Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.44 KB, 16 trang )

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA SAU ĐẠI HỌC

TIỂU LUẬN
Môn Triết học
ĐỀ TÀI
Vận dụng nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính
năng động chủ quan” trong lĩnh vực kinh tế, chính trị ở Việt
Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay.

Họ và tên:
Lớp: Quản lý công - HC21B8
GVHD: TS. Lê Thị Hằng

HÀ NỘI 2017


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………………………………

1

B. PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………...

2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG
KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN”……

2


1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan”…………………………………………………………………………………

2

1.1. Vật chất…………………………………………………………………...………...

2

1.2. Ý thức……………………………………………………………………………....

3

1.3. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức…………………………………..

3

2. Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “tôn trọng khách quan và phát huy
tính năng động chủ quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn…….

4

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT
HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN” TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ, CHÍNH
TRỊ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY

7

1. Quan điểm của Đảng về vận dụng nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy
tính năng động chủ quan”


7

2. Vận dung nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan” trên lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay

8

3. Vận dung nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan” trên lĩnh vực chính trị ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay

11

KẾT LUẬN

13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. PHẦN MỞ ĐẦU

A. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
3


CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CỦA NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH
QUAN, PHÁT HUY TÍNH NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN”
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động

chủ quan”.
Cơ sở lý luận chung của nguyên tắc “ tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động
chủ quan” là quan điểm của chủ nghĩa duy vật khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức
1.1. Vật chất
Theo định nghĩa của V.I.Lê Nin trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán : Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà
con người biết được qua cảm giác, Được cảm giác chụp lại, chép lại, phản ánh, tồn tại
không phụ thuộc cảm giác
Trước hết, Lê nin trong định nghĩa vật chất đã dùng định nghĩa đặc biệt khác với
thông thường. Nghĩa là đem đối lập giữa vật chất với ý thức để định nghĩa . Nghĩa là tất
cả những gì bên ngoài độc lập với ý thức con người đều là vật chất.
Về nội dung vật chất: có 2 nội dung chính:
- Thứ nhất: vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan và con
người biết được qua cảm giác.
- Thứ hai: Cảm giác chụp lại, nhắc lại và phản ảnh những tồn tại không phụ thuộc
cảm giác. Nghĩa là vật chất là cái mà con người có thể nhận biết được, chỉ có cái chưa
biết nhưng rồi con người sẽ biết thông qua nhận thức
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Nói
cách khác, vật chất tồn tại bằng hình thức vận động, thông qua vận động mà biểu hiện ra
nó là gì. Nhận thức sự vận động của vật chất là nhận thức chính bản than sự vật, hiện
tượng.
Vận động của vật chất là sự vận động tự thân, mọi sự vật hiện tưởng của thế giới vật
chất đều do các mặt, các yếu tố hợp thành, sự liên hệ tác động giữa chúng làm cho vật
chất vận động.

4


Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, mà vật chất không do ai sinh ra và

không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, định luật bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng đã chứng minh điều đó.
1.2. Ý thức
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan lên bộ óc con người dựa trên cơ sở hoạt
động thực tiễn, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Qua đây ta thấy:
Thứ nhất: Bản chất của ý thức là sự phản ánh thực tại khách quan trên cơ sở hoạt
động thực tiễn. Ý thức không phải là huyền bí mà bản chất của nó là sự phản ảnh tức là có
cả cái phản ảnh (ý thức) và cái được phản ánh (vật chất). ở đây cái được phản ánh sẽ
quyết định cái phản ánh.
Thứ hai: hình ảnh chủ quan - ý thức là hình ảnh chứ không phải là bản thân sự vật.
Nghĩa là bản thân sự vật được di chuyển vào óc người và được cải biến trong đó. Vì thế
nội dung phản ảnh mang tính khách quan. Mức độ cải biến đến đâu là do chủ thể.
Thứ ba: đây là phản ánh tích cực chủ động, sáng tạo:
- Tích cực chủ động là con người không thụ động chờ đợi hoàn cảnh khách quan mà
chủ động tác động vào khách quan để khách quan bộc lộ thuộc tính. Con người nhận thức
để cải tạo thế giới khách quan theo mục đích của mình.
- Tính sáng tạo là ý thức phản ánh sự vật và đi sâu vào bản chất sự vật, dự kiến được
xu hướng phát triển của sự vật để con người chủ động đón trước. Mác nói: con người tái
tạo tự nhiên theo quy luật của cái đẹp.
Ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Đó là: Tri thức, tình cảm ý chí… Trong đó, tri thức là quan trọng nhất. Mác nói: Tri
thức là phương thức tồn tại của ý thức.
1.3. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trong đó vai trò quyết định thuộc về vật chất, mặt khác ý thức có thể tác động ngược trở
lại vật chất thông qua hành động thực tiễn của con người.
* Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức được thể hiện như sau:
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định sự hình thành ý thức

5



- Vật chất quyết định nội dung ý thức, vì ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc của con người, nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan
- Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức. Bản chất của ý thức là sự
phản ánh hiện thực khách quan trong điều kiện tự nhiên thay đổi, quan hệ vật chất thay
đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
- Vật chất là điều kiện để hiện thực hóa ý thức: Mỗi cá nhân, tổ chức đều có ý niệm
và mục đích riêng, do đó phải có vật chất thì ý nguyện đó mới thành hiện thực.
* Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thông qua sự chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người
- Nếu ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, trên cơ sở đó chỉ đạo hoạt động
thực tiễn của con người và đưa hoạt động thực tiễn của con người đi đến thành công.
- Ngược lại, nếu ý thức không phản ánh đúng hiện thực khách quan thì hoạt động
thực tiễn của con người mang tính chủ quan, duy ý chí, hành động trái quy luật.
2. Yêu cầu của nguyên tắc phương pháp luận “ tôn trọng khách quan, phát huy tính
năng động chủ quan” trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
Vì vật chất quyết định ý thức, sinh ra ý thức cho nên mọi chủ trương, chính sách,
hoạt động nhận thức, hoạt động con người đều phải xuất phát từ hiện thực khách quan và
hoạt động tuân theo quy luật khách quan, nghĩa là chúng ta phải có quan điểm khách quan
trong nhận thức hoạt động thực tiễn. Xuất phát từ hiện thực khách quan, không phải từ
những cái lẻ tẻ của hiện thực khách quan, phải xuất phát từ cái chung là quy luật khách
quan.
Vì ý thức có tính độc lập tương đối, có tính năng động sáng tạo có thể tác động trở
lại vật chất thông qua hoạt động con người, cho nên cùng với xuất phát từ cái hiện thực
khách quan thì phải phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực ý
thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.
Nếu chỉ có thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế giới vật
chất, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức song ý thức có thể tác động
ngược trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người thì nguyên tắc phương

pháp luận được rút ra để định hướng cho hoạt động của con người là:“ Trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức, con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phải phát huy
tính năng động chủ quan của mình”.
6


2.1. Tôn trọng khách quan
Tôn trọng khách quan là tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Điều này đòi hỏi
trong nhận thức và hành động con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách
quan làm cơ sở, phương tiện cho hành động của mình. Biểu hiện của tôn trọng khách
quan là:
Thứ nhất, mục đích, đường lối, chủ trương con người đặt ra không được xuất phát từ
ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất
yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Thứ hai, khi có mục đích, đường lối, chủ trương đúng, phải tổ chức được lực lượng
vật chất để thực hiện.
=> Xuất phát từ thực tế khách quan phải đi từ bản thân sự vật với tất cả đặc tính, các
thuộc tính của sự vật và các quan hệ của nó để tìm ra bản chất, xu hướng vận động và
phát triển theo quy luật. Từ đó rút ra kết luận về sự vật, hiện tượng, trên cơ sở đó đề ra
phương hướng và các giải pháp tác động, cải biến sự vật, thế giới tự nhiên phục vụ lợi ích
của con người, không được áp đặt ý muốn chủ quan của chủ thể vào sự vật.
2.2. Phát huy tính năng động chủ quan
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của
ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa những tính chất ấy.
Phát huy tính năng động chủ quan thể hiện rất đa dạng phong phú, trong đó bao gồm các
biểu hiện cơ bản sau:
Thứ nhất, phải thấy được vai trò quan trọng, quyết định của nhân tố con người
Thứ hai, phải tôn trọng tri thức khoa học
Thứ ba, phải làm chủ tri thức khoa học, truyền bá tri thức khoa học vào quần chúng
để nó trở thành niềm tin định hướng cho quần chúng hành động

Thứ tư, phải tích cực chống các biểu hiện chủ quan, duy ý chí.

7


=> Phát huy tính tích cực, con người không thụ động chờ đợi thời cơ chính muồi
mới hành động mà phải biết tạo ra các điều kiện thuận lợi, làm điều kiện này tác động vào
điều kiện khác làm nảy sinh điều kiện cần thiết cho hoạt động của con người. Muốn thực
hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn, phải có ý chí và phương pháp để tổ chức
hành động; ý thức tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai,
thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện cụ thể, điều kiện khách quan nhất
định.

CHƯƠNG 2.
8


VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC “TÔN TRỌNG KHÁCH QUAN, PHÁT HUY TÍNH
NĂNG ĐỘNG CHỦ QUAN” TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
1. Quan điểm của Đảng ta về vận dụng nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy
tính năng động chủ quan”
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền
tảng tư tưởng và vận dụng tư tưởng lý luận đó vào thực tế cách mạng nước ta để đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ. Một trong những vận dụng cơ sở lý
luận của triết học Mác Lênin vào công cuộc đổi mới đất nước mà Đảng đã khởi xướng bắt
đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV là nguyên tắc khách quan, một nguyên tắc được rút ra từ
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Việc tìm hiểu quy luật khách quan trên
cơ sở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để vận dụng đúng đắn quy luật này vào thực
tiễn là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Văn kiện Đại Hội toàn quốc lần thứ 6 của Đảng ta đã nêu rõ:”Đảng ta luôn luôn xuất
phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo qui luật khách quan". Chúng ta biết rằng quan
điểm khách quan đòi hỏi trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ bản thân
sự vật hiện tượng, phải thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các qui
luật tự nhiên và xã hội, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan.
Bài học mà Đảng ta đã nêu ra, trước hết đòi hỏi Đảng nhận thức đúng đắn và hành
động phù hợp với hệ thống qui luật khách quan. Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nhất là tư
duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là xây dựng
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
nhiều chặn đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ .
Mổi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước phải xuất phát từ thực tế khách
quan của đất nước và phù hợp qui luật. Chúng ta biết rằng ý thức là sự phản ánh hiện thực
khách quan trong quá trình con người cải tạo thế giới. Do đó càng nắm bắt thông tin về
thực tế khách quan chính xác, đầy đủ trung thực và sử lý các thông tin ấy một cách khoa
học thì quá trình cải tạo thế giới càng hiệu quả .Đồng thời cần thấy rằng sức mạnh của ý
thức là ở năng lực nhận thức và vận dụng tri thức củng như các qui luật của thế giới khách
quan.
Bài học ấy có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong quá trình đổi mới đất nước. Hiện nay,
trong tình hình đổi mới của cục diện thế giới và của cách mạng ở nước ta đòi hỏi Đảng ta
không ngừng phát huy sự hiệu quả lảnh đạo của mình thông qua việc nhận thức đúng, tranh
9


thủ được thời cơ do cách mạng khoa học công nghệ, do xu thế hội nhập và toàn cầu hoá
đem lại, đồng thời xác định rỏ những thách thức mà cách mạng nước a trãi qua.
2. Vận dụng nguyên tắc ”tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan”
trong lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Trước năm 1986, mô hình kinh tế của Việt Nam là mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều hạn chế, cùng với một nền kinh tế gần như kiệt quệ
sau sự tàn phá của chiến tranh đã khiến nên kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng, trì

chệ về mọi mặt.
Trong khi đó, trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang đứng trước nguy cơ tan
rã với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, xu thế toàn cầu
hóa, hội nhập, mở cửa đang diễn ra trên phạm vi toàn thê giới.
Thực tiễn khách quan đó cho thấy mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không
còn phù hợp với tình hình mới và cần có những thay đổi. Việc đánh giá và nhận diện thực
trạng những vấn đề cốt lõi của nền kinh tế kém hiệu quả trước năm 1986 là nắm bắt
những hiện tượng kinh tế trong thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội để đổi mới tư duy lý
luận về mô hình kinh tế; định hướng những giải pháp đồng bộ, khả thi theo nguyên tắc
tôn trọng khách quan phát huy tính năng động chủ quan. Sau đại hội đảng VI năm 1986,
vấn đề này đã được nhìn lại một cách toàn diện để có những đổi mới trong tư duy cũng
như thực tiễn xây dựng mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang theo đuổi.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã
chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là muốn đảm bảo thành
công thì phải vận dụng đúng nguyên tắc khách quan: “Mọi đường lối, chủ trương của
Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng khách quan”
Nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan” đã được
Đảng ta vận dụng trong lĩnh vực kinh tế như sau:
Thứ nhất chuyển đổi từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao
cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng xác định: kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở giai đoạn cao,
trong đó yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều thông qua thị trường. Các chủ thể kinh tế đều
chịu sự tác động quy luật thị trường và thái độ ứng xử của họ đều tìm kiếm lợi ích cho
mình thông qua sự điều tiết của giá cả. Vận dụng bài học tôn trọng khách quan, phát huy
10


tính năng động chủ quan, để thực hiện được tư duy đổi mới đó, cần phải tổ chức lực
lượng vật chất để thực hiện nó. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình
chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng
tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định
hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường,
nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất
nước.
Tôn trọng khách quan luôn gắn liền với việc phát huy tính năng động chủ quan.
Chuyển đổi kinh tế sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực tế khách
quan. Tuy nhiên, trong quá trình đó, không thể dập khuân máy móc theo mô hình của bất
kỳ nước nào (như trước kia chúng ta lấy mô hình của Liên Xô làm khuân mẫu tuyệt đối)
mà có vận dụng, biến đổi cho phù hợp với những đặc điểm riêng của Việt Nam.
Thứ hai, Đảng ta thực hiện chủ trương khuyến khích phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng về sở hữu.
Thay vì nền kinh tế chỉ có hai thành phần như trước năm 1986 thì hiện nay nền kinh
tế bao gồm năm thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã, kinh tế tư bản nhà
nước, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cả thể tiểu chủ. Nhà nước thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có cơ hội
phát triển và bình đẳng trước pháp luật. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
hoạt động trong những lĩnh vực then chốt ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hướng dẫn,
định hướng, kích thích cho các thành phần kinh tế khác phát triển nhằm mục đích chung
là phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để tạo khuân khổ pháp lý cho các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động, nhà nước đã ban hánh, sửa đổi nhiều văn
bản pháp luật. Bước đột phá quan trọng là việc nhà nước mở rộng quyền kinh doanh xuất


11


nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế kể cả các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, về cơ chế vận hành, chúng ta đã xóa bỏ cơ chế hành chính, tập trung,
quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Theo đó, các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh có quyền tự lựa chọn mặt hàng kinh
doanh (trong khuân khổ pháp luật) mà không phải tuân theo sự áp đặt của nhà nước như
trước kia. Còn người mua có quyền lựa chọn hàng hóa, số lượng, mẫu mã theo nhu cầu và
khả năng thanh toán của mình (khác với việc nhà nước phân phối định lượng bình quân
trong cơ chế cũ). Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp lấy hiệu quả kinh
tế và lợi nhuận là mục tiêu quan trọng thay vì thể hiện ý chí của nhà nước. Giá cả hàng
hóa do thị trường quyết định phụ thuộc vào các quan hệ cung cầu, cạnh tranh. Tuy nhiên,
cơ chế thị trường phải đặt dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước nhằm đảm bảo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, nên kinh tế nước ta cũng được chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền
kinh tế mở cửa và hội nhập.
Quan hệ kinh tế được thiết lập không chỉ với các nước Xã hội chủ nghĩa mà được
mở rộng với tất cả các quốc gia trên thế giới trên cơ sở mối quan hệ hợp tác, cùng có lợi
và tôn trọng nhau.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đã mang lại cho Việt Nam rất
nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế.
Sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế giúp chúng ta huy động tối đa các nguồn
lực trong và ngoài nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Các
doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả hơn.
Các mối quan hệ thương mại của Việt Nam cũng được mở rộng đáng kể, từng bước
hội hội nhập kinh tế khu vực và đất nước. Vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao. Năm 2007. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức

thương mại thế giới WTO, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Tốc độ tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thời kỳ 1992-1997 tăng bình
quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008 và 2011 do chịu ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,31% và 5.89%
12


=> Như vậy, có thể thấy rằng: Sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của chủ nghĩa
xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực
tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
3. Vận dụng nguyên “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan”
trong lĩnh vực chính trị ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Áp dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy năng động chủ quan trên lĩnh
vực chính trị ở Việt Nam hiện nay:
Đảng ta khẳng định “Chính trị là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn và hết sức quan
trọng, nó quyết định vận mệnh của đất nước và sự phát triển của xã hội và con người.
Trình độ xử lý các tình huống chính trị một cách khoa học và nghệ thuật không chỉ đem
lại sự độc lập và ổn định chính trị mà còn là điều kiện cho việc phát triển kinh tế - văn hóa
- xã hội, phát triển con người, xây dựng và phát triển đất nước. Bản chất chính trị, lý
tưởng chính trị, trình độ hoạt động chính trị hướng tới một xã hội nhân đạo, nhân văn, tất
cả vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội và con người, nói lên văn hóa chính trị của một
nền chính trị”
Vận dụng nguyên tắc tôn trọng khách quan, phát huy năng động chủ quan trên lĩnh
vực chính trị, Đảng ta xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để lãnh đạo đất
nước nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn, đạt được mục tiêu cao cả đã đề ra, Đảng - người
lãnh đạo đất nước, phải có một đội ngũ cán bộ có văn hóa chính trị cao, có trình độ và khả

năng thực hiện các nội dung chính trị một cách văn hóa. Chính vì thế, Đảng luôn tiến
hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự
đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân. Bản chất văn hoá chính trị tiến bộ cũng xa lạ
với tệ quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng
ta đã tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ
vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn
kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây
dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm nhiệm vụ
cách mạng".

13


Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở rộng dân
chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa... đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới
ở nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức trong
quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao chất lượng
tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những tồn đọng, những vấn đề
gây bức xúc trong dân hiện nay..., sẽ là những yếu tố quan trọng để nâng cao hơn nữa tính
văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng, để Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là
đạo đức, là văn minh”

3. PHẦN KẾT LUẬN
Từ năm 1986 đến nay là thời kỳ đất nước ta tiến hành đổi mới và có những chuyển
biến mạnh mẽ trên khắp các lĩnh vực, tiêu biểu là lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị.
14



Nguyên tắc “tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn” luôn được Đảng ta chú trọng, nhờ vậy quá trình đổi
mới đã đạt được những kết quả tốt đẹp
Khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản Việt Nam luôn
luôn xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
đưa nền kinh tế Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu bị chiến tranh tàn phá chuyển
thành một nước công nghiệp đang đà phát triển.
Nhờ vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước ta, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng
cao, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng củng cố và đất nước đó ra khỏi cuộc khủng hoảng
kinh tế xã hội và đang có những bước chuyển biến tích cực trong tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội, đặc biệt là chuyển biến chính trị từ một nước có nền chính trị khép kín sang
một quốc gia có năng lực hội nhập sâu rộng, là đối tác chính trị tin cậy của nhiều quốc gia
trên thế giới.
Những kết quả và những chuyển biến kinh tế xã hội của Việt Nam một lần nữa
khẳng định lại tính đúng đắn và khoa học của triết học Mác Lê Nin nói chung và nguyên
tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng.
Trên con đường phát triển, đổi mới nền kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn còn
nhiều khó khăn thách thức, để đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
đưa đất nước chuyển mình thành nước công nghiệp phát triển, Việt Nam vẫn luôn tin
tưởng và hi vọng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đảng ta với nền tảng lý luận là chủ
nghĩa Mác Lê Nin, với kinh nghiệm lãnh đạo tài tình được minh chứng bằng lịch sử, với
đường lối cách mạng sáng suốt trên cơ sở “ tôn trọng khách quan, phát huy tính năng
động chủ quan”, chắc chắn sẽ lãnh đạo thành công đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng một nhà nước giàu mạnh, công bằng, phồn vinh.

15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học (dành cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc ngành triết), Bộ GD-ĐT, Nhà xuất bản chính trị - Hành chính, năm 2010.
2. Giáo trình triết học (dành cho Học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc
ngành khoa học xã hội – nhân văn), Nhà xuất bản chính trị - Hành chính, Hà Nội 2013
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) .Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội.
7. Đại hoc QG Hà Nội, Khoa Triết học (2003), Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội .
8. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002), Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam lý luận thực tiễn, Nxb CTQG, Hà Nội .
9. Vũ Văn Hiền, Đinh Xuân Lý (2004), Đổi mới ở Việt Nam tiến trình thành tựu và
kinh nghiệm, Nxb CTQG, Hà Nội.
10. Trang mạng />


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×