Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Đề tài KHẢO SÁT TUÂN THỦ THỜI ĐIỂM VỆ SINH TAY TẠI BỆNH VIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.51 KB, 37 trang )

1

DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BN:

Bệnh nhân

BV:

Bệnh viện

MRSA:

Methicillin – resistant S. aureus (Tụ cầu vàng kháng

methicillin)
MT:

Môi trường

NKBV:

Nhiễm khuẩn bệnh viện

NVYT:

Nhân viên y tế

RT:


Rửa tay

VSTTQ :

Vệ sinh tay thường quy

VSTXP :

Vệ sinh tay xà phòng

TCYTTG: Tổ chức Y tế thế giới
TXBN:

Tiếp xúc bệnh nhân

TTVK:

vi khuẩn

VK:

Vi khuẩn

VST:

Vệ sinh tay

XP :

Xà phòng



2

DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

................................. 34

MỤC LỤC


3

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bàn tay là con đường chính lây nhiễm chéo trong quá trình chăm sóc, phục
vụ, điều trị cho người bệnh. Hàng năm, tổ chức y tế thế giới ước tính, có trên 1,4
triệu ca nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế [26]. Hậu quả của NKBV đối
với người bệnh là: Tăng tỷ lệ tàn phế, tăng tỷ lệ tử vong, kéo dài ngày nằm
điều trị, tăng sự kháng thuốc của vi sinh vật và tăng chi phí cho người bệnh và
người nhà. Chi phí điều trị cho một ca NKBV tại Việt Nam là từ 2 đến 32.5
triệu đồng tùy thuộc vào cơ quan/bộ phận bị NKBV.
Các nhà khoa học đã xác định, trên 1cm² da của người bình thường chứa
tới 40.000 vi khuẩn. Đặc biệt số lượng này còn nhiều hơn ở trên da tay, vốn là nơi
thường xuyên tiếp xúc với đủ mọi vật trong môi trường xung quanh, trong cuộc
sống thường ngày [4].
Có nhiều phương thức lây truyền NKBV, tuy nhiên sự lây truyền qua
bàn tay NVYT là một trong những nguyên nhân hàng đầu [4]. Nhiều nghiên

cứu cũng khẳng định vệ sinh tay với dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn là biện
pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyên tác nhân gây bệnh trong các
cơ sở y tế. Tại Việt Nam, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 18/2009/TT-BYT
ngày 14 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát
nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám, chữa bệnh, trong đó đã quy định thầy thuốc,
NVYT, sinh viên/học sinh và người bệnh, người nhà người bệnh khi đến bệnh
viện phải rửa tay theo quy định. Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được
thực hiện tại các bệnh viện nhằm đánh giá tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT.
Theo tổ chức y tế thế giới (TCYTTG), vệ sinh tay (VST) được coi là liều vắc xin
tự chế, rất đơn giản, dễ thực hiện, hiệu quả về chi phí.


4

Tuy nhiên đánh giá tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế còn chưa
cao và chưa thành thói quen, việc giám sát theo dõi thực chất tình hình vệ
sinh tay còn rất hạn chế. Theo báo cáo tỷ lệ tuân thủ ở các bệnh viện châu Âu,
Hoa Kỳ thường trên 60%. Ở Việt Nam, khảo sát ở bệnh viện chợ Rẫy, bệnh
viện Bạch Mai, bệnh viện trung ương Huế tỷ lệ tuân thủ từ 50 đến 60 %.Tại
bệnh viện Quân y 175, công tác Vệ sinh tay đã có nhiều cải thiện, nhưng công
tác giám sát đánh giá hiệu quả của Vệ sinh tay còn hạn chế.
Tiến hành đề tài: “Khảo sát tuân thủ vệ sinh tay tại Bệnh viện Quân y
175” nhằm mục đích:
-

Đánh giá mức độ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y tế trong thực
hành chăm sóc người bệnh.


5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Theo Tổ chức y tế Thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là
các nhiễm khuẩn xuất hiện sau 48h kể từ khi bệnh nhân nhập viện và không
hiện diện cũng như không có ở giai đoạn ủ bệnh.
Tác nhân gây NKBV Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra bởi các vi khuẩn, vi
rút, nấm và ký sinh trùng. Trong đó phổ biến nhất là nhiễm trùng đường tiết
niệu lien quan thủ thuật đặt dẫn lưu nước tiểu, đứng hàng thứ hai là viêm phổi
bệnh viện.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện tại các bệnh viện
nhằm đánh giá tỉ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế (NVYT), trong đó có
một số nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp đánh giá sự thay đổi về
kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ vệ sinh bàn tay trước và sau can thiệp. Sự
tuân thủ rửa tay của NVYT (như rửa tay với nước và xà phòng, rửa tay với
dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn) được coi là biện pháp đơn giản và hiệu quả
nhất để phòng ngừa hiệu quả NKBV. VSBT đúng cách sẽ làm loại bỏ hầu hết
lớp vi sinh vật gây ra NKBV.
Cơ sở khoa học của VSBT Trong suốt thế kỷ thứ XIX, ở Châu Âu và
Hoa Kỳ, 25% bà mẹ sinh con tại bệnh viện đã tử vong do sốt hậu sản. Nguyên
nhân là do vi khuẩn Streptococcus pyogenes. Năm 1843, bác sĩ Oliver
Wendell Holmes (Hoa Kỳ) cho rằng, VSBT có thể phòng ngừa được sốt hậu
sản. Trước tỉ lệ sốt hậu sản tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ, ông tin tưởng rằng
nguyên nhân chính là do sự lây truyền vi khuẩn từ sản phụ này sang sản phụ


6

khác qua bàn tay các bác sỹ. Ý kiến của ông đã bị nhiều bác sĩ cùng thời phản

đối .
Một nghiên cứu trên Thế giới từ năm 1994 đến 1997 trên 20,000 cơ hội
rửa tay của NVYT tại một BV đã cho thấy: khi tỉ lệ tuân thủ rửa tay của nhân
viên y tế tăng từ 48% (1994) lên 66% (1997) thì tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện
giảm từ 16.9% (1994) xuống còn 6.9% (1997) Tại Việt Nam, can thiệp làm
tăng sự tuân thủ vệ sinh bàn tay của NVYT cũng mang lại hiệu quả tích cực
trong việc làm giảm tỉ lệ NKBV.
Năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 18/2009/TT-BYT: Hướng dẫn
tổ chức thực hiện công tác KSNK tại các cơ sở khám, chữa bệnh. Điều 1 của
Thông tư quy định “Thầy thuốc, NVYT, học sinh, sinh viên thực tập tại các
cơ sở khám chữa bệnh phải tuân thủ rửa tay đúng chỉ định và đúng quy trình
kỹ thuật theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Người bệnh và người nhà người bệnh,
khách đến thăm phải rửa tay theo quy định và hướng dẫn của cơ sở khám,
chữa bệnh”.
Nghiên cứu trên thế giới đã khẳng định tuân thủ VSBT phòng tránh được
NKBV, tuy nhiên tỉ lệ tuân thủ rửa tay còn rất thấp. Năm 2002, tại Italia,
Nobile và cộng sự đã tiến hành đánh giá Kiến thức, thái độ và thực hành
VSBT của các NVYT tại các khoa hồi sức tích cực của 24 BV vùng
Campania và Calabria. Kết quả cho thấy 53,2% NVYT có kiến thức đúng, tỉ
lệ có thái độ tích cực về VSBT là 96,8%, thái độ tích cực của nhóm NVYT có
trình độ học vấn cao và nhóm nữ, lớn tuổi cao hơn một cách có ý nghĩa so với
các nhóm khác. Trong nghiên cứu này tỉ lệ tuân thủ rửa tay của NVYT tại thời
điểm trước khi chăm sóc người bệnh đạt 60% và sau khi chăm sóc người bệnh
đạt 72,5%. Tỉ lệ này ở nhóm nữ NVYT cao hơn một cách có ý nghĩa so với
các nhóm khác. Một nghiên cứu can thiệp của Nguyễn Việt Hùng, Trương


7

Anh Thư và cộng sự thực hiện năm 2005 cho thấy, trước can thiệp tỉ lệ tuân

thủ rửa tay của NVYT chỉ là 42,2%, sau 4 tháng tổ chức chiến dịch vận động
NVYT tăng cường VSBT, tỉ lệ tuân thủ rửa tay đã tăng lên 65,7%.
1.1. Sinh thái học của lớp vi khuẩn trên đôi bàn tay:

Bình thường trên bàn tay người có lớp vi khuẩn (VK) cư trú thường
xuyên. Chúng nằm trên bề mặt và sâu dưới da; ổn định về mặt số lượng và
chủng loại. Theo các nhà khoa học, dù không nhìn thấy bằng mắt thường,
nhưng quan sát qua kính hiển vi trên 1cm² da tay người bình thường chứa hơn
40.000 vi khuẩn các loại [4]. Chúng thường là VK không gây bệnh trên người
lành như:


Staphylocoque coagulase negative



Cryhelacteries



Microcoques



Propionibacterium acnes...

Lớp VK này không bao giờ bị tiêu diệt hoàn toàn ngay cả khi rửa tay
(RT) ngoại khoa. Cách duy nhất để đảm bảo an toàn cho NVYT và bệnh nhân
là mang găng tay vô khuẩn [7].
Hằng ngày, thông qua những tiếp xúc với bệnh nhân và môi trường xung

quanh; số lượng VK trên bàn tay các NVYT còn tăng lên gấp nhiều lần. Lớp
VK này có mặt ngay trên bề mặt da bàn tay, chúng rất phong phú về chủng
loại cũng như số lượng. Chúng thường là những VK gây bệnh cơ hội như:


Enterobacteries



E.coli



Klebsiella


8



Pneudomonas acruginosa



Clostridium difficile



Rotavirus




Candida



Adenovirus.....

Trong số đó, có rất nhiều VK có khả năng lây truyền bệnh tật và có thể
phát triển thành dịch rất nhanh chóng như: Rotavirus, Pseudomonas,
Adenovirus....Người lành mang lớp VK này cũng có thể gặp nguy hiểm, rất
có khả năng sẽ bị mắc bệnh. Nếu chúng ta không rửa tay để loại bỏ lớp VK
này thì đôi bàn tay chúng ta sẽ là môi trường sinh sôi của VK, là nguồn lây
truyền bệnh dịch cho bản thân, những người xung quanh và làm gia tăng tỷ lệ
các bệnh nhiễm trùng [16].
Kết quả kiểm tra ngẫu nhiên của bệnh viện (BV) Chợ Rẫy tại thành phố
Hồ Chí Minh (HCM) năm 2001 ở 77 nhân viên y tế, số vi trùng đếm được
trung bình trên bàn tay hộ lý là 481.273 vi trùng, trên bàn tay bác sĩ 275.110
và nhóm điều dưỡng sạch nhất cũng là 126.875 vi trùng [9].
1.2. Lợi ích của việc vệ sinh tay phòng bệnh
Vào những năm 1840 Semmelweis – một bác sĩ người Hungari gốc Áo
làm việc tại BV (ở Áo) có hai khoa sản, ông đã quan sát sản phụ được nhập
viện tại hai khoa sản mà không phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng. Ở khoa thứ
nhất, sản phụ được thăm khám bởi các sinh viên y đi từ phòng mổ xác đi sang
phòng đỡ đẻ. Còn ở khoa thứ hai, sản phụ được khám bởi các nữ hộ sinh
không có tiếp xúc với phòng mổ xác. Tỷ lệ tử vong cho mẹ ở khoa đầu tiên là
18%, với nguyên nhân chính là sốt sản khoa; trong khi ở khoa thứ hai chỉ là
2%. Semmelweis cũng quan sát thấy rằng một đồng nghiệp làm tại khoa sản
bị chết - vì một bệnh giống với trường hợp sốt sản khoa - sau khi bị cắt phải



9

tay khi đang mổ xác. Ông có kết luận rằng, các hạt gây nhiễm nhỏ gây ra sốt
sản khoa có nguồn gốc từ tử thi và được lây truyền cho sản phụ ở khoa thứ
nhất qua bàn tay thăm khám của sinh viên y. Vì vậy ông đã cho những người
đi từ phòng mổ xác khử khuẩn tay bằng vôi chlorinate, sau đó thì tỷ lệ tử
vong cho mẹ ở khoa thứ nhất đó giảm xuống bằng khoa thứ hai. Tuy nhiên,
tại thời điểm đó, nhiều người cho rằng khuyến cáo rửa tay giữa những lần tiếp
xúc với người bệnh của Semmelweis là quá nhiều và không bác sĩ nào chấp
nhận đôi bàn tay họ chính là nguyên nhân gây tử vong hậu sản.
Năm 1879, tại một hội thảo khoa học ở Paris, bác sĩ Louis Pasteur đã
lên tiếng: “Nguyên nhân gây tử vong ở những bà mẹ bị nhiễm trùng hậu sản
chính là các bác sĩ đã sử dụng bàn tay khám các bà mẹ bị bệnh rồi khám các
bà mẹ mạnh khỏe”. Sau đó, ông đưa ra Lý thuyết về “Mầm bệnh” và phương
pháp tiệt khuẩn Pasteur được sử dụng tới ngày nay [23].
Chưa đầy một thế kỷ sau, một nghiên cứu quan trọng khác đã được tiến
hành. Theo dấu đại dịch tụ cầu những năm 1950, Rammelkamp và cộng sự đã
chứng minh rằng sự tiếp xúc trực tiếp là nguyên nhân chính làm lây truyền
Staphylococcus aureus. Họ cũng chứng minh rằng: việc rửa tay giữa những
lần tiếp xúc với bệnh nhân đã làm tỷ lệ nhiễm S.aureus giảm xuống mức thấp
hơn so với lây truyền qua không khí. Trong nghiên cứu của họ, tỷ lệ mang
tụ cầu ở nhóm RTTQ là 10% trong khi tỷ lệ mang tụ cầu ở nhóm chỉ rửa
tay khi cảm thấy cần lên tới 43%.
Trên da tay thường có cả hai loại vi khuẩn: vi khuẩn thường trú và vi
khuẩn vãng lai. Các vi khuẩn thường trú có độc tính thấp, ít khi gây nhiễm
trùng qua các tiếp xúc thông thường, song chúng có thể gây độc tính qua các
thủ thuật xâm lấn vào người bệnh. Các vi khuẩn vãng lai là những tác nhân
gây nhiễm trùng bệnh viện phổ biến, thường tồn tại trên da không quá 28



10

tiếng. Chúng không có khả nâng nhân lên trên da và dễ bị loại bỏ bằng rửa tay
với nước và xà phòng.
Ngày càng nhiều các nghiên cứu trên thế giới chứng minh vai trò của
RTTQ đối với việc làm giảm tỷ lệ nhiễm trùng liên quan tới chăm sóc y tế.
Theo Conly (1989), tỷ lệ nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế đã giảm
rõ rệt, từ 33% xuống còn 12% và từ 33% xuống còn 10%, ngay sau hai lần
can thiệp đẩy mạnh việc RTTQ cách nhau 4 năm.
Trong quá trình chăm sóc và điều trị, đôi bàn tay của nhân viên y tế rất
dễ bị ô nhiễm với các tác nhân gây bệnh. Mức độ ô nhiễm phụ thuộc vào loại
thao tác và thời gian thực hiện thao tác trên người bệnh. Ví dụ: sau các thao
tác như xoay trở người bệnh, bắt mạch, đo huyết áp, lấy nhiệt độ cơ thể, động
chạm vào vai, háng người bệnh, trên đôi tay sẽ có 100 đến 1000 khuẩn lạc
Klebsiella SPP. Sau các hoạt động như tiêm, truyền tĩnh mạch, chăm sóc
đường thở, sau khi tiếp xúc với các chất bài tiết của người bệnh, trên dôi tay
sẽ có 300 đơn vị khuẩn lạc (UFs)
Một trong những nghiên cứu nổi tiếng cho thấy lợi ích của việc tuân
thủ rửa tay được tiến hành từ năm 1995-1998 (có hồi cứu) là nghiên cứu
của GS.TS Didier Pittet tại BV thực hành Genever, Thụy Sỹ. Ông và cộng
sự đã tiến hành nhiều nghiên cứu về vệ sinh bàn tay. Trong nghiên cứu này
Pittet đã đưa ra khái niệm là tất cả những lần rửa tay với nước và xà phòng,
rửa tay với dung dịch sát khuẩn tại những thời điểm khuyến cáo rửa tay đều
được tính là sự tuân thủ rửa tay. Đối tượng được giám sát là tất cả cán bộ y
tế ở các khoa lâm sàng. Thời điểm giám sát là tất cả các ngày trong tuần,
20 phút đầu tiên của một ca làm việc. Thời gian giám sát được tính đến khi
nào thỏa mãn cỡ mẫu cần thiết. Những điều dưỡng chuyên ngành kiểm soát
nhiễm khuẩn thực hiện giám sát sự tuân thủ rửa tay. Để đánh giá hiệu quả



11

của chương trình rửa tay, nhóm nghiên cứu đã đưa ra các chỉ số đánh giá:
tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, tỷ lệ MRSA (tỷ lệ vi khuẩn kháng thuốc) và
mức độ tiêu thụ dung dịch rửa tay chứa cồn.
Bảng 1.1: Kết quả chương trình rửa tay qua nghiên cứu của Pittet và cộng sự
TT

Nội dung

1993

1994

1997

> 20.000 lượt rửa tay từ năm 1995
đến 1997
Sự tuân thủ rửa tay
- Điều dưỡng và trợ lý điều dưỡng
- Bác sĩ

48%

3

Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện

17,9%


9,9%

4

Tỷ lệ MRSA

2,17%

0,93%

6

Mức tiêu thụ dung dịch sát khuẩn 3,5
tay/1000 ngày điều trị bệnh nhân
lít

1
2

1998

66%
Tăng
Không tăng

15,4
lít

Bảng trên cho thấy: từ năm 1995-1997, trên 20.000 thời điểm khuyến

cáo rửa tay đã được quan sát, sự tuân thủ rửa tay tăng lên từ 48% đến 66%.
Tuy nhiên tỷ lệ tuân thủ rửa tay được cải thiện rõ rệt ở điều dưỡng, hộ sinh
nhưng tỷ lệ này không được cải thiện ở các bác sĩ. Tỷ lệ NKBV giảm từ 17,9
% (1994) xuống còn 9,9% (1997). Sự lan truyền vi khuẩn kháng
Methicilin/10.000 ngày điều trị/bệnh nhân giảm từ 2,17 % (1994) xuống còn
0,93% (1997) nhưng lượng tiêu thụ dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn lại tăng
từ 3,5 lít (1993) lên 15,4 lít (1997). Năm 2002, trong một báo cáo, Pittet đã
tuyên bố là từ năm 1999-2001, tỷ lệ NKBV duy trì ở mức 10% (giảm 6% so
với trước khi có chương trình rửa tay), trong khi kinh phí đầu tư cho chương
trình rửa tay chỉ là 290.000 USD, tính ra là đã tiết kiệm chi phí cho điều trị
nhiễm khuẩn trong 3 năm là 12 triệu đô la Mỹ [12,26].


12

Tại Việt Nam, kết quả điều tra về vấn đề NKBV năm 2000 do Sở Y tế
thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các chuyên gia y tế Pháp tiến hành cho
thấy: Trong 9.900 bệnh nhân (BN) của 24 đơn vị bệnh viện trên toàn địa bàn
thành phố phát hiện được 854 ca nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện (chiếm
tỷ lệ 8,6%), trong đó cao nhất là viêm phổi nhiễm khuẩn (26,5%), nhiễm
khuẩn do đặt thông tiểu là 18,8% [13]. NKBV là những nhiễm khuẩn mắc
phải trong thời gian nằm viện mà lý do nhập viện không phải do nhiễm trùng
ấy, thường xuất hiện sau 48 giờ nhập viện. Nhiễm khuẩn này không hiện diện
cũng như không ở trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện [6]. Hậu quả
của NKBV là kéo dài thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị, tăng tỷ lệ BN
tỷ vong, tăng nguy cơ tạo các chủng VK kháng thuốc [11]. NKBV đang trở
thành một gánh nặng thực sự của ngành y tế. Tăng cường sự tuân thủ RTTQ
là điều quan trọng nhất trong các cơ sở y tế, các bệnh viện.
Việc tăng cường thực hành RTTQ trong các bệnh viện ở Việt Nam đã ghi
nhận nhiều thành công. Tại bệnh viện Bình Dân, sau khi phát động chương

trình VSBT, tỷ lệ NKBV đã giảm từ 17,1% xuống còn 2,1%, thời gian nằm
viện và chi phí sử dụng kháng sinh cũng đã giảm [16]. Bệnh viện Bạch Mai
trong những năm gần đây đã chú trọng công tác chống NKBV, đồng thời tiến
hành tuyên truyền, tập huấn về công tác VSBT khi thăm khám bệnh nhân. Nhờ
vậy, tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện từ 1,5% (1995) giảm xuống còn 0,8% (2006).
Năm 2009, TCYTTG đã phát động Cuộc vận động toàn cầu tham gia
chiến dịch “Bảo vệ sự sống: hãy rửa tay”. Nhận thức được tầm quan trọng của
vệ sinh bàn tay trong khám, chữa bệnh, ngày 20/4/2009, TS. Nguyễn Thị
Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế đã đại diện cho Lãnh đạo Bộ Y tế ký văn bản ủng
hộ phong trào vệ sinh bàn tay và kiểm soát nhiễm khuẩn do TCYTTG phát
động, Việt Nam đã trở thành nước thứ 118 tuyên bố triển khai Cuộc vận động


13

toàn cầu này. Cũng trong năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số
18/2009/TT-BYT về việc hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác kiểm soát
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám, chữa bệnh. Đặc biệt là ngay điều đầu tiên
của Thông tư đã quy định về rửa tay [14].
Bệnh lây lan qua đường tiếp xúc mà bàn tay là cầu nối chủ yếu chiếm
đến 90%. Tổ chức Y tế thế giới khuyến cáo, chỉ một động tác RT sạch với
nước và xà phòng đã làm giảm tới 35% khả năng lây truyền vi khuẩn
Shigella, giảm rủi ro nhiễm khuẩn tiêu chảy tới 47%, nhiễm khuẩn đường hô
hấp tới 19-45% [20]. Quan trọng là tạo được thói quen RTXP thường xuyên,
đúng cách, nhất là tại các thời điểm trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Sau khi
đi vệ sinh, khi lau chùi phân/nước tiểu – nơi chứa nhiều vi khuẩn dễ dính vào
bàn tay và từ đó xâm nhập vào cơ thể hoặc lây lan sang người khác thông qua
tiếp xúc với bàn tay bẩn (sơ đồ 1.1).

Sơ đồ 1.1 Sơ đồ lây truyền bệnh đường phân-miệng



14

Kết quả xét nghiệm bàn tay người tại 11 tỉnh của Việt Nam cũng cho
thấy, tỷ lệ đối tượng có bàn tay nhiễm E.coli từ phân rất cao [4]. Do đó sau
khi đi vệ sinh, cần phải rửa tay ngay với xà phòng. Điều này không những
giúp giữ gìn thân thể sạch sẽ mà còn phòng chống lây nhiễm bệnh tật và còn
tạo được thói quen vệ sinh. Và cũng cần phải RTXP trước khi chuẩn bị thức
ăn và trước khi ăn để loại trừ các VK bám trên tay có thể lây lan vào thức ăn
và vào miệng.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng chỉ ra rất rõ lợi ích của RTXP.
Theo Luby và cộng sự, việc khuyến khích RTXP và tăng cường giáo dục cho
trẻ em nghèo tại Karachi, Pakistan đã làm giảm 40% tỷ lệ chốc, giảm 53% tỷ
lệ tiêu chảy, và giảm 50% tỷ lệ viêm phổi. Tỷ lệ trẻ em tới bác sĩ vì tiêu chảy
giảm 56% và giảm 26% số trẻ cần được nhập viện [18]. Theo nghiên cứu
phân tích của Aiello và nhóm nghiên cứu (2008), việc tăng cường RTXP giúp
làm giảm 31% bệnh đường tiêu hóa và giảm 21% bệnh hô hấp. RTXP là một
phương pháp có tính khả thi và hiệu quả về chi phí, giúp ngăn ngừa nhiễm
khuẩn ở các nước đang phát triển [20].
Tại hội thảo Vệ sinh cá nhân vì sức khỏe cộng đồng, ông Trần Đắc Phu,
Cục trưởng Cục Y tế dự phòng Bộ Y tế cho biết: “Vệ sinh tay xà phòng,
chúng ta nghĩ là đơn giản nhưng thực ra rất quan trọng, làm giảm nguy cơ
mắc các bệnh truyền nhiễm” [9]. Ngành y tế đã và đang đẩy mạnh tuyên
truyền lợi ích VSTXP, vận động thực hành thường xuyên VSTXP trong cộng
đồng [21,22], đặc biệt đây cũng là một cách hữu hiệu trong phòng chống đại
dịch cúm A (H1N1) đang bùng phát hiện nay [8]. Vi rút Cúm A (H1N1) là
một loại vi rút có khả năng lây từ người sang người. Đường lây truyền chủ
yếu của Cúm là qua các giọt bắn khi chúng ta nói chuyện, hắt hơi hoặc ho.
Các giọt bắn này mang mầm bệnh, chúng có thể lây trực tiếp qua đường hô



15

hấp hay qua đường tiếp xúc với dụng cụ, bề mặt và bàn tay có nhiễm dịch từ
đường hô hấp của người Cúm. Việc tăng cường VSTXP hoặc sát trùng tay với
dung dịch có chứa cồn mọi lúc, mọi nơi khi có tiếp xúc với bề mặt nguy cơ và
khi chăm sóc người bệnh tại gia đình, sau khi đi vệ sinh, sau khi ho, hắt hơi,
chùi mũi….sẽ làm hạn chế tối đa việc mắc cúm và giảm thiểu sự lây lan, bùng
phát dịch cúm [11].
Rất nhiều quốc gia trên thế giới sau khi phát động chiến dịch tăng
cường VST ngoài cộng đồng, trường học, đã làm giảm trên 40% tần suất BN
bị nhiễm trùng đường hô hấp (bao gồm cả cúm mùa), bị viêm phổi ở cộng
đồng và trẻ dưới 5 tuổi [11]. Hiệu quả VSTXP rất rõ, quan trọng để việc
VSTXP trở thành một thói quen của mỗi người dân là một thách thức lớn.
Ngày 15/10/2008 cùng với 20 quốc gia trên khắp thế giới, “Ngày thế giới rửa
tay với xà phòng” lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, gần 500 trường học
thuộc hơn 20 tỉnh thành phố trên cả nước hưởng ứng với sự tham gia của
hàng chục nghìn em học sinh và người dân. Mục đích của hoạt động này là
đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của toàn xã
hội, của mỗi người dân, đặc biệt là trẻ em trong việc thực hiện thường xuyên
VSTXP để phòng chống dịch bệnh. Hiện nay phương pháp vệ sinh tay nhanh
bằng dung dịch có chứa cồn, sử dụng rất tiện lợi,tiết kiệm được thời gian,diệt
khuẩn được các loại vi sinh vật bảm trên ban tay,ít thích ứng với da tay. Vậy
trong các cơ sở y tế đều lựa chon để sử dung vệ sinh tay nhanh, bảo đảm diệt
khuẩn, tiết kiệm thời gian, có hiệu quả tốt. ví dụ một số dung dịch sát khuẩn
tay nhanh, Microshicld.Cllorhexidine, Florol.Blossom, Hexanios,A Nios Gel,
cồn 70 độ.
1.3 Khuyến cáo 5 thời điểm vệ sinh tay của WHO:
1.3.1 Kỹ thuật vệ sinh tay bằng xà phòng:



16

1.3.1.1 Các phương pháp rửa tay
* Rửa tay thường quy
Rửa tay thường quy được chỉ định thường quy khi không có chỉ định rửa tay
phẫu thuật. Mục đích để loại bỏ chất dơ và vi sinh vật vãng lai trên tay. Thời
gian rửa thường 1 phút. Dùng xà phòng thường (nước hoặc bánh) để rửa tay
thường quy. Xem sơ đồ 4.1 về kỹ thuật rửa tay thường quy.
Sơ đồ 1 Kỹ thuật rửa tay thường quy

Bước 1: Tháo nữ trang, đồng hồ, bỏ vào túi. Làm ướt tay. Lấy 3-5 ml dung dịch rửa tay v
(hoặc chà xát bánh xà phòng lên toàn bộ lòng và mu bàn tay).

Bước 2: Chà mạnh tay trong 1 phút, chà hai lòng bàn tay vào nhau và chà lòng bàn tay nà
kia và ngược lại.

Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các ngón tay vào các kẽ ngón. Chà m
này lên lòng bàn tay kia và ngược lại (mu tay để khum khớp với lòng bàn tay).

Bước 4: Chà ngón tay cái của bàn tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại (lòng bàn tay
cái). Chà các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại


17

Bước 5: Rửa tay dưới vòi nước chảy, giữ bàn tay nằm dưới khủy tay để tất cả vi sinh vật
bồn
Bước 6: Làm khô tay bằng khăn sạch.



Từ bước 2 đến bước 4: Mỗi bước thực hiện ít nhất 5 lần sao cho thời
gian thực hiện các bước không quá 15 giây Cần điều chỉnh vòi nước
chảy với tốc độ vừa phải, không để quần áo chạm vào bồn rửa tay trong
suốt thời gian rửa tay



Nếu kẽ móng tay cáu bẩn thì dùng móng tay để làm sạch



Sử dụng khăn đã dùng lau khô tay để đóng vòi nuớc, không dùng bàn

tay đã rửa sạch để đóng vòi.
1.3.1.2 Rửa tay không dùng nước bằng dung dịch chứa cồn
Rửa tay không dùng nước bằng dung dịch chứa cồn nên được áp dụng khi
không có điều kiện rửa tay bằng nước và xà phòng nhưng chỉ khi tay không
thấy rõ vết dơ. Nếu tay có vết dơ rõ, nên rửa tay thường quy hay phẫu thuật.
Cách rửa tay: Bỏ 3–5 ml dung dịch rửa tay chứa cồn vào lòng bàn tay và chà
tay vào nhau theo các bước tương tự như rửa tay thường quy cho đến khi tay
khô (sơ đồ 4-2)
Sơ đồ 2 Kỹ thuật rửa tay không dùng nước bằng dung dịch chứa cồn

Bước 1: Lấy 3-5 ml dung dịch rửa tay vào lòng bàn tay

Bước 2: Chà mạnh tay trong 1 phút, chà hai lòng bàn tay vào nhau và chà lòng bàn tay nà



18

kia và ngược lại.

Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các ngón tay vào các kẽ ngón. Chà m
này lên lòng bàn tay kia và ngược lại (mu tay để khum khớp với lòng bàn tay).

Bước 4: Chà ngón tay cái của bàn tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại (lòng bàn tay
cái). Chà các đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại

Chú ý: Khi hoàn thành bước 4 mà tay vẩn chưa khô thì tiến hành lại từ bước 2 đến 4 cho
1.3.1.3 Rửa tay phẫu thuật
Rửa tay phẫu thuật được tiến hành trước khi thực hiện bất kỳ thủ thuật xâm
nhập mà có thể tiếp xúc với niêm mạc, hoặc mô nằm dưới lớp da bảo vệ. Mục
đích để loại bỏ vi sinh vật vãng laivà thường trú trên tay. Rửa tay phẫu thuật
luôn luôn thực hiện trước khi mang găng. Môi trường ẩm ấm bên trong găng
có thể kích thích sự phát triển của vi sinh vật và nếu găng rách có thể truyền
cho bệnh nhân. Thời gian rửa tay thường 3 phút. Dùng xà phòng kháng khuẩn
(phụ lục 1) để rửa tay phẫu thuật. Quan trọng phải giữ móng tay ngắn và
không sơn móng tay. Không mang móng tay giả. Xem sơ đồ 4-3 về kỹ thuật
rửa tay phẫu thuật.
Sơ đồ 3 Quy trình rửa tay phẫu thuật


19

Bước 1: Tháo tất cả nữ trang (nhẫn, đồng hồ, vòng đeo tay ..)
trên tay và cổ tay.
Bước 2: Làm ướt tay dưới vòi nước chảy, nước ấm
Bước 3: Rửa dưới móng bằng dũa hay bàn chải.


Bước 4: Đưa bàn tay trên khủyu tay. Sử dụng xà phòng nước
sát khuẩn. Bắt đầu từ đầu ngón của một tay, rửa theo vòng tròn
đi xuống đến khuỷu tay để đảm bảo tất cả các bề mặt đều sạch.
Rửa tay kia theo cách tương tự. Bước này kéo dài khoảng 3 – 5
phút.
Bước 5: Cho nước chảy vào từng tay riêng để nước chảy từ
ngón tay xuống khủyu tay.

Bước 6: Dùng khăn vô khuẩn, lau ngón tay rồi bàn tay rồi đến
cánh tay. Dùng mặt khăn khác nhau cho mỗi tay.

Bước 7: Giữ tay trên thắt lưng ngón tay đưa lên trên. Không
đựoc sờ bất kỳ vật gì khác trước khi mang găng.

Ghi chú: Trường hợp không có dung dịch xà phòng sát khuẩn,
tiến hành các bước trên với xà phòng và cuối cùng rửa tay bằng
dung dịch rửa tay chứa cồn từ ngón tay đến khủyu tay và đợi


20

đến khi khô.
1.3.2 Những phương tiện cần thiết cho việc rửa tay
Nước máy, xà phòng, khăn lau tay cần có sẵn ở những vị trí thích hợp
1.3.2.1 Xà phòng và dung dịch rửa tay
Xà phòng rửa tay có thể là dạng dung dịch nước hay xà phòng bánh. Tốt nhất
nên dùng bình xà phòng dạng dung dịch có vòi.
Xà phòng thường (trung tính, dạng bánh hoặc dung dịch): Xà phòng chứa acid
béo đã ester hóa và sodium hay potassium hydroxide. Lấy đi được những

chủng VSV vãng lai bám lỏng lẻo trên da. Có thể dùng trong rửa tay thường
quy. Dung dịch rửa tay đang sử dụng trong bệnh viện là Pose liquid soap.
Xà phòng khử khuẩn (dạng bánh hay dạng dung dịch): Xà phòng chứa chất
sát khuẩn. Para –chloro –meta xytenol thướng được sử dụng như là hoạt chất
chính của các loại xà phòng sát khuẩn. Dùng trong rửa tay thường quy.
Dung dịch rửa tay sát khuẩn: chứa 2%-4% chlorhexidine; hoặc 5%-7%
providone iodine; hoặc 1% triclosan. Dùng trong rửa tay phẫu thuật. Các loại
dung dịch sát khuẩn đang sử dụng tại bệnh viện là Microshield 2% và 4%
(dùng trong phòng mổ).
Dung dịch khử khuẩn không dùng nước: Có thể chứa một trong các hóa chất
sau: Alcohol, Chlorhexidine, Chlorine, Hexachlorophene, Iodine, Para chloro
meta xylenol, hợp chất ammonium bậc 4 và Triclosan va có kèm chất dưỡng
da
Bình đựng dung dịch cần có nhãn ghi rõ loại dung dịch rửa tay đang sử
dụng, gắn trên tường hay xe tiêm, hay ở những vị trí thuận lợi cho người sử
dụng. Nếu dùng lại bình đựng dung dịch, cần phải rửa sạch bình trước khi bỏ
dung dịch mới vào, không bỏ dung dịch vào bình đang sử dụng còn một phần,
vì sẽ làm cho xà phòng bị nhiễm khuẩn. Nếu không có xà phòng nước, bánh


21

xà phòng phải được đặt trên hộp đựng xà phòng có lỗ để nước nhỏ xuống sau
khi sử dụng. Nên cắt xà phòng bánh thành từng miếng nhỏ để thay xà phòng
thường xuyên hơn, ngăn ngừa sự phát triển của vi sinh vật
1.3.2.2 Nước rửa tay
1.

Nước rửa tay phải là nước chảy, nước máy hoặc nuớc sạch chứa trong
thùng có nắp đậy kín và có vòi.


2.

Vòi nước nên có cần gạt, bồn rửa tay phải luôn giữ sạch, đặt ở vị trí
tiện lợi.
Nước tù đọng chứa trong hồ là nơi nuôi dưỡng vi sinh vật gây bệnh không
nên sử dụng.
4.3.3 Làm khô tay
Không được dùng khăn sử dụng nhiều lần. Dùng khăn sợi bông sử
dụng một lần và giặt hàng ngày, hoặc khăn giấy.
Có hộp đựng khăn sạch.
Đặt tại bất cứ vị trí nào có tiếp xúc với bệnh nhân, ví dụ phòng thay đồ,
phòng khám, phòng xét nghiệm và bệnh phòng.
Nếu không có khăn, để cho tay khô tự nhiên, không chùi vào áo quần hay
đồng phục. Không dùng máy thổi khí để làm khô tay vì nó sẽ thổi vi sinh vật
vào các bề mặt, vào tay và vào không khí.

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Mọi nhân viên y tế đang làm việc và học tập tại các khoa lâm sàng, là các bác
sỹ, điều dưỡng, hộ lý, học viên.


22

2.2.Tiêu chuẩn chọn mẫu:
2.2.1 Tiêu chuẩn chọn: Nhân viên y tế đang làm việc tại khoa nghiên cứu có
cơ hội thực hiện cần vệ sinh tay trong 5 thời điểm khuyển cáo của WHO.

2.2.2 Tiêu chuẩn loại trừ: Các đối tượng không phải là nhân viên y tế.
2.3. Vật liệu nghiên cứu:
Phiếu giám sát tuân thủ Vệ sinh tay: được xây dựng theo bộ công cụ giám
sát tuân thủ VST của Tổ chức Y tế Thế giới.
2.4.Cỡ mẫu:
Công thức tính cỡ mẫu điều tra mô tả cắt ngang:
p(1 – p)
2

n = Z (1 – α/2)

DE
2

d
Trong đó,
n là cỡ mẫu nghiên cứu
Z(1 – α/2) = 1,96 .
p= 35% (tỷ lệ ước lượng).

d sai số tối đa của ước lượng d= 0,05; hệ số thiết kế DE = 4 (cỡ
mẫu phân tầng cho 4 nhóm đối tượng).
Tính n = 1398
Thực tế trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu
thu thập số liệu được 1856 cơ hội trong khuôn khổ phù hợp của đối tượng
nghiên cứu.
2.5. Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
- Thời gian: từ ngày 4/3/2014 đến hết ngày 12/10/2014



23

- Địa điểm: Các khoa lâm sàng trong Bệnh viện quân y 175 có nhân
viên y tế thực hiện chăm sóc và điều trị cho người bệnh.
2.6. Phương pháp nghiên cứu:
2.6.1.Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
2.6.2. Kỹ thuật thu thập dữ liệu:
Nghiên cứu thực hiện bằng cách quan sát mô tả trực tiếp tại buồng
bệnh. Người thực hiện quan sát là 2 giám sát viên đã được tập huấn về cách
lấy mẫu và chọn vị trí quan sát không làm ảnh hưởng, chi phối đến các nhân
viên y tế được giám sát. Các đối tượng được quan sát ngẫu nhiên trong
khoảng thời gian từ 8 – 9,00 giờ hàng ngày từ thứ 2 đến thứ 6. Dữ liệu được
điền vào mẫu điều tra chuẩn của WHO.
Xác định tỷ lệ tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế trong tất cả các cơ hội
tiếp xúc với bệnh nhân mà bắt buộc phải rửa tay.
Số cơ hội có rửa tay

x 100

Số cơ hội cần phải rửa tay
Công thức xác định tỷ lệ tuân thủ rửa tay (C%):
C%

=

2.7.Các biếu số:
- Biến số độc lập: khối nội, khối ngoại, khối CLS, bác sỹ,điều dưỡng,hộ
lý, học viên (trước tiếp xúc bệnh nhân,trước thủ thuật vô khuẩn, sau tiếp xúc
dịch,sau tiếp xúc bệnh nhân,sau xờ môi trường xung quanh).
- Biến số phụ thuộc: Phương pháp vệ sinh tay ( vệ sinh tay bằng cồn, xà

phòng và nước, không vệ sinh tay).


24

- Quản lý, xử lý và phân tích số liệu: Số liệu sau khi được thu thập
được làm sạch và nhập vào máy tính bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0 để
phân tích số liệu. Kiểm định chi bình phương được sử dụng để so sánh tỷ lệ
tuân thủ rửa tay giữa các đối tượng nghiên cứu. Mức ý nghĩa thống kê p< 0,05
được sử dụng trong thống kê suy luận.
2.8. Sai số và cách khắc phục sai số
- Bộ phiếu điều tra được thử nghiệm trên 5 nhân viên y tế ngẫu nhiên
trước khi điều tra chính thức.
- Các phiếu chưa điều đủ thông tin được loại ra khỏi nghiên cứu.
- Quá trình nhập số liệu vào máy được thực hiện 2 lần và được kiểm tra
đối chiếu với từng phiếu.

-

2.9. Đạo đức nghiên cứu:
Nghiên cứu được sự thống nhất và đồng ý của Hội đồng khoa học
thông qua thuyết minh đề tài cấp bệnh viện.
- Nghiên cứu không công bố các thông tin cá nhân mà chỉ mang tính tổng
hợp thực trạng chung để giúp cho khoa Kiểm Soát Nhiễm Khuẩn làm cơ sở
tham mưu cho Ban Giám đốc xây dựng quy chế tối ưu về thực hành tuân thủ
rửa tay trong quá trình chăm sóc và điều trị người bệnh, giúp các cấp quản lý
bệnh viện nhìn nhận thực trạng và có những hướng xây dựng kế hoạch,chỉ
đạo thực hiện việc tuân thủ rửa tay của nhân viên y tế và học viên tại các khoa
lâm sàng trong thời gian tới.


CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Tuân thủ rửa tay chung.
Bảng 3.1. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay chung.


25

Cơ hội VST (N)

Thực hiện VST (NRT)

Tỷ lệ (%)

1856

893

48.11

N: Tổng số cơ hội được quan sát
(NRT): Số cơ hội thực hiện tuân thủ VST của các đối tượng được quan
sát.
Nhận xét:
Tuân thủ vệ sinh tay là 893 trong tổng số 1856 cơ hội quan sát cần vệ
sinh tay, chiếm 48.11%.

3.2. Tuân thủ vệ sinh tay ở các đối tượng được quan sát:
Bảng 3.2. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay ở các đối tượng được quan sát

Cơ hội
Đối tượng
Bác sĩ
Điều dưỡng
Hộ lý
Học viên
(+)
p (phân tích đa biến)

Trước
TXBN

Trước
TTVK

Sau
TX dịch

Sau
TXBN

Sau xờ
MT

81/208
22/49
38,9%
44,8%
247/390 68/117
63,3%

58,1%
20/87
3/9
22,9%
33,3%
74/170
34/59
43,5%
57,6%
422/855 127/234

16/32
50,0%
72/107
67,2%
1/10
10,0%
21/49
42,8%
110/198

19/65
29,2%
73/121
60,3%
8/35
22,8%
18/64
28,1%
118/285


18/51
156/405
35,2%
38,5%
66/102 526/837
64,7%
62,8%
12/80
44/221
15,0%
19,9%
20/51
167/393
39,2%
42,4%
116/284 893/1856

(+)

p< 0,03

Nhận xét:
Đối tượng điều dưỡng có tỷ lệ tuân thủ thời điểm vệ sinh tay cao nhất
63.3%; 58,1%; 67,2%; 60,3%; 64,7% (Tỷ lệ chung là 62,8%). Đối tượng hộ


×