưng
cũng có thể không phải doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tiễn thì
chủ thể trong những tranh chấp về KDTM được giải quyết tại Tòa
án thì chủ yếu là doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc khi thi hành án

KDTM thì CHV cũng phải làm việc với chủ thể chủ yếu là doanh
nghiệp 4, mà cụ thể ở đây là Công ty cổ phần và Công ty TNHH.

4

Lê Thu Hà (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự - Phần riêng, NXB Tư pháp, tr.616

10


Như vậy, so với chủ thể là cá nhân, khi thực hiện hoạt động thi hành
án đối với chủ thể là doanh nghiệp đã có khác biệt, CHV cần phải
xác định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người
đại diện được ủy quyền hợp pháp để có thể tiến hành các thủ tục thi
hành án. So với chủ thể là các loại hình doanh nghiệp khác thì Công
ty cổ phần và Công ty TNHH cũng không có nhiều khác biệt về tư
cách đương sự ngoại trừ khác biệt với loại hình Công ty hợp danh,
là loại hình Công ty có nhiều cá nhân đại diện về mặt pháp luật.
1.2.2.2

Tính trách nhiệm hữu hạn và quyền sở hữu tài sản:
Ngoại trừ Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh thì hầu hết
các loại hình doanh nghiệp đều có tính chịu TNHH. Nếu doanh
nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của chủ
sở hữu thì Công ty cổ phần và Công ty TNHH chỉ chịu trách nhiệm
bằng tài sản của chính công ty đối với các khoản nợ của doanh
nghiệp. Theo luật Doanh nghiệp 2005, các thành viên góp vốn vào
Công ty TNHH và cổ đông của Công ty cổ phần phải chịu trách
nhiệm đối với các khoản nợ của công ty tương ứng với tỷ lệ vốn
góp. Như vậy, trong trường hợp các thành viên của doanh nghiệp đã

góp đủ số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp thì đương nhiên chỉ
chịu trách nhiệm rủi ro của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
góp. Trong nhiều trường hợp khi xác minh tài sản của doanh nghiệp,
doanh nghiệp không có bất kì tài sản hoặc nguồn thu nhập nào để
đảm bảo việc thi hành án thì bắt buộc CHV phải tiến hành xử lý
phần vốn góp của các thành viên, cổ đông trong doanh nghiệp tương
ứng với tỉ lệ vốn góp.
Công ty cổ phần và Công ty TNHH là pháp nhân có quyền sở hữu
tài sản, tuy nhiên có sự khác biệt cần phân biệt giữa tài sản thuộc sở
hữu doanh nghiệp và tài sản thuộc sở hữu của các thành viên góp
vốn. Trong thực tế, có những thành viên trong công ty đem tài sản
sở hữu riêng của mình ra phục vụ cho hoạt động doanh nghiệp như
trụ sở, nhà đất hoặc thiết bị vận chuyển như xe ô tô...CHV cần phải
11


xác minh cụ thể đó có phải là tài sản góp vốn hay không. Ngoài ra,
hai loại hình doanh nghiệp này còn sở hữu các loại tài sản tương đối
đặc biệt như dây chuyền công nghệ, thương hiệu kinh doanh, nhãn
hiệu hàng hóa...mà CHV cần phải lưu ý các quy định của pháp luật
khi xử lý những loại tài sản đó.
1.2.2.3

Giá trị tài sản phải thi hành lớn:
Các Bản án về KDTM thường có giá trị tài sản thi hành lớn, nhiều
trường hợp giá trị vụ việc thi hành có ý nghĩa quyết định đến sự
sống còn, tồn tại hoặc phá sản của một doanh nghiệp, do đó để lại
hậu quả xã hội rất lớn.

1.2.2.4


Thủ tục thi hành án dân sự:
Ngoài việc tuân thủ các quy định cho việc thi hành một BA, QĐ nói
chung thì việc tổ chức thi hành các BA, QĐ đối với doanh nghiệp
mà cụ thể ở đây là Công ty cổ phần và Công ty TNHH còn phải tuân
thủ theo các quy định riêng. Nhìn chung, trình tự thi hành án theo
quy trình sau:
Bước 1: Sau khi BA có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án
(NĐTHA) phải tự thực hiện (hoặc thông qua Thừa phát lại) xác
minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án (NPTHA),
khi chứng minh được NPTHA có tài sản để thi hành án thì nộp đơn
yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền tổ chức thi hành án.
Nếu sau khi đã thực hiện việc xác minh mà không có kết quả thì có
thể làm đơn yêu cầu cơ quan THADS thực hiện xác minh. Nếu
NPTHA tự nguyện yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án thì
có trách nhiệm chứng minh điều kiện thi hành án của mình.
Bước 2: Cơ quan THADS thụ lý, ra quyết định thi hành án và phân
công CHV tổ chức thi hành. Quyết định thi hành án ghi rõ người
phải thi hành án tự nguyện thi hành trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày nhận được QĐ hoặc được thông báo hợp lệ về QĐ thi hành án.

12


Trong thời hạn 03 ngày ngay khi được phân công, CHV phải thực
hiện thủ tục tống đạt QĐ thi hành án cho NĐTHA và NPTHA.
Bước 3: Dựa trên các chứng cứ chứng minh điều kiện thi hành án
do các đương sự cung cấp, CHV phải tiến hành kiểm tra hoặc xác
minh điều kiện thi hành án của NPTHA. Việc xác minh điều kiện thi
hành án của doanh nghiệp được thực hiện tại các nơi sau:

- Nơi cấp phép cho doanh nghiệp hoạt động, cụ thể với Công ty cổ
phần và Công ty TNHH ở đây là Sở Kế hoạch và Đầu tư để xác
định ngành nghề hoạt động, người chịu trách nhiệm trước pháp
luật của doanh nghiệp, các thay đổi về đăng ký kinh doanh,
nguồn vốn và số lượng vốn điều lệ của doanh nghiệp.
- Cơ quan thuế mà doanh nghiệp nộp thuế để xác định được doanh
thu của doanh nghiệp, tình hình hoàn thuế giá trị gia tăng, tài
khoản kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xác minh tại ngân hàng để xác định khoản tiền có trong ngân
hàng của doanh nghiệp.
- Xác minh tại chính quyền địa phương nơi đặt trụ sở doanh
nghiệp để làm rõ doanh nghiệp còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng
ký hay không.
- Xác minh tài sản doanh nghiệp như trụ sở hoạt động có phải tài
sản doanh nghiệp hay không, tài sản cố định, tài sản lưu động,
hàng hóa…, tại chính trụ sở doanh nghiệp hoặc tại chính cơ quan
có thẩm quyền…
Trước ngày 01/7/2015, nếu doanh nghiệp không có tài sản để thi
hành án thì CHV sẽ thông báo cho NĐTHA biết và tiến hành thủ tục
trả đơn yêu cầu thi hành án. Tuy nhiên, sau khi Luật THADS sửa
đổi, bổ sung 2014 có hiệu lực thì Cơ quan THADS không được trả
đơn yêu cầu thi hành án mà phải đưa vào việc chưa có điều kiện thi
hành án. Khi NPTHA có điều kiện thi hành thì cơ quan THADS
phải tổ chức thi hành.
13


Bước 4: CHV xử lý các tài sản bảo đảm thi hành án được ghi nhận
trong BA hoặc các tài sản tìm được trong quá trình thi hành theo
cung cấp của các đương sự hoặc do CHV xác minh, CHV được

quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế để thi hành BA
như:
- Phong tỏa, khấu trừ tiền trong tài khoản.
- Kê biên, xử lý tài sản kể cả tài sản do người thứ ba giữ.
- Khai thác tài sản.
- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
- Buộc thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định.
Bước 5: Thanh toán tiền bán tài sản và các thủ tục kết thúc hồ sơ thi
hành án.

1.3

Cơ sở pháp lý của hoạt động thi hành án dân sự:

1.3.1 Tổng quan về pháp luật thi hành án dân sự:
Hoạt động thi hành án dân sự là một hoạt động tư pháp quan trọng, là
hoạt động đưa pháp luật đi vào thực tiễn nên có rất nhiều quy định
trong các bộ luật, luật và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
tạo tiền đề cho nó như trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật tố tụng dân sự...
Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 ra
đời tạo cơ sở pháp lý cho việc Bộ Tư pháp (mới được thành lập sau hơn
20 năm giải thể) đảm nhiệm công tác quản lý Toà án nhân dân về mặt
tổ chức, trong đó có việc quản lý về mặt tổ chức đối với nhân sự làm
công tác THADS. Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THADS đầu tiên ở nước
ta được ban hành đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường và hoàn thiện
tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự. Từ đó, chỉ có Chấp hành viên là
người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định
của Toà án. Sau một thời gian thực hiện, công tác THADS có những
14



bước phát triển hơn cả về mặt tổ chức và hoạt động, tuy nhiên do Toà
án vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, nên
chưa thực sự đảm bảo khách quan, công bằng trong hoạt động THADS.
Tại kỳ họp thứ nhất ngày 06/12/1992, Quốc hội khoá IX thông qua
Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án từ Toà án nhân dân
các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ. Ngày 02/6/1993, Thủ tướng
Chính phủ ra Chỉ thị số 266/TTg về triển khai việc bàn giao và tăng
cường công tác THADS. Trên thực tế, đến hết tháng 6/1993 thì việc
thành lập các cơ quan thi hành án và bàn giao công tác THADS từ Toà
án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ đã được thực hiện
xong. Về mặt thể chế, nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành THADS
được ban hành với những quy định chặt chẽ, rõ ràng và phù hợp hơn
với thực tiễn thi hành án, trong đó phải kể đến Pháp lệnh THADS ngày
21/4/1993, Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 “về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ
quan thi hành án dân sự và chấp hành viên”, Nghị định số 69/CP ngày
18/10/1993 “quy định thủ tục thi hành án dân sự”, Thông tư liên ngành
số 981/TTLN ngày 21/9/1993 của Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao “hướng dẫn thực hiện một số quy
định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự”… là cơ sở pháp lý quan trọng
để giải quyết việc thi hành án dân sự. Đứng trước yêu cầu đổi với và
cải cách tư pháp, Bộ Tư pháp đã đẩy nhanh tiến độ soạn thảo để trình
các cơ quan có thẩm quyền xem xét, ban hành Pháp lệnh Thi hành án
dân sự thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993. Ngày
14/1/2004, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành
án dân sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004.
Pháp lệnh THADS năm 2004 sau gần năm năm thực hiện đã thu được
những kết quả nhất định tuy nhiên cũng bộc lộ nhiều tồn tại hạn chế,

nhất là các quy định về trình tự, thủ tục, trách nhiệm, cơ chế phối hợp
của các cơ quan trong công tác THADS…Để khắc phục những hạn chế
này, tiếp tục hoàn thiện các quy định về THADS, ngày 14/11/2008,
Quốc hội khóa XII đã thông qua luật THADS, gồm 9 chương, 183 điều
15


×