Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Thiết kế và chế tạo mô hình máy làm bánh nhân kem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.51 MB, 51 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
đề tài “Thiết kế và chế tạo mô hình máy làm bánh nhân kem”.


CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG SẢN XUẤT TỰ ĐỘNG
Ngày nay, việc tự động hoá trong sản xuất là một nhu cầu cấp
thiết nhằm nâng cao năng xuất lao động. Hệ thống sản xuất tự động
ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các phân xưởng, nhà máy. Sự
phát triển của kỹ thuật bán dẫn điện tử, cùng với việc ra đời của các
linh kiện điện tử, chúng đã được áp dụng trong hệ thống cơ khí và từ
đó các loại máy móc tự động ra đời.
Chiếc máy tự động đầu tiên được sử dụng trong công nghiệp do
một thợ cơ khí người Nga, ông Pôdunôp chế tạo vào năm 1765. Nhờ
nó mà mức nước trong nồi hơi được giữ cố định không phụ thuộc vào
lượng tiêu hao hơi nước. Để đo mức nước trong nồi, Pôdunôp dùng
một cái phao. Khi mức nước thay đổi phao sẽ tác động lên cửa van,
thực hiện điều chỉnh nước trong nồi. Nguyên tắc điều chỉnh của cơ
cấu này được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học kỹ thuật
khác nhau, nó được gọi là nguyên tắc điều chỉnh theo sai lệch hay
nguyên tắc Pôdunôp - Giôn Oat. Đầu thế kỷ 19, nhiều công trình có


mục đích hoàn thiện các cơ cấu điều chỉnh tự động của máy hơi nước
đã được thực hiện. Cuối thế kỷ 19 các cơ cấu điều chỉnh cho tuabin
hơi nước bắt đầu xuất hiện. Năm 1712 ông Narrtôp, một thợ cơ khí
người Nga đã chế tạo được máy tiện chép hình để tiện các chi tiết định
hình. Việc chép hình theo mẫu đã được thực hiện. Chuyển động dọc
của bàn dao do bánh răng - thanh răng thực hiện. Cho đến năm 1798


ông Henry Nandsley người Anh mới thay thế chuyển động này thành
chuyển động của vitme - đai ốc. Năm 1873 Spender đã chế tạo được
máy tiện tự động có ổ cấp phôi và trục phân phối mang các cam đĩa và
cam thùng. Năm 1880 nhiều hãng trên thế giới như Pittler Ludnig
Lowe (Đức), RSK (Anh) đã chế tạo được máy tiện rơvônve dùng phôi
thép thanh. Năm 1887 Đ.G Xtôlepôp đã chế tạo được phần tử cảm
quang đầu tiên, một trong những phần tử hiện đại quan trọng nhất của
kỹ thuật tự động hoá. Cũng trong giai đoạn này, các cơ sở của lý
thuyết điều khiển và điều chỉnh hệ thống tự động bắt đầu được nghiên
cứu, phát triển. Một trong những công trình đầu tiên về lĩnh vực này
thuộc về nhà toán học nổi tiếng P.M.Chebưsep. Có thể nói, ông tổ của
các phương pháp tính toán kỹ thuật của lý thuyết điều chỉnh hệ thống
tự động là I.A. Vưsnhegratxki, giáo sư toán học nổi tiếng của trường
đại học công nghệ thực nghiệm Xanh Pêtecbua. Năm 1876 và 1877


ông đã cho đăng các công trình “ Lý thuyết cơ sở của các cơ cấu điều
chỉnh” và “ Các cơ cấu điều chỉnh tác động trực tiếp”.
Các phương pháp đánh giá ổn định và chất lượng của các quá
trình quá độ do ông đề xuất vẫn dùng cho tới tận bây giờ.
Không thể không kể tới đóng góp to lớn trong sự nghiệp phát
triển lý thuyết điều khiển hệ thống tự động của các nhà bác học
A.Xtôđô người Sec, A.Gurvis người Mỹ, A.K.Makxvell và Đ.Paux
người Anh, A.M.Lapunôp người Nga và nhiều nhà bác học khác.
Các thành tựu đạt được trong lĩnh vực tự động hoá đã cho phép
trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20 chế tạo các loại máy tự động
nhiều trục chính, máy tổ hợp và các đường dây tự động liên kết cứng
và mềm dùng trong sản xuất loạt lớn và hàng khối. Cũng trong thời
gian này, sự phát triển mạnh mẽ của điều khiển học, một môn khoa
học về các quy luật chung của các quá trình điều khiển và truyền tin

trong các hệ thống có tổ chức đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển và
ứng dụng của tự động hoá các quá trình sản xuất vào công nghiệp.
Trong những năm gần đây, các nước có nền công nghiệp phát
triển tiến hành rộng rãi tự động hoá trong sản xuất loạt nhỏ. Điều này
phản ánh xu thế chung của nền kinh tế thế giới chuyển từ sản xuất loạt
lớn và hàng khối sang sản xuất loạt nhỏ và hàng khối thay đổi. Nhờ
các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin và các ngành khoa học


khác, ngành công nghiệp gia công cơ của thế giới trong những năm
cuối của thế kỷ 20 đã có sự thay đổi sâu sắc. Sự xuất hiện hàng loạt
các công nghệ mũi nhọn như kỹ thuật linh hoạt (Agile engineering),
hệ thống điều hành sản xuất qua màn hình (Visual Manufacturing), kỹ
thuật tạo mẫu nhanh (Rapid Prototyping) và công nghệ Nanô đã cho
phép thực hiện tự động hoá toàn phần không chỉ trong sản xuất hàng
khối mà cả trong sản xuất loạt nhỏ và đơn chiếc. Chính sự thay đổi
nhanh của sản xuất đã liên kết chặt chẽ công nghệ thông tin với công
nghệ chế tạo máy, làm xuất hiện hàng loạt các thiết bị và hệ thống tự
động hoá hoàn toàn mới như các loại máy điều khiển số, các trung tâm
gia công,các hệ thống điều khiển bằng lôgic PLC, các hệ thống sản
xuất linh hoạt FMS…
1.2. NHU CẦU VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN
Tự động hoá là một quá trình cho phép giảm giá thành sản phẩm,
giảm sức lao động của con người, nâng cao năng xuất lao động. Trong
mọi thời đại, một sản phẩm làm ra vấn đề giá thành sản phẩm là một
trong những vấn đề rất được quan tâm bởi lẽ nếu cùng một loại sản
phẩm của hai nhà sản xuất đưa ra nếu giá thành sản phẩm nào rẻ hơn
nhưng với chất lượng như nhau thì dĩ nhiên người ta sẽ lựa chọn sản
phẩm rẻ hơn. Chính vì lẽ đó mà con người luôn tìm tòi mọi phương
pháp để giảm giá thành sản phẩm và đó là cơ sở cho nghành tự động



hoá ra đời. Một trong những động lực cho sự phát triển của tự động
hoá đó là giảm sức lao động của con người, nâng cao chất lượng sản
phẩm và năng xuất lao động. Người ta từ lâu đã nhận ra rằng lao động
của con người không thể sánh bằng máy móc kể cả về năng suất và
chất lượng đặc biệt là các loại máy móc tự động.Vì vậy việc ra đời của
ngành tự động hoá không những giảm bớt lao động của con người mà
còn nâng cao được năng suất và chất lượng sản phẩm.
Quá trình tự động hoá đã làm cho việc quản lí trở nên rất đơn
giản, bởi vì nó không những thay đổi điều kiện làm việc của công
nhân mà còn có thể giảm số lượng công nhân đến mức tối đa. Ngoài ra
tự động hoá còn cải thiện được điều kiện làm việc của công nhân,
tránh cho công nhân những công việc nhàm chán, lặp đi lặp lại, có thể
thay cho con người lao động ở những nơi có điều kiện làm việc nguy
hiểm, độc hại…
Tự động hoá có thể áp dụng cho nhiều loại hình sản xuất hàng
loạt và đơn chiếc với một trình độ chuyên môn hoá cao cũng chính vì
thế mà năng suất cũng như chất lượng sản phẩm rất cao. Ngày nay để
đánh giá mức độ của một nền sản xuất, người ta đánh giá vào mức độ
tự động hoá của nền sản xuất đó.
Với tầm quan trọng như thế, ngành tự động hoá rất được các quốc
gia trên thế giới quan tâm bởi đó không những là bộ mặt của nền sản


xuất mà trong thời buổi kinh tế thị trường việc cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường là rất khó khăn, nó đòi hỏi không những về chất
lượng sản phẩm mà còn cả về giá thành.
Trong thời gian gần đây, tự động hoá được ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực của đời sống từ kinh tế đến chính trị - xã hội,

như: Trong công nghiệp, y tế, ngân hàng, thư viện…
1.3. NHU CẦU TỰ ĐỘNG HOÁ TRONG CÔNG NGHỆ LÀM
BÁNH NHÂN KEM
Hiện nay dây chuyền làm bánh kem là một công việc lặp đi lặp lại
nên không thể tránh được sự nhàm chán trong công việc của người
công nhân. Ngày nay để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất
lượng và ổn định chất lượng sản phẩm, người ta đã đưa vào các thiết
bị sản xuất trong công nghiệp với hệ thống điều khiển tự động từng
phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất.
Cùng với việc sử dụng ngày càng nhiều hệ thống sản xuất tự
động, con người đã cải thiện đáng kể điều kiện lao động như giảm nhẹ
sức lao động, tránh được sự nhàm chán trong công việc, tạo cho họ
được tiếp cận với sự tiến bộ của các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và
được làm việc trong môi trường ngày càng văn minh hơn, an toàn hơn
tron công việc.


Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới, vấn đề cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn trong
nhiều lĩnh vực như chất lượng mẫu mã và quá giá thành sản phẩm. Có
thể thấy rằng chỉ áp dụng tự động hóa vào quá trình sản xuất mới có
thể có cơ hội nâng cao năng suất, tạo tiền đề cho việc giảm giá thành
sản phẩm, cũng như thay đổi mẫu mã một cách nhanh chóng.
CHƯƠNG 2:
THIẾT KẾ MÁY
2.1. PHÂN TÍCH LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ
2.1.1 Phương án 1 :
Ta sử dụng hệ thống truyền động bằng thủy lực:
+ hai xi lanh thủy lực để đẩy bánh vào máng quay
+ một xi lanh thủy lực dùng để đẩy cơ cấu nặng kem

+ một xi lanh thủy lực dùng để nén bánh
* Ưu và nhược điểm của phương án 1:
- Ưu điểm:
+ truyền được công suất và tải trọng lớn
+ dầu có tính đàn hồi nên truyền động êm, không ồn ào
- Nhược điểm:
+ do dùng hệ thống thủy lực nên cần cung cấp dầu và bơm dầu cho hệ
thống nên chi phí tốn kém, không phù hợp với việc làm mô hình của
sinh viên


+ xi lanh và các phần tử điều khiển có giá thành cao nên không hiệu
quả về tính kinh tế
+ tổn thất trên trong đường ống dẫn và các phần tử thủy lực nên làm
giảm hiệu suất làm việc
+ do dầu có tính đàn hồi nên khó ổn định vận tốc khi tải thay đổi
2.1.2. Phương án 2
Ta sử dụng hệ thống truyền động bằng khí nén:
+ hai xi lanh khí nén để đẩy bánh vào máng quay
+ một xi lanh khí nén dùng để đẩy cơ cấu nặn kem
+một xi lanh khí nén dùng để ép bánh
* Ưu và nhược điểm của phương án 2:
- Ưu điểm: độ nhớt của động học của khí nén nhỏ
Hệ thống cung cấp khí nén đơn giản rẻ tiền, dễ chế tạo không
cần bơm dầu nên chi phí giá thành thấp hơn so với thủy lực
Các phần tử trong hệ thống khí nén có cấu tạo đơn giản và giá
thành rẻ
Lực để truyền tải trọng đến cơ câu chấp hành thấp nên phù hợp
với việc làm mô hình của sinh viên
Hệ thống khí nén thấp không gây ô nhiễm môi trường

- Nhược điểm: Lực để truyền tải trọng đến cơ cấu chấp hành
thấp
Dòng khí thoát ra ở đường dẫn gây nên tiếng ồn lớn


Dựa vào các phân tích ở trên nhóm đồ án chọn phương án 2 để thiết
kế hệ thống, các thiết bị dùng trong hệ thống sẽ được phân tích ở các
chương sau.

2.2.TÍNH TOÁN ĐỘNG HỌC
2.2.1. Các chuyển động chính
− Chuyển động quay của cả hệ thống để đẩy bánh, nặn kem và ép
bánh được hình thành nhờ chuyển động tịnh tiến của xi lanh qua
các thông số sau:
Hành trình của piston L=100mm
Bán kính của 4 lỗ trên đĩa R= 30mm
-Vận tốc của xi lanh khi chuyển động tính tiến để tạo chuyển động
quay cho

cơ cấu là

Trong đó: v- vận tốc dài của cần xi lanh
Q- lưu lượng của xi lanh, chọn Q=10.5
A-Tiết diện của xi lanh
Vậy vận tốc của chuyển động quay do xi lanh tạo ra là:

Chuyển động tịnh tiến của cơ cấu đẩy bánh
Chiều dài của cánh tay là l=100mm



Hành trình piston L=100mm
Chuyển động tịnh tiến đi lên của xi lanh đẩy nặn kem
Chiều cao h=30mm
Hành trình piston L=100mm
2.2.2. Các yêu cầu khi thiết kế
Nhìn chung, khi xây dựng phương án bố trí cho các hệ thống tự
động cần phải đảm bảo các điều kiện như sau:



2.3.

Hệ thống đơn giản, dễ điều khiển và đáng tin cậy.
Bố trí các cơ cấu phải nhỏ gọn đảm bảo tính kỹ thuật và thẫm mỹ
Ngoài ra phải đảm bảo được tính an toàn và tính kinh tế.
TÍNH TOÁN ĐỘNG LỰC HỌC VÀ MỘT SỐ BỘ PHẬN

CHÍNH
2.3. 1.TÍNH CHỌN XI LANH TẠO CHUYỂN ĐỘNG QUAY
CHO HỆ THỐNG
a. Cơ cấu sinh lực bằng khí nén
Khí nén được sử dụng rộng rãi trong sản xuất công nghiệp. Khí
nén là không khí sạch được không khí được máy nén khí nén đến áp
suất 6,7atm để khi đi qua các ống dẫn đến xi lanh có áp suất làm việc
3,4atm
Dùng khí nén có những ưu điểm sau:
Nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ sức lao động của công nhân,
điều khiển thống nhất, từ xa để có khả năng tự động hóa.
Các nhược điểm của khí nén là: khí nén dùng với áp lực thấp(4-6)atm



Phải có thêm các trang bị phụ: van, bình lọc khí, ổn định tốc độ và áp
suất tốn nhiều không gian.
Các cơ cấu sinh lực bằng khí nén có thể phân loại như sau:
Theo dạng xi lanh dẫn lực: loại xi lanh piston – xi lanh màng
Theo sơ đồ tác dụng: Loại xi lanh một chiều và loại xi lanh hai chiều
Theo dạng gá đặt: loại cố định và loại quay

b. Tính lực đẩy của xi lanh tạo chuyển động và cấp phôi
+Loại xi lanh hai chiều, một piston


Loại này khí nén có thể vào bên trái hoặc bên phải xi lanh, loại này
hành trình piston dài chuyển động được cả hai phía.
Khi khí nén qua van phân phối đi vào buồng bên trái của xi lanh
thì lực tạo ra được tính theo biểu thức sau:

Khi khí nén qua buồng bên phải của xi lanh thì lực tạo ra là:

Trong đó:
Q- lực do khí nén tạo ra
D- đường kính piston(m)
d- đường kính cần piston(mm)
p- áp suất khí nén(kG/ )
- hiệu suất, kể đến mất mát vì ma sát giữa piston và xi lanh, cán
piston và vỏ
Để có thể tăng lực kẹp mà không cần tăng đường kính piston có thể sử
dụng loại xi lanh hai hay nhiều piston
Xi lanh có thể sinh ra lực kẹp
Đường kính tiêu chuẩn của piston là: D=50, 75,100…

Cần piston: d=16…80mm
Hành trình làm việc: L 10…200mm


Độ nhám mặt trong của xi lanh cần đạt: Ra=0.63-1.25 để giảm ma sát
Kết cấu của xi lanh có thể tham khảo trong sổ tay kết cấu cơ khí

d. Tính kết cấu của cơ cấu đẩy
 Ý nghĩa của việc đẩy bánh vào đĩa: Thời gian cấp phôi là một
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất của máy (năng suất
công nghệ). Vì vậy cải tiến và sử dụng các cơ cấu đẩy để giảm
tổn thất thời gian và cải thiện điều kiện làm việc của người công
nhân
Mở rộng khả năng công nghệ của máy
Mang lại hiệu quả kinh tế cho tất cả các dạng sản xuất
Trong sản xuất hàng khối và hàng loạt lớn thời gian đẩy và hoạt
động có ảnh hưởng cực kỳ lớn
 Cơ cấu chứa bánh
Quá trình cấp bánh là quá trình chuyển bánh từ ổ chứa bánh đến
vùng làmviệc của máy theo những khoảng thời gian và không
gian nhất định và sau khi gia công xong chuyển chi tiết vào chỗ
cất giữ
− Cơ cấu chứa bánh là cơ cấu dùng để dữ trữ bánh, bảo đảm cho
máy móc làm việc liên tục không bị gián đoạn. Cơ cấu chứa
bánh được phân thành ổ chứa bánh và phểu chứa bánh


− Máng chuyển phôi bánh là chi tiết dùng để tích trữ và chuyển
phôi đến các bộ phận khác nhau trong hệ thống cấp phôi tự
động.


- Ổ chứa phôi bánh kiểu băng đạn, đặc điểm của loại này không thể
định hướng phôi trong không gian, cần có người dùng tay xếp phôi
theo 1 hướng nhất định, kết cấu đơn giản, độ tin cậy lớn, thích hợp với
chi tiết nhỏ, mô hình.
- Phểu chứa phôi, đặc điểm của nó là có thể tự động định hướng phôi
trong không gian, không cần người sắp xếp, trình độ tự động hóa cao,
năng suất cao, kết cấu phức tạp, thường hay bị kẹt
Thích hợp với các loại chi tiết nhỏ dễ định hướng như đinh ốc, và mũ
ốc..


Từ các điều kiện đã phân tích ta chọn ổ chứa phôi để làm bộ phận
cung cấp phôi cho hệ thống

Tính toán thông số của ổ chứa phôi
- chiều rộng máng dẫn, mm
d chiều rộng của phôi, mm
A khe hở giữa phôi và thành máng, mm
l- chiều dài của phôi, mm
c- chiều dài đường chéo, mm
 Tính khe hở cho phép giữa thành máng và mặt đầu của phôi


Phôi bánh có dạng hình khối tròn đặt trong ổ. Phôi bánh có đường
kính 40mm, chiều cao 6mm
Giữa phôi bánh và vách máng cần có một khoảng cách nhất định để
phôi có thể dịch chuyển được mà không bị kẹt
Giả sử khe hở đó là A. Ta thấy nếu khe hở đó làm lớn hơn một ít thì
phôi chuyển động tốt việc chế tạo và điều chỉnh dễ , nhưng A không

thể lớn hơn một giới hạn nhất định

Sơ đồ tính khe hở giữa máng và phôi
Sau khi phôi quay một góc làm đường chéo c nghiêng đi so với đường
nằm ngang một góc α, nhưng vì A+lhướng hẳn để rơi xuống


Giả sử lực pháp tuyến của máng tác dụng lên phôi là Nn. Lực ma sát
sẽ bằng Fms=µNn
Trong đó: µ là hệ số ma sát
Hợp lực tác dụng lên vật sẽ là N làm với Nn một góc ma sát a
Khi αquay xung quanh O làm phôi bị kẹt trong máng
Khi α>a N sinh ra momen ngược lại làm cho phôi trở lại vị trí cũ
Vì vậy khi α=a ta sẽ tìm khe hở lớn nhất
Cách tính Amax như sau:

trong đó:
tga=µ
cho nên:

;


Gọi

khe hở lớn nhất của một đơn vi đường kính, ta có:

Ta thấy amax có quan hệ với µ và l/d

Nếu cố định µ, khi l/d càng lớn thì amax càng nhỏ
Nếu cố định l/d, khi µ càng lớn thì amax càng nhỏ; tức là khe hở cho
phép càng nhỏ, có nghĩa phôi lưu thông càng tốt. Chỗ nào khe hở A
vượt quá phạm vi cho phép phôi sẽ bị kẹt
Trong thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính lưu thông của phôi
trong máng, chúng ảnh hưởng lẫn nhau, do đó ngoài các tính toán trên
cần có thí nghiệm để kiểm tra lại
 Bố trí ổ chứa phôi cho phôi thẳng đứng từ trên xuống để cung
cấp cho xi lanh cấp phôi



CHƯƠNG 3:
THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐIỀU KHIỂN TỰ ĐỘNG
3.1 TÍNH CHỌN CÁC THIẾT BỊ KHÍ NÉN
3.1.1. Tầm quan trọng và khả năng ứng dụng của khí nén:
a) Trong lĩnh vực điều khiển:
- Những năm sau khi cuộc cách mạng nổ ra, do sự tất yếu của
quá trình tự động hóa trong sản xuất, kỹ thuật điều kiển bằng khí nén
ñöôïc được phát triển rộng rãi và đa dạng hơn.
- Hệ thống điều khiển bằng khí nén thường được sử dụng trong
các lĩnh vực có nguy cơ xảy ra các nguy hiểm cao do điều kiện vệ sinh
môi trường khá tốt và tính an toàn cao.
- Hệ thống điều khiển bằng khí nén thường được sử dụng trong
các lĩnh vực: các thiết bị phun sơn, các loại chi tiết kẹp đồ gá, lĩnh vực
sản xuất các thiết bị điện tử hay trong các thiết bị vận chuyển và kiểm
tra.
b) Trong lĩnh vực truyền động:
- Các dụng cụ, thiết bị, máy va đệp trong lĩnh vực khai thác than,
khai thác đá.

- Truyền động quay với công suất lớn bằng khí nén giá thành rất
cao, cao hơn từ 10-15 lần so với động cơ điện. Nhưng ngược lại, thể
tích và năng lượng chỉ bằng 2/3 những dụng cụ vặn vít, máy khoan,


máy mài là những dụng cụ có khả năng sử dụng truyền động bằng khí
nén.
- Truyền động thẳng: các đồ gá kẹp chi tiết, các thiết bị đóng
gói, các thiết bị máy gia cơng, các thiết bị làm sạch hay các thiết bị
phanh hãm của ơtơ.
- Trong các hệ thống đo đạc và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
c) Ưu & nhược điểm của khí nén
- Ưu điểm :
+ Có khả năng trích chứa để thành lập trạm trích chứa
khí nén.
+ Có khả năng truyền tải năng lượng đi xa do độ nhớt
động học của khí nén nhỏ và tổn thất trên đường dẫn
thấp.
+ Không gây ô nhiễm môi trường.
+ Hệ thống phòng ngừa qúa áp suất giới hạn được
đảm bảo.
- Nhược điểm :
+ Lực truyền tải trong thấp.
+ Khi tải trọng thay đổi, vận tốc truyền cũng thay đổi.
+ Dòng khí nén thoát ra gây tiếng ồn lớn.


3.1.2. Máy nén khí và Thiết bị phân phối khí nén
a) Máy nén khí
* Khái niệm

Máy nén khí là thiết bò tạo ra áp suất khí, ở đó năng
lượng cơ học của động cơ điện hoặc động cơ đốt trong được
chuyển đổi thành năng lượng khí nén và nhiệt năng.

* Phân loại:
- Theo áp suất:
+ Máy nén khí áp suất thấp:

p ≤ 15 bar

+ Máy nén khí áp suất cao:

p ≥ 15 bar

+ Máy nén khí áp suất rất cao: p ≥ 300bar


- Theo nguyên lý hoạt động:
+ Máy nén khí theo nguyên lý thay đổi thể tích: máy
nén khí kiểu pittông, máy nén khí kiểu cách gạt, máy nén
khí kiểu root, máy nén khí kiểu trục vít.
+ Máy nén khí tuabin: máy nén khí ly tâm và máy nén
khí theo chiều trục.
b) Bình trích chứa khí nén
- Khí nén sau khi ra khỏi máy nén khí và được xử lý thì
cần phải có một bộ phận lưu trữ để sử dụng. Bình trích
chứa khí nén có nhiệm vụ cân bằng áp suất khí nén từ
máy nén khí chuyển đến trích chứa, ngưng tụ và tách nước.
- Kích thước bình trích chứa phụ thuộc vào công suất
của máy nén khí và công suất tiêu thụ của các thiết bò sử

dụng, ngoài ra kích thước này còn phụ thuộc vào phương
pháp sử dụng: ví dụ sử dụng liên tục hay gián đoạn
Ký hiệu :

c) Mạng đường ống dẫn khí nén


- Mạng đường ống dẫn khí nén là thiết bò truyền dẫn
khí nén từ máy nén khí đến bình trích chứa rồi đến các
phần tử trong hệ thống điều khiển và cơ cấu chấp hành.
- Mạng đường ống dẫn khí nén có thể phân thành 2
loại:
+ Mạng đường ống được lắp ráp cố đònh (mạng đường
ống trong nhà máy)
+ Mạng đường ống được lắp ráp di động (mạng đường
ống trong dây chuyền hoặc trong máy móc thiết bò)
+ Trong bộ thí nghiệm, đường ống dẫn khí nén được
trang bò cho phép tháo lắp dễ dàng và nhanh chóng. Nối hệ
thống đến các thiết bò bằng cách đơn giản là đẩy ống vào
cổng vào (in-let) hay cổng ra (out-let). Tháo ống ra bằng
cách một tay đè vào vành tỳ, tay kia kéo ống ra.
3.2. Các phần tử trong hệ thống điều khiển
Một hệ thống điều khiển bao gồm ít nhất là một mạch
điều khiển vòng hở (Open – loop Control System) với các
phần tử sau :
- Phần tử đưa tín hiệu : nhận những giá trò của đại
lượng vật lý như đại lượng vào, là phần tử đầu tiên của
mạch điều khiển. Ví dụ: van đảo chiều, rơle áp suất.



×