Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự theo quy định của BLTTDS 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.07 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


A.

LỜI NÓI ĐẦU
Để đảm bảo cho Tòa án xét xử đúng theo các quy định của pháp luật trong các
vụ án dân sự đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được đảm
bảo, thì pháp luật đã có những quy định rõ rang, cụ thể về các thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự. Trong đó có thủ tục khởi kiện và thu lý vụ án, qua thời gian đất nước
chúng ta đã trải qua nhiều văn bản pháp luật khác nhau để điều chỉnh các vấn đề
thủ tục liên quan trong tố tụng dân sự, mới đây nhất là bộ luật tố tụng dân sự 2015
sắp có hiệu lực. Trong phạm vi bài này, em muốn đi sâu cùng tìm hiểu các quy
định cảu pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định của pháp luât, tìm ra những
vướng mắc còn tồn tại để đưa những kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật tố
tụng dân sự.
Sau đây em xin trình bày đề tài số 09: “ Quy định của BLTTDS 2015 về khởi
kiện và thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn thi hành”.

2


B. LỜI NÓI ĐẦU
I. KHÁI NIỆM, ĐIỀU KIỆN, PHẠM VI VÀ HÌNH THỨC KHỞI KIỆN
VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: " Cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo


vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”
Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định các cơ quan, tổ chức có
quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công
cộng, lợi ích nhà nước bao gồm: Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan
quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đình; Tổ chức đại diện tập thể lao động có
quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy
định của pháp luật; Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi
kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật.. Cá nhân
có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
Như vậy, với các quy định trên có thể khẳng định: Quyền khởi kiện là quyền của
cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có
thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích
Nhà nước thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ chức của mình phụ trách khi quyền, lợi ích
hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc có tranh chấp.
3


2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
Pháp luật tạo mọi điều kiện cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu Tòa
án bảo vệ khi quyền và lợi ích của các chủ thể bị xâm phạm hay có tranh chấp. Tuy
nhiên để trách việc các chủ thể lạm dụng quyền khởi kiện mà làm phương hại đến các

chủ thể khác, pháp luật đã quy định các điều kiện khởi kiện. Căn cứ vào các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xác định việc khởi kiện vụ án dân sự cần phải đáp
ứng được đầy đủ các điều kiện cơ bản sau đây
a) Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Chủ thể khởi kiện phải là chủ thể có tư cách về mặt pháp lý và theo quy định của
pháp luật có quyền khởi kiện vụ án dân sự theo hướng dẫn của Nghị quyết
05/2012/HĐTP-TANDTC ngày 03 tháng 12 năm 2012 quy định:

 Đối với cá nhân
Theo quy định tại Điều 186 BLTTDS 2015 “ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có
quyền tự mình hoặc thông qua người đai diện hợp pháp khởi kiện vụ án(sau đây
gọi là người khởi kiện ) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.” Như vậy đối với cá nhân, để đáp ứng điều kiện về chủ thể
có quyền khởi kiện thì cá nhân đó phải đáp ứng được hai điều kiện sau:
Thứ nhất về năng lực hành vi tố tụng dân sự
- Đối với cá nhân khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình thì cá nhân đó phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo quy đinh tại khoản
2 Điều 69 BLTTDS năm 2015 thì “ Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng tự
mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự”. Theo các khoản 3, 4, 5, 6 BLTTDS
2015 quy định cụ thể về các trương hợp khác nếu cá nhân không đáp ứng được quy
định tại khoản 2 nhưng vẫn có quyền như người đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Ở
đó cá nhân có quyền khởi kiện mà không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không
thể tự mình khởi kiện mà việc khởi kiện phải do người đại diện hợp pháp của họ thực
hiện. Thông thường một cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự khi cá
nhân đó đủ 18 tuổi và không bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự.; Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười
tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản
riêng của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án

4


về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó.
Thứ hai chủ thể có quyền khởi kiện đó có quyền khởi kiện khi chủ thể đó có
quyền và lợi ích bị xâm phạm, tranh chấp hoặc khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích
của cơ quan tổ chức, cá nhân khác, lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước :
Có thể thấy rằng điều kiện tiếp theo để cá nhân có quyền khởi kiện đó là khi các
chủ thể khi khởi kiện vụ án dân sự phải có quyền lợi bị xâm phạm, tranh chấp hoặc
khởi kiện để bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng.
Quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt và tôn trọng quyền
quyết định của đương sự được ghi nhận tại Điều 5 Bộ luật TTDS, nó tránh việc
khởi kiện một cách bừa bãi trong khi chủ thể đó vốn không hệ bị xâm phạm về
quyền, lợi ích hợp pháp mà chỉ muốn khởi kiện để hạ thấp uy tín, danh dự của
những chủ thể khác. Tuy nhiên Bộ luật TTDS 2015 có quy định thêm về cá nhân có
quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền và lợi ích của người
khác theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 đây là một điểm mới của
Bộ luật sắp có hiệu lực này.

 Đối với cơ quan tổ chức
- Đối với cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác thì chỉ được khởi kiện đối với các trường hợp theo quy định
của pháp luật như theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình, Luật lao động...
Đồng thời việc khởi kiện phải do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thực hiện như: cơ
quan dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ, Công đoàn cấp trên của công
đoàn cơ sở (Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004).
Ngoài ra, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công
cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách phải có đầy đủ các điều
kiện sau:

+ Cơ quan, tổ chức đó có nhiệm vụ, quyền hạn trong việc thực hiện chức năng
quan lý Nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực nhất định;
+ Lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Toà án bảo vệ phải thuộc
lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách.
b) Điều kiện về thẩm quyền
Các chủ thể khởi kiện phải thực hiện hành vi khởi kiện vụ án tới đúng Toà án có
thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Theo đó các chủ thể khởi kiện phải
5


khởi kiện đúng theo quy định của pháp luật về 3 loại thẩm quyền sau đây:
- Thứ nhất: Phải khởi kiện một trong những loại tranh chấp thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án theo quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 Bộ luật tố tụng dân
sự 2015.
- Thứ hai: Việc khởi kiện phải thực hiện đúng theo quy định về thẩm quyền giải
quyết của Tòa án các cấp theo quy định tại Điều 35, 36, 37 và 38 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015.
- Thứ ba: Việc khởi kiện phải tới đúng Toà án có thẩm quyền giải quyết theo
lãnh thổ theo quy định tại Điều39 và 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
c) Điều kiện sự việc khởi kiện phải chưa được giải quyết bằng một bản án hay
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật
Về nguyên tắc, một sự việc đã được Toà án của Việt Nam giải quyết bằng một
bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự không được khởi kiện
lại, trừ các trường hợp sau đây:
- Bản án, quyết định của Toà án bác đơn xin ly hôn có hiệu lực pháp luật được
một năm thì lại có quyền khởi kiện trở lại yêu cầu xin ly hôn;
- Yêu cầu giải quyết việc nuôi con, cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại đã được giải
quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng sau đó đương sự có
quyền khởi kiện yêu cầu xin thay đổi việc nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức

bồi thường thiệt hại;
- Vụ án xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản;
- Vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng
đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Toà án đã xử bác yêu cầu do chưa
đủ điều kiện khởi kiện thì khi có đủ điều kiện đương sự có quyền khởi kiện lại để
đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ;
- Các trường hợp khác pháp luật quy định.
d. Hòa giải tiền tố tụng
Trong một số vụ án dân sự nhất định thì hòa giải là điều kiện để khởi kiện, nếu
chưa thực hiên qua bước hòa giải thì Tòa sẽ sẽ không chấp nhận việc khởi kiện của
các chủ thể.
Ví dụ như trong về điều kiện khởi kiện vụ án lao động: Bộ luật lao động 2012
quy định tranh chấp lao động (trừ các loại việc tranh chấp về sa thải, đơn phương
6


chấm dứt hợp đồng lao động, bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng
lao động, tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động,
tranh chấp về Bảo hiểm xã hội quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 201 Bộ luật lao
động 2012, tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh
nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng), các bên phải
đưa việc tranh chấp ra hòa giải.
Theo quy định của BLTTDS 2015 thì thời hiệu không còn là điều kiện bắt buộc
để thực hiện quyền khởi kiện nữa. Các chủ thể vẫn có thể khởi kiện vụ án dân sự dù
thời hiệu khởi kiện đã hết.
3. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự
Các chủ thể khởi kiện có thể yêu cầu Toà án giải quyết một hoặc nhiều quan hệ
pháp luật để giải quyết trong cùng một vụ án. Tuy vậy, các chủ thể khởi kiện chỉ có
thể khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết trong một giới hạn nhất định do pháp
luật quy định, đó chính là phạm vi khởi kiện.

Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự là giới hạn những vấn đề mà các chủ thể có thể
khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết trong cùng một vụ án dân sự.
Theo quy định tại Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì phạm vi khởi
kiện vụ án dân sự được xác định như sau:
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức,
cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan
với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.
+ Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ
chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có
liên quan với nhau1 để giải quyết trong cùng một vụ án.
+ Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có thể khởi
kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án
4. Hình thức, nội dung và tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện
Để bảo đảm cho việc làm đơn khởi kiện đúng và thống nhất, Toà án yêu cầu
người khởi kiện làm đơn khởi kiện. Toà án phải niêm yết công khai tại trụ sở Toà
án mẫu đơn khởi kiện và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn khởi kiện. Theo quy định tại
Điều 189 BLTTDS 2015, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi
1 Xem

Điều 4 Nghị quyết 05/2012/HĐTP-TANDTC ngày 03/12 năm 2012.
7


kiện. Trong đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung như: ngày, tháng, năm làm
đơn khởi kiện; tên Toà án nhận đơn khởi kiện; tên, địa chỉ người khởi kiện; tên, địa
chỉ người có quyền, lợi ích được bảo vệ (nếu có); tên, địa chỉ người bị kiện; tên, địa
chỉ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có); những vấn đề cụ thể yêu cầu
Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; những
vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan; họ tên, địa chỉ người làm chứng (nếu có); khởi kiện là có căn cứ và
hợp pháp; các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải
quyết vụ án.
Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Toà án, người khởi kiện phải gửi kèm
theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là người có quyền khởi kiện và những yêu
cầu của họ là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách
quan nên họ không thể nộp ngay đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các
tài liệu, chứng cứ ban đầu chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ. Các tài liệu,
chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu
của Toà án trong quá trình giải quyết vụ án.
5. Gửi đơn khởi kiện vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 190 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, người khởi kiện vụ
án dân sự có thể gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Toà án có thẩm
quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:
- Nộp trực tiếp tại Toà án;
- Gửi đến Toà án theo đường bưu chính ;
- Gửi trực tuyến bằng hình thức đueh tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án
(nếu có).
Ngày khởi kiện được tính từ ngày đương sự nộp đơn tại Toà án hoặc ngày có dấu
bưu chính gửi, Trường hợp gửi qua phương thức trực tuyến thì ngày khởi kiện là
ngày gửi đơn.
II. THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ, CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC TRẢ LẠI ĐƠN
KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1. Thụ lý vụ án dân sự
a) Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Điều 191 BLTTDS 2015 quy định: Toà án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự
nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn.
8



Trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện qua phương thức trực tuyến thì Tòa án phải
in ra bản giấy và ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau
đây:
+Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ;
+ Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình.
+ Chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện,
nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án khác.
+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
Như vậy sau khi nhận được đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo, Toà
án sẽ phải ghi vào sổ nhận đơn và tiến hành việc xem xét việc khởi kiện đã đáp ứng
đầy đủ các điều kiện của việc khởi kiện theo quy định của pháp luật chưa. Trong
trường hợp xét thấy việc khởi kiện đã đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện
thì Toà án phải báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi
người khởi kiện đã nộp tiền tạm ứng án phí và xuất trình cho Toà án biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí thì Toà án chấp nhận đơn khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân
sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hoạt động này của Toà án được gọi là
thụ lý vụ án dân sự.
Thụ lý vụ án dân sự là việc Toà án xem xét chấp nhận đơn khởi kiện của người
khởi kiện, vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết.
b) Thủ tục thụ lý vụ án dân sự
Theo quy định tại Khoản 1, 2 Điều 195 BLTTDS 2015, sau khi nhận đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án thì Toà án phải xác định tiền tạm ứng án phí và thông báo ngay cho
người khởi kiện biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong
trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí, trừ trường hợp đương sự được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí.
Toà án dự tính số tiền tạm ứng, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi kiện
để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận

được giấy báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải
nộp tiền tạm ứng án phí.
Tiền tạm ứng án phí được nộp tại Cơ quan thi hành án cùng cấp với Toà án đang
9


xem xét thụ lý vụ án. Sau khi nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, đương sự sẽ
nhận được biên lai nộp tiền và họ phải nộp lại biên lai này cho Toà án đang xem xét
thụ lý vụ án.
Khoản 3, 4 Điều 195 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thì Toà án ra
quyết định thụ lý vụ án và vào sổ thụ lý vụ án dân sự khi người khởi kiện nộp cho
Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.
Trong trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án
phí, án phí thì Toà án phải thụ lý vụ án khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng
cứ kèm theo.
2. Trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự
a) Những trường hợp Toà án trả lại đơn khởi kiện
Theo Khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 khi chưa thụ lý vụ án, Toà án có quyền
trả lại đơn kiện cho người nộp đơn trong các trường hợp sau:
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều
187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều
kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một
trong các điều kiện đó;
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con,
thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý
tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài

sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp
luật được quyền khởi kiện lại;
- Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi
kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người
10


khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại
khách quan, sự kiện bất khả kháng;
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;
- Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm
phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
-

Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.
b) Thủ tục trả lại đơn khởi kiện
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 192 BLTTDS 2015 khi trả lại đơn khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Toà án phải có văn bản ghi
rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
c) Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn
khởi kiện
Điều 194 BLTTDS 2015 thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có
quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi
kiện.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải
mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và
đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành

phiên họp.
Sau đó Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện,
ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm
phán phải ra một trong các quyết định sau đây:
- Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho đương sự, Viện kiểm
sát cùng cấp;
- Nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý
vụ án.
11


Nếu không đồng ý với quyết định của Thẩm phán giải quyết thì Trong thời hạn,
sau đó người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp
trực tiếp có hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người khởi kiện, Viện kiểm sát
cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi
kiện.
Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết của Chánh án Tòa án trên
một cấp trực tiếp có vi phạm pháp luật thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định, đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị
với Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nếu
quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao . Quyết
định của Chánh án là quyết định cuối cùng.
III. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về tố tụng dân sự về thụ lý,
trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự

1. Thành tựu đạt được
Sau hơn 6 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2004, số lượng các vụ kiện được

khởi kiện và giải quyết tại Tòa án trong cả nước đều tăng cao, trong đó có các tranh
chấp về thừa kế, đất đai, nhà ở, hợp đông, hôn nhân và gia đình.. chiếm tỷ lệ lớn.
Các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, kinh doanh thương mại, lao động hay các tranh
chấp có yếu tố nước ngoài cũng ngày càng gia tăng. Cụ thể là :2
Năm

Số vụ việc đã
Số vụ việc đã
Đạt tỷ lệ
thụ lý
giải quyết
2005
152.819
132.125
86.5%
2006
164.888
146.82
89%
2007
188.992
171.681
91%
2008
192.336
174.768
91%
2009
214.714
194,358

90.7%
2010
215.714
194.372
90%
Như vậy có thể thấy số lượng các vụ án về dân sự nói chung đã có sự tăng lên về
số lượng và thụ lý giải quyết, việc thực hiện quyền khởi kiện bảo vệ quyền và lợi
2 Báo cáo số 09/BC-TANDTC ngày 9/8/2010 của TANDTC tổng kết 5 năm thi hành BLTTDS 2004.

12


ích hợp pháp của các đương sự ngày càng được đảm bảo. Bên cạnh việc tăng về số
lượng vụ án được thụ lý và giải quyết tại các Tòa án thì kể từ khi cso BLTTDS
2004 ra đời, việc thực hiện các quyền và nghãi vụ của đương sự trong quá trình
khởi kiện cũng có bước chuyển biến tích cực. Nhìn chung các cấp Tòa án đã tuân
thủ các quy định của BLTTDS trong việc khởi kiện, thụ lý và giải quyết vụ án dân
sự, tạo điều kiên để người dân thực hiện quyền khởi kiện của mình đúng theo quy
định của pháp luật, đồng thời cố gắng trong việc thúc đẩy quá trình giải quyết vụ
án dân sự được nhanh chóng, chính xác, hiệu quả. Sự ra đơi của BLTTDS 2004 đã
tạo ra những bước đột phá trong công tác thụ lý vụ án dân sự, góp phần vào cải
cách nền tư pháp nói chung theo chủ trương của Đảng đề ra.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên canh những thành tựu đã đạt được còn
nhiều hạn chế, vướng mắc, đặc biệt trong việc áp dụng các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự về vấn đề thụ lý án dân sự, trả lại đơn khởi kiện vào thực tiễn. Mặc
dù số lượng án được thụ ý giải quyết tăng cao nhưng ở một số nơi tình trạng tồn
đọng còn khá nhiều, các đơn khởi kiện vẫn chưa được thụ lý giải quyết. Do số
lượng các vụ tranh chấp tại Tòa án ngày càng tăng cao, số lượng thẩm phán chưa
đáp ứng đủ yêu cầu, trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
của Tòa án, không ít trường hợp Tòa án nhận đơn khởi kiện đã trả lại đơn khởi kiện

mà không có sự giải thích rõ ràng hoặc kéo dài thời gian nhận đơn khiến người dân
phải đi lại nhiều lần, mất thời gian. Khi người khởi kiện khiếu nại việc trả lại đơn
thì không giải quyết một cách thỏa đáng.
Trên đây là một số thành công của việc thi hành Bộ luật tố tụng dân sự 2004, đối
với các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về các quy định về khởi kiện và
thụ lý vụ án cũng không có sự thay đổi nhiều nên những thành tựu trên cũng là
thành công mà bộ luật dân sự 2015 sẽ duy trì được

2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong việc thực thi các quy định của pháp
luật
Ngoài những thành công đã kể trên, dưới đây là một số vấn đề thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện và thụ lý vụ án ở nước ta
trong thời gian qua :

- Chưa áp dụng đúng thủ tục khởi kiện
Khởi kiện là quyền của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Việc khởi
kiện phải theo trình tự thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng đơn
13


khởi kiện nội dung đầy đủ nhưng không ghi năm sinh của người bị kiện, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan hay chính người khởi kiện thì tòa trả lại đơn khởi
kiện.
Theo quy định của Điều 164 BLTDS 2004 cũng thì khi các cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện thì phải làm đơn khởi kiện với đầy đủ nội dung chính được quy định
tại khoản 2 Điều 164 BLTTDS ; đơn khởi kiện phải theo mẫu được ban hành kèm
theo nghị quyết 02/2006. Pháp luật không quy định đơn khởi kiện phải ghi năm
sinh của các đương sự ; tuy nhiên trên thực tiễn tố tụng lại có tòa án trả lại đơn khởi
kiện vì lý do đơn khởi kiện thiếu nội dung này.
Việc tòa án yêu cầu đơn khởi kiện phải ghi năm sinh của các đương sự là không

đúng quy định, gây khó khăn cho công dân khi thực hiện quyền đúng pháp luật.
Pháp luật tố tụng dân sự không quy định người khởi kiện phải biết năm sinh của
người bị kiện hay người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Ở đây đặt ra một câu hỏi
là tòa án sai do trình độ kỹ năng hạn chế hay sự né tránh của một số tòa án trong
việc nhận hồ sơ khởi kiện, thụ lý giải quyết với một sô vụ án mà tòa án « ngại »
giải quyết. Chưa kể trên thực tiễn còn những tòa án viện vào lý do tài liệu chứng cứ
kèm theo đơn khởi kiện chưa đủ nên không ít đơn khởi kiện bị trả lại… và pháp
luật cũng chưa quy định nào rằng buộc trách nhiệm của tòa án trong việc trả lại đơn
khởi kiện, không thụ lý giải quyết vụ việc một cách trái pháp luật, lý do đưa ra
không thuyết phục, với mục đích né tránh hoặc gây khó dễ cho người khởi kiện.

- Vấn đề xác định tạm ứng án phí và thông báo cho người khởi kiện
Theo quy định tại Điều 171 BLTDS 2004, sau khi đơn khởi kiện và các chứng
cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án và đương
sự thuộc trường hợp phải nộp tạm ứng án phí thì tòa án phải thông báo ngay cho
người khởi kiện biết để họ đến tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong
trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí.
Thực tiễn áp dụng các quy định về thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí các
tòa án có nhiều cách vận dụng khác nhau. Thông thường các tòa án viết giấy báo
yêu cầu người khởi kiện đến tòa án nhận thông báo nộp tiền tạm ứng án phí rồi đi
nộp, cách làm này gây khó khăn cho người khởi kiện nếu họ ở xa sẽ phải đi lại
nhiều lần, cac đương sự khi đọc thông báo thường hiểu lầm là nộp tiền tạm ứng án
phí tại tòa án.. một số tòa án ghi ngay số tiền phai nộp vào thông báo gửi cho người
khởi kiện và ghi rõ nơi nộp tiền tạm ứng án phí và thông báo cho người khởi kiện
14


để họ chuẩn bị tiền đi nộp sau đó nộp biên lai tạm ứng án phí cho tòa án. Cách làm
này nhằm giảm bớt khó khăn cho người khởi kiện. Về nguyên tắc, Tòa án thụ lý vụ
án sau khi đương sụ nộp tiền tạm ứng án phí, nhưng trong thực tế có trường hợp tòa

án vào sổ thụ lý trước.

- Không đảm bảo thời gian xem xét đơn khởi kiện và thụ lý vụ án
Trong thực tế nhiều vụ án, tòa án không đảm bảo thời gian xem xét đơn khởi
kiện và thụ lý vụ án. Có những vụ án sau vài tháng kể từ ngày nhận đơn tòa án mới
thụ lý. Sau khi nhận đơn khởi kiện và chứng cứ, tài liệu kèm theo, tòa án thường
mất khá nhiều thời gian để xem xét thụ lý vụ án. Việc xem xét đơn khởi kiện của
Tòa án bị kéo thời gian do tòa án không vận dụng đúng pháp luật trong giải quyết
vụ án. Ví dụ theo bộ luật lao động năm 2006 đã quy định thêm một số tranh chấp
không bắt buộc phải thông qua hòa giải cơ sở như tranh chấp về việc người lao
động kiện đòi bồi thường thiệt hại, tranh chấp về trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp
đồng lao động… nhưng đến nay vẫn có tòa án trả lại đơn cho đương sự yêu cầu
phải tiến hành hòa giải cơ sở trước. Tình trạng này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.
IV. Kiến nghị hoàn thiện

- Cần nâng cao chất lượng và số lượng của đội ngũ thẩm phán
Qua những bất cập nêu trên, chúng ta có thể thấy thực tiễn thi hành pháp luật
không tốt cũng do chất lượng và chuyên môn của đội ngũ thẩm phấn không đáp
ứng được yêu cầu công việc, nhiều thẩm phán còn lúng túng trong các quy định của
pháp luật ở những quy định cơ bản. cũng có những thẩm phán lười, lảng tránh công
việc nên không muốn làm, không muốn thụ lý giải quyết vụ án.
Cũng do số lượng thẩm phán chưa đáp ứng được hết nhu cầu giải quyết tranh
chấp của xã hội nên cac vụ án tồn đọng còn nhiều, không kịp thời bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Ngoài ra cũng cần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các thẩm phán, cần có cơ
chế quản lý chặt chẽ, và có những quy đinh rằng buộc để những thẩm phán vô trách
nhiêm sẽ bị xử lý, không để thẩm phán ngồi chơi xơi nước mà người dân thì không
được giải quyết những tranh chấp đang trực tiếp ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.


- Tăng cường cơ chế kiểm sát của Viện kiểm sát trong việc kiểm sát khởi kiện và
thụ lý vụ án
15


Trong đa số các trường hợp, những quyết định của tòa án không phải do họ cố ý
làm sai, nên khó mà họ có thể tự nhận ra được sai lầm của mình, mà chỉ khi có một
chủ thể,, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác chỉ ra lôi sai thì họ mới nhận ra là mình
sai.Và viện kiểm sát là cơ quan có trách nhiêm kiểm sát các hoạt động tư pháp, nên
Viện kiểm sát cần tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động thi hành án dân
sự nói chung và hoạt động khởi kiện và thụ lý thi hành án dân sự nói riêng, vì mọi
hoạt động đều cần được thực hiện đúng quy định của pháp luật ngày từ những bước
đầu tiên, Nhiều khi sai ở bước đầu tiên đã dẫn đến bản án được tuyên sẽ bị hủy bỏ
bởi các tòa cấp trên, gây mất thời gian tiền bạc của các đương sự và của Nhà nước.

-

Sửa đổi các quy định về tiền tạm ứng án phí
Để áp dụng thống nhát và chính xác nên quy định chi tiết về việc t điều luật thụ
lý vụ án, cần quy định trong trường hợp người khởi kiện phải nộp tiefn tạm ứng án
phí tòa án gửi ngay thông báo cho người khởi kiện biết phải nộp tiền tạm ứng án
phí để họ đi nộp.Trong thông báo phải bao gồm các nội dung : số tiền tạm ứng án
phí, địa điểm nộp và thời hạn nộp lại biên lai cho tòa án. Viejc bổ sung quy định
này nhằm đảm bảo tính rõ ràng của thông báo, vừa đỡ rờm rà tiết kiệm thời gian và
tiền bạc cho đương sự
C. KẾT BÀI
Như vậy có thể thấy pháp luật thực định hiện hành về khởi kiện và thụ lý vụ án ở
nước ta đã và đang ngày càng phát triển hơn, do sự ra đời của hai bộ luật tố tụng
dân sự đã khắc phục được những hạn chế đó. Tuy nhiên, thực tiễn luôn vận động

không ngừng, đòi hỏi sự tương thích của pháp luật thực định để giải quyết những
vấn đề phát sinh trên thực tiễn, và pháp luật về khởi kiện và thụ lý vụ án cũng
không ngoại lệ.
Nước ta đang trong tiến trình đổi mới đất nước, nền kinh tế thị trường đang phát
triển, vấn đề các quy định của pháp luật không tương thích với thực tiễn là điều dễ
xảy ra, đặc biệt là vấn đề thụ lý và trả lại đơn khởi kiện. do đó cần không ngừng
nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù hợp với thực tiễn trong mỗi
giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Do nhận thức còn hạn chế, trong bài viết khó tránh khỏi những sai sót, mong
thầy cô góp ý để bài em được hoàn thiện. Em xin chân thành cám ơn.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015)
Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 (BLTTDS 2004)
Nghị quyết 05/2012/HĐTP-TANDTC

4.

Báo cáo số 09/BC-TANDTC ngày 9/8/2010 của TANDTC tổng kết 5 năm thi hành
BLTTDS 2004.

17




×