Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

BÀI THU HOẠCH LỚP BỒI DƯỠNG NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.71 KB, 24 trang )

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG TP HÀ NỘI
ĐẢNG BỘ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG
Họ và tên:

Nguyễn Quốc Hiếu

Ngày sinh:

13/02/1996

Quê quán:
Đơn vị công tác:

Hà Nội
Khoa Luật - ĐHQGHN


Câu 2: Tính tất yếu nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh
Là sinh viên của lớp chất lượng cao K59 – Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội, tôi thấy vô cùng vinh dự và tự hào vì được tham gia lớp học bồi
dưỡng Đảng viên do Đảng bộ ĐHQGHN tổ chức. Qua khóa học, tôi có them
nhận thức sâu sắc về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong lịch sử và
hiện tại; về lãnh tụ Hồ Chí Minh – Người đã cùng Đảng lãnh đạo, chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách đi đến bến
bờ thắng lợi; đưa Việt Nam tứ một dân tộc bị áp bức bởi chế độ phong kiến


phương Bắc hàng ngàn năm, bị xâm lước bởi đế quốc phương Tây hàng trăm
năm đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.
Tự hào về Đảng, về chủ tịch Hồ Chí Minh bao nhiêu, tôi càng thấm thía
lời thầy giảng trên lớp về vai trò của Đảng, lịch sử Đảng, về tư cách của mọt
người Đảng viên chinh chính; và trên hết, đó là về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh bấy nhiêu. Tôi luôn luôn ý thức về lời dạy của Bác khi còn là một cậu học
sinh: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em…”. Trong suy nghĩ
của toi, mỗi thanh niên Việt Nam nói chung, mỗi sinh viên và cá nhân tôi nói
riêng cần nhận thức rõ rang về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để
vận dụng vào cuộc sống, vào việc học tập, nghiên cứu, trau dồi kiến thức, đạo
đức, kỹ năng sống… ngay từ khi chúng ta còn trẻ, để khi tốt nghiệp ra trường,
mỗi cử nhân tương lai sẽ lè những người có đầy đủ tri thức và kỹ năng để đóng
góp cho việc phục vụ đất nước, xã hội, gia đình và bản thân.
Đã qua hơn 15 năm sống trong thế kỷ XXI nhưng tấm gương Hồ Chí
Minh vĩ đại luôn được mỗi người dân Việt hướng tới. Sau gần 5 năm triển
khai và thực hiện, Cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” đã tạo ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức của cán bộ,
đảng viên và người lao động. Thông qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề
2

2


về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, ý thức tiết kiệm và tinh thần tương thân, tương ái… đã giúp cho
toàn bộ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, toàn dân trong tất cả các đơn vị
có những chuyển biến về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh.

Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm
theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong
công cuộc phát triển của đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ
thể như sau:
Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh
tế – xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế – xã hội và những tình
huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế
tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học tập
đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ
chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc.
Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà
nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ
xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc học tập cho cán
bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:
Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực
tiễn. Làm cái gì thì học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người
đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ. Đưa thực
tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người “dạy thực tiễn”
(như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch,
dạy tiếp dân…). Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
trong nước với thế giới để tránh tình trạng bất cập có thể có: một bên là Việt
Nam và một bên là thế giới còn lại!

3

3


Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở

thành tư tưởng Hồ Chí Minh chính là giá trị “đi cùng thời đại” của những giáo
huấn đó.
Theo tôi, trước hết mỗi người phải hiểu rõ sự cần thiết của việc học tập
và làm theo tư tưởng, tám gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay. Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội
bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa
nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù
hợp với lợi ích của xã hội. Đối với mỗi các nhân, ý thức và hành vi đạo đức
mang tính bổn phận, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu
tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã
hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội cũng như sự kiểm tra của
chính bản thân mình. Đạo đức có chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng
giáo dục và chức năng phản ánh.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành
vi làm cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá
nhân và cộng đồng. Loài người sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh
hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức… Chính trị điều chỉnh
hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc
trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực… Pháp quyền và đạo đức
điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các
biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xã hội, lương tâm. Sự điều chỉnh
này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều. Điều chỉnh hành vi của đạo đức
và pháp quyền khác nhau ở mức độ đòi hỏi và phương thức điều chỉnh. Pháp
quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chí của giai cấp thống trị buộc mọi người
phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn
cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân
đội, cảnh sát, toà án, nhà tù…). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá
4

4



nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các
hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm.
Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn
mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận
xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở
thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các
hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức. Về
mục đích điều chỉnh, đạo đức bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo
nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng
đồng và cá nhân, thậm chí khi cần thiết phải ưu tiên lợi ích cộng đồng. Về đối
tượng điều chỉnh, hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá
nhân với cộng đồng (gián tiếp) với cách thức điều chỉnh như: lựa chọn giá trị
đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định
phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi
bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi
dư luận xã hội. Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình
thức chủ yếu: xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái
thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác; bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh
hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Về chức năng giáo dục, đạo đức hướng con người vươn lên “chân –
thiện – mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch
sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy. Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ
thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ
thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn
tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người. Xã hội có giai cấp
hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động.
Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo

5

5


đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xã hội
thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung
giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời
sống xã hội và cá nhân làm cả đạo đức cá nhân và xã hội được củng cố, phát
triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức. Hiệu quả giáo dục đạo
đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội, cách thức tổ chức, giáo dục mức
độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trình giáo dục. Có thể
khẳng định rằng giáo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức. Nhân đạo hóa các
quan hệ xã hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xã hội; sự hoàn
thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó…sẽ giúp chủ thể lựa
chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xã hội, đánh giá đúng tư cách của người
khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu
cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hình thức và các bước đi của quá trình
giáo dục sẽ giúp mỗi cá nhân và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn
đạo đức đúng. Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một
mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá
nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn
cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
Chức năng cuối cùng của đạo đức - chức năng phản ánh. Với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản
ánh tồn tại xã hội. Sự phản ánh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác
với các hình thái ý thức khác. Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh
thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh
thần, được quy định bởi tồn tại xã hội. Nhưng xét dưới góc độ xã hội học thì hệ
thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con

người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang
tính hành động hiện thực. Sự nhận thức của đạo đức có hai đặc điểm:
Thứ nhất, hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và
đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức.
6

6


(Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có
khoảng cách về không gian và thời gian).
Thứ hai, nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra
ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã
hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ,
hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra
các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển
hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân
như là cái riêng. Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ
thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm
định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể
hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay
chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái
ác… Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn.
Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn
lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức
của mình – giá trị mà xã hội mong muốn. Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức
được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành trách nhiệm đó. Trong
cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ

phong phú giữa chủ thể đạo đức với xã hội, gia đình, bạn bè, đồng chí, đồng
đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ quốc. Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh
hiện thực) ở hai trình độ : trình độ thông thường và trình độ lý luận. Nhận
thức đạo đức ở trình độ thông thường là ý thức thông thường, những giá trị
riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp
thời trong cuộc sống và sự phát triển bình thường của xã hội. Mọi cá nhân đều
có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trình độ này. Nhận thức đạo đức ở trình
độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá
7

7


trị đạo đức có tính tổng quát. Trình độ này đáng ứng những đòi hỏi của sự
phát triển đạo đức và tiến bộ xã hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong
hệ tư tưởng và hành vi của các gia cấp cầm quyền. Nhận thức đạo đức đưa lại
tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức
đạo đức xã hội đã nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin
ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xã hội trở thành cơ sở để cá nhân
điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).
Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tự to lớn và có
ý nghĩa lịch sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân có tiến bộ… Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được
vai trò tiên phong, gương mẫu năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện
phẩm chất, năng lực, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên,
trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo đức,
lối sống. Đó là nguy cơ lớn liên quan tới sự sống còn của Đảng của chế độ. Sự
suy thoái về đạo đức,lối sống được biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây: (1)
chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả hưởng thụ, thiếu lý tưởng,
thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cá các tầng lớp xã hội; (2) tệ tham nhũng,

hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực đang trở
thành “quốc nạn” gây bức xúc cho nhân dân; (3) hành động cơ hội “chạy chọt”
vì lợi ích cá nhân khá phổ biến; (4) lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm
trái với nghị quyết của Đảng, nói nhiểu làm ít, phát ngôn tủy tiện, vô nguyên tắc;
(5) tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và yêu
cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân; (6) tình trạng suy thoái về đạo đức trong
quan hệ gia đình với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất
hiếu; (7) đạo đức nghề nghiệp sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn
vinh, hiện tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh hưởng xấu tới
thuần phong mĩ tục và trật tự an toàn xã hôi. Nguyên nhân của tình trạng trên có
cả khách quan và chủ quan.

8

8


Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị
trường đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự
tác động của đạo đưc, lối sống tư sản hưởng thụ phương tây vào nước ta trong
điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin
toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối sống
ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia
đình họ coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “ diễn biến hòa bình”.
Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc
vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của
cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội trên thực tế chúng ta chưa coi
trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu các ngành các
cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về
đạo đức và lối sống

Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã có tác động lớn
đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay. Nó đang làm thay đổi
lệch lạc những chuẩn mực thang bậc giá trị truyền thống giá trị tốt đẹp của
dân tộc và cách mạng, có tác hại tới sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển
của đất nước, sự suy thoái về đạo đức của một số bộ phận cán bộ, đảng viên
làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu tới uy tín và vai trò lãnh
đạo cuả tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của
đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ,
cùng với các nguy cơ khác dẫn tới bất ổn định chính trị xã hội, liên quan đến
“sự sống còn của đảng, của chế độ”. Để năng cao năng lực và sức chiến đấu
của Đảng ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống, trong đảng và trong xã hội, hội nghị trung ương III khóa X của đảng đã
ban hành nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí” Ngày 7/11/2006 Bộ Chính Trị Ban Chấp hành
TW Đảng ra chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn đảng và xã hội. thực hiện
9

9


tốt cuộc vận động này sẽ góp phấn quan trọng vào cuộc đấu tranh và đẩy lùi
suy thoái về đạo đức, lối sống trong đảng và trong xã hội. Do đó, mỗi người
trong chúng ta phải ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lối
sống theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trong giai đoạn này. Hiện
nay đất nước đang trên đà đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa – hiện đại hóa trên tất cả các mặt trận, tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, thì việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đường
lối cách mạng của người ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đóng

vai trò chủ đạo trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân.
Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo
đức là gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây,
như nguồn của sông. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực
của đạo đức trong đời sống xã hội. Bởi vậy, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo
đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay là điều rất cần
thiết và quan trọng. Có thể liệt kê sơ qua những phẩm chất đạo đức cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: (1) Trung với nước hiếu với dân là phải gắn
bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải “tuyệt đối trung
thành với Đảng với nhân dân”; (2) Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn
trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với
nhân dân; yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là giúp cho mỗi
người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm; (3) cần kiệm
- phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác: biết lao
động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân
dân của đất nước và của bản thân; (4) liêm chính - phẩm chất của người cán
bộ khi thi hành công vụ phải ngay thẳng, không tà, trong sạch, “luôn chí công
vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư, thiên vị. Đem lòng
chí công vô tư đối với người, đối với việc. Với những phẩm chất đạo đức kể
10

10


trên, chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là tấm gương sáng cho chúng ta noi
theo – Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: (1) Trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân
loại; (2) kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm,
khí phách vượt qua khó khăn thử thách; (3) kính trọng nhân dân, hết lòng, hết

sức phục vụ nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân”; (4) nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu,
hết mực vì con người, “dành tình thương yêu cho tất cả, chia sẻ với mỗi người
nỗi đau”; (5) coi khinh sự sa hoa, sống thật sự cần kiệm giản dị, sống trong
sạch, không gợn chút riêng tư.
Đó chỉ là vấn đề lý thuyết còn thực tế thì sao? Gần 5 năm thực hiện
cuộc vấn động nước ta đã đạt được những thành tựu gì, các cơ chế về đạo đức
có được thay đổi các tình trạng quan tham ô liệu có còn, đó là những cấu hỏi
mà không chỉ riêng tôi đưa ra mà nó là tình trạng chung của tất cả chúng ta.
Bấy lâu nay chúng ta chỉ thấy được trên lý thuyết còn phần thực hiện hay
không thực sự rất khó, đòi hỏi mỗi địa phương có cái nhìn khái quát và toàn
diện nhất chứ nhất định khổng thể nhìn nhận bằng những con số trên giấy tờ
mà thực tiễn không phản ánh đúng. Là người dân Việt Nam, là những đảng
viên trẻ tương lai chúng ta hãy cần có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn sao
cho phù hợp học tập theo bác như một chuẩn mực một tiền đề cho chúng ta
tiến bước đi lên, phấn đấu nỗ lực vì sự phát triển bền vững của đất nước, hãy
tạm gác lại lợi ích cá nhân, hãy bỏ qua những xiềng xích bấy lâu mà vì tổ
quốc, vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ. hãy thể hiện hành động trước tiên,
các nhà lãnh đạo hãy thể hiện bằng tất cả những gì mà họ có đi, đừng lời nói
rồi bắt người khác phải làm, đừng chỉ là chuyến thăm quan đơn giản mà làm
tốn kém bao nhiêu của cải của địa phương, hãy bỏ qua bớt thủ tục để có sự
đơn giản, sự thân thiết giữa “quan” và “dân” hãy thể hiện mình là người bình
dị và mến khách.

11

11


Tôi hiện là sinh viên năm thứ 2 Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội,

bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của khoa đặc biệt là
các hoạt động phong trào sinh viên. trong quá trình học tập tại trường, Đoàn
Thanh niên – Hội Sinh viên Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội luôn tổ chức
các chương trình, hoạt động về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Minh,
đơn cử như “Giải Bóng đá Khoa Luật – AOF 2015” với mục đích tạo tiền đề
cho sự phát triển phong trào tập luyện thể lực, nâng cao sức khoẻ cho sinh
viên theo tấm gương “rèn luyện thân thể của Bác Hồ: Có sức khỏe là có tất
cả” thu hút được hấu hết tất cả sinh viên toàn trường tham gia. Là một khoa
nhỏ với số lượng sinh viên không nhiều nên các phong trào đưa ra chưa được
toàn diện nhưng đã thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa
ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính yêu. Các hoạt động không chỉ liên quan tới
phong trào sinh viên dưới sự chỉ đạo của Đảng Ủy khoa Luật, còn có sự tham
gia tích cực của các giảng viên, cán bộ giảng dạy trong khoa, gắn kết trong
phong trào toàn diện về văn hóa văn nghệ thể dục thể thao và tình cảm thầy
trò khoa Luật.
Bản thân là Chi hội trưởng Chi hội K59CLC, tôi cũng thường xuyên
đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
được tất cả thành viên trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng biện về
Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ
của Người và với nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ cố gắng phát huy
tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình sao cho hợp với chuẩn mực của
đạo đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp đều học
tập đạt kết quả cao, 100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở
thành những Đoàn viên tốt để đạt được vào chỉ tiêu học cảm tình Đảng của
khoa… Từ khi Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” toàn thể sinh viên khoa Luật nói riêng và sinh viên
Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung luôn có ý thức phấn đấu trong công tác
học tập, tu dưỡng và rèn luyện bản thân, và đã đạt được nhiều thành tích cao

12


12


trong công tác của trường, lớp. luôn lấy tư tưởng của người làm ánh sáng soi
đường cho chúng ta, tiến bước đi lên như hành trang để tiến tới thành công.
Tuy là sinh viên, nhưng tôi thường xuyên nghiên cứu tìm hiểu về Đảng,
về các chính sách của Đảng và Nhà nước để tích lũy cho mình những kiến
thức cần thiết về Đảng, Nhà nước; tìm hiểu về Đảng và Nhà nước giúp bản
thân vừa phục vụ cho môn học vừa nâng cao khả năng lý luận để phấn đấu trở
thành một đảng viên; nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, lý luận về
con đường đưa đất nước đi lên của Đảng ta v.v... Từ đó xác định được bản
thân cần phấn đấu như thế nào để trở thành một đảng viên. Đưa ra mục tiêu
phấn đấu và ra sức phấn đâu đạt được mục tiêu. Để thay cho lời kết của mình
tôi xin đưa ra hai câu nói bất hủ của Người:
-

“Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà… Nước nhà
thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên.
Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay
hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải

-

làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó.”
“Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có đức ví như
một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két
thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có
hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt
không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho người.”


Mỗi người chúng ta, đặc biệt là các Đoàn viên ưu tú, cánh tay phải đắc
lực của Đảng, phải cố gắng cùng chung tay góp sức vì một Việt Nam bừng
sáng trên trường quốc tế, cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy
đủ điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với lòng mình là sẽ thành công. Dù
có bao gian nguy khó khăn phía trước thì cũng phải quyết chí tiến lên, quyết
không lùi bước!
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
13

13


Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Súng nổ tung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam như máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”

Câu 1: Từ vai trò của Đảng trong lịch sử và hiện tại, theo đồng chí
cần làm gì để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới?
I.

Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò to lớn trong lịch sử và hiện tại
Mùa xuân năm 1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp
(từ ngày 03 đến ngày 7/2/1930) ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung
Quốc). Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng,
An Nam Cộng sản Đảng dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - thay

mặt Quốc tế Cộng sản. Hội nghị quyết định hợp nhất ba tổ chức cộng sản:
Đông Dương Cộng sản Đảng (17/6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (11/1929)
và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (1/1/1930) thành một đảng duy nhất lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ
vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng
sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, đồng bào,
đồng chí cả nước nhân dịp thành lập Đảng. Các văn kiện quan trọng trên là
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đã đặt ra, giải quyết những vấn đề cơ bản, cấp
thiết và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách
mạng Việt Nam.
Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các lực lượng cách
mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX; sự thất bại của các
phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản lúc đó đã đòi hỏi con đường cứu nước mới, khác về chất so với
14

14


con đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính trong bối
cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam - Chính đảng của giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời với sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh
đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến,
giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
ba thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách
mệnh. Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và phương
pháp tiến hành có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ
nghĩa, ba cuộc cách mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách

mạng đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo, tuy nhiên ở Việt Nam do tính
chất của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vô
sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh dấu bước
ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp Chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác - con đường cách mạng vô sản”. Để thực hiện
được mục tiêu đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Đảng
Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc
vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách
mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm sứ mệnh lịch sử của
Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
15

15


tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản,
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam
được độc lập, giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân.
Trải qua 85 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước

thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi thành lập, Đảng
đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc,
thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở
Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ
nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược
Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác
Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng với chiến dịch Điện Biên Phủ lừng
danh năm châu, chấn động địa cầu đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại
hòa bình ở miền Bắc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt
Nam. Đó cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào
công nhân và phong trào yêu nước. Chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ là hệ tư
tưởng lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công nhân mà còn là vũ khí
giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp
vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Đường lối cách
mạng của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh là mục tiêu, lý tưởng của Đảng,
phù hợp và đáp ứng đúng nguyện vọng của giai cấp công nhân, các tầng lớp
nhân dân lao động và của toàn dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân và đảng
tiên phong của nó đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.
16

16


Điều đó quyết định nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam giành
độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn con đường cách mạng đó

phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) và chỉ có đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự cho
dân tộc. Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân
tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự
lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của
Đảng ta. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong suốt 85 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là:


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và khai sinh ra Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam) mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân



tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ



và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã

hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Với những thắng lợi đã giành được của cách mạng nước ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cho chúng ta thêm tự hào về dân tộc
Việt Nam - một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo, tự hào về Đảng ta
- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và
17

17


rèn luyện đã một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong giai đoạn lãnh đạo công cuộc đổi
mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta luôn nhất quán kiên định những vấn đề cơ bản nhất:


Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động
phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định
xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn,
phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành
tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi



lên chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với





thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của
sự nghiệp đổi mới.

Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong
toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã xây đắp nên những truyền thống cực kỳ quý báu:


Đoàn kết, truyền thống cực kỳ quý báu và là bài học lớn của cách



mạng nước ta.
Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức



mạnh và truyền thống của cách mạng Việt Nam.
Truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ đảng
viên cộng sản và quần chúng nhân dân, họ chấp nhận mọi gian khổ,

18


18


hy sinh, tiên phong gương mẫu, phấn đấu cho lý tưởng độc lập dân


tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tực
cường trong hoạch định đường lối, chủ trương, lựa chọn phương
pháp nhằm phát huy sức mạnh của cách mạng, phát huy nội lực của
dân tộc và đất nước, nắm vững thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, khắc phục



và vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Đảng ta nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công
nhân, thủy chung, trong sáng trong quan hệ với đồng chí, bạn bè, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lý tưởng
cộng sản, với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, trung thành với
lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Không bao
giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một
giai cấp nào khác”. Ngày nay, thế giới có thể có những biến đổi phức tạp, đất
nước có thể có nhiều chuyển biến mới, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam
quyết không từ bỏ sứ mệnh lịch sử, không đổi thay mục đích phấn đấu của
mình, vẫn kiên định lập trường giai cấp công nhân, lấy cái bất biến ứng phó
cái vạn biến đặng mưu cầu lợi ích nhiều hơn cho dân, cho nước. Đó là: Bản
chất giai cấp công nhân của Đảng; chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu của Đảng, đấu tranh cho lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là sứ mệnh của
Đảng.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai
cấp và dân tộc là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc, bởi vậy, cần kế thừa
và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý
19

19


luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, không
ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
nói riêng trong thời kỳ mới.
II.

Giải pháp để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Bài học trên thế giới cho thấy nếu các đảng cầm quyền không có được
những chính sách thích hợp khiến kinh tế đất nước khó khăn, thậm chí suy
thoái, là điều nguy hiểm không kém tham nhũng, sẽ khiến đảng có thể bị mất
tín nhiệm về năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức của đảng và do đó mất
quyền lãnh đạo. Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước xung quanh chúng
ta và là bài học xương máu cho nhiều đảng cầm quyền và nhiều nhà lãnh đạo
đất nước.
Từ kinh nghiệm của nhiều đảng cầm quyền trên thế giới thuộc các chế
độ chính trị xã hội khác nhau, từ kinh nghiệm thành công cũng như có lúc

thiếu sót trong 85 năm lãnh đạo nhân dân ta qua các giai đoạn cách mạng, soi
vào những nhược điểm trong lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay để
khẳng định: chỉ có khắc phục được những yếu kém, Đảng mới làm tròn
vai trò lãnh đạo, cầm quyền, xứng đáng với vị trí cao nhất mà đất nước,
xã hội trao cho.
Trong rất nhiều nghị quyết, từ nghị quyết các Đại hội Đảng tới các nghị
quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng đã chỉ ra các phương
hướng, giải pháp nhằm xây dựng Đảng: thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội XI của Đảng nêu 8
phương hướng giải pháp gồm: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; nâng
cao hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới, kiện toàn bộ máy của Đảng
và hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng
đảng viên; đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ;

20

20


đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã nêu 3 nhiệm vụ cấp
bách là: đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức
lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược của Đảng; thực hiện tốt nguyên
tắc tập trung dân chủ, mối quan hệ giữa người đứng đầu với tập thể cấp ủy.
Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, toàn Đảng đã tiến hành các đợt sinh hoạt phê
bình, tự phê bình và thu được một số kết quả tích cực.
Đó là những phương hướng, giải pháp đúng đắn.

Nhìn từ góc độ của đảng cầm quyền, có thể nhấn mạnh thêm, Đảng
phải nắm chắc 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng, đúng chức năng, nhiệm vụ của
một đảng cầm quyền là:


Giám sát, kiểm soát được các chức danh lãnh đạo hệ thống
chính trị, lãnh đạo nhà nước do Đảng giới thiệu, bố trí, đặc biệt là
các chức danh cao nhất của bộ máy chính quyền các cấp (ở tầm
quốc gia là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ
trưởng; ở địa phương là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân), bởi vì đây chính là các chức danh có tác động
trực tiếp tới chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính



sách, pháp luật của Nhà nước.
Kiểm soát được quy trình hoạch định và nội dung của các chính
sách, pháp luật, chủ trương mang tính chiến lược của Nhà nước
trên mọi mặt; kiểm soát được sự phân bổ các nguồn lực của đất
nước, bao hàm cả kiểm soát được chi tiêu tài chính của Nhà



nước.
Tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương,
chính sách của Đảng và người của Đảng đang đảm nhiệm các
chức vụ nhà nước và hệ thống chính trị nói chung.

21


21


Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ đó, điều quan trọng đầu
tiên với một đảng cầm quyền là phải thiết kế thể chế, bộ máy Đảng và Nhà
nước hợp lý. Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải bảo đảm
Đảng lãnh đạo Nhà nước, nhưng phù hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền. Các cơ quan của Nhà nước, các chức vụ trong bộ máy nhà nước phải
thực hiện quyền hạn của mình một cách có hiệu lực, hiệu quả và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời có thể
kiểm soát lẫn nhau, không để lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền hạn,
chức vụ vào mục đích cá nhân. Đảng lãnh đạo, cầm quyền song trong khuôn
khổ của Hiến pháp, pháp luật. Mọi tổ chức và đảng viên sống và làm việc
theo pháp luật. Chủ trương, chính sách của Đảng phải biến thành pháp luật và
được tổ chức thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước. Thực hiện nguyên tắc nhà
nước pháp quyền cũng là ngăn ngừa tham nhũng, mất dân chủ.
Để góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trong khuôn
khổ của Hiến pháp 2013, người đứng đầu của Đảng phải đảm nhiệm chức vụ
Chủ tịch nước. Điều này bảo đảm cho lãnh tụ của Đảng có vị thế nhà nước
cao nhất, đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế, có quyền hạn xứng đáng
đối với Quốc hội và Chính phủ.
Bên cạnh thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương đối với các chức
danh Thủ tướng và các bộ trưởng, phải tăng cường vai trò giám sát, kiểm soát
của Quốc hội (cũng tức là của Đảng) đối với Chính phủ, Thủ tướng, các bộ
trưởng bằng hình thức bỏ phiếu tín nhiệm thường kỳ hay đột xuất. Chủ tịch
Quốc hội, các chủ tịch Ủy ban của Quốc hội cần phải là thành viên ban lãnh
đạo cao nhất của Đảng (Bộ Chính trị, Ban Bí thư). Việc thực hiện lấy phiếu
tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn như vừa
qua là hình thức phù hợp, cần thiết.
Ngược lại cũng cần tăng thẩm quyền của Thủ tướng, bộ trưởng để có đủ thẩm

quyền cần thiết trong chủ động, sáng tạo lãnh đạo, điều hành công tác, tránh

22

22


sự trông chờ, ỷ lại vào tập thể. Không nhất thiết các bộ trưởng phải là Ủy viên
Trung ương hay đại biểu Quốc hội.
Ở các địa phương, Bí thư tỉnh, thành ủy phải là Chủ tịch Hội đồng nhân
dân để có đủ quyền hạn và thực hiện đúng chức năng lãnh đạo cơ quan đại
biểu nhân dân giám sát, kiểm soát đối với người đứng đầu cơ quan hành pháp
ở địa phương. Các chủ nhiệm ủy ban của Hội đồng cũng phải là các thành
viên của Ban lãnh đạo cao nhất của cấp ủy Đảng.
Bằng việc bố trí các nhân sự cấp cao của Đảng vào các chức vụ cao
nhất của cơ quan đại diện của dân, Đảng sẽ giám sát, kiểm soát được con
người, kiểm soát được việc phân bổ các nguồn lực và tài chính của đất nước,
địa phương. Cấp ủy Đảng không chỉ đề ra chủ trương chung mà phải nắm
được chính xác các chương trình, dự án và việc phân bổ kinh phí, tài chính
cho các dự án, chương trình trong phạm vi từng địa phương. Kiểm soát về tài
chính hiện nay là điều Đảng còn yếu. Nếu làm tốt điều này sẽ làm tăng quyền
lực của Đảng trong việc nắm bộ máy nhà nước và lãnh đạo bộ máy nhà nước.
Phòng, chống tham nhũng hiệu quả là bảo vệ uy tín của đảng cầm
quyền. Bất cứ đảng cầm quyền nào để cho tham nhũng phát triển đều bị mất
uy tín, dẫn đến mất quyền lãnh đạo. Do vậy điều quan trọng thứ hai hiện nay
là Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, song trong giai đoạn hiện nay phải tạo được
bước đột phá, có chuyển biến mạnh. Có thể coi chống tham nhũng là nhiệm
vụ “chuyên chính” trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Đồng thời với
việc ban hành và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật cần thiết như

kê khai và công khai tài sản, phải tăng thẩm quyền cho Ban Nội chính cũng
như Ủy Ban kiểm tra của Đảng ở các cấp trong phát hiện và xử lý kỷ luật đối
với đảng viên tham nhũng. Ủy Ban kiểm tra phải được Đại hội bầu và có
thẩm quyền quyết định kỷ luật cao hơn nữa.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng có hiểu, tự giác
thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tin tưởng vào Đảng, tin
23

23


tưởng vào các đảng viên nắm chức vụ nhà nước hay không, phụ thuộc
vào công tác truyền thông và vận động quần chúng. Nên coi đây là thực hiện
hoạt động “quan hệ công chúng” và là công việc quan trọng thứ ba hiện nay.
Nghị quyết của Đảng về tăng cường lãnh đạo công tác dân vận trong tình hình
mới, về tăng cường thông tin chính thống, tăng cường đối thoại, giải đáp, đấu
tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, vu khống trên mạng internet về mọi hoạt
động của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước là điều cần thiết, đúng đắn, cần được ủng
hộ. Quan hệ công chúng của Đảng cần phải được tăng cường hơn nữa, hướng tới
các tầng lớp nhân dân rộng hơn, tới đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số, người
Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè, đối tác nước ngoài của Việt Nam. Vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hữu nghị
nhân dân cần được phát huy nhiều hơn nữa.
Suy cho cùng vấn đề con người là nhân tố quyết định. Về lâu dài, Đảng
có đủ tầm trí tuệ, bản lĩnh chính trị; có năng lực lãnh đạo, cầm quyền; trong
sạch, văn hóa hay không phụ thuộc vào việc Đảng có làm tốt công tác phát
hiện, tuyển chọn, đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng được đội ngũ đảng viên đủ
phẩm chất để bố trí vào các cương vị quan trọng của hệ thống chính trị và nhà
nước hay không. Do vậy, điều quan trọng thứ tư hiện nay là Đảng phải làm
tốt “công tác gốc”của Đảng là công tác cán bộ như lời Bác Hồ dạy. Đây là

nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài để bảo đảm cho các thế hệ của Đảng
kế tiếp nhau lãnh đạo đất nước. Đóng góp vào công tác cán bộ của Đảng, các
trường Đảng, trường cán bộ phải cấp bách và thường xuyên đổi mới, nâng cao
chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lên một trình độ mới,
cao hơn, hiện đại hơn. Đến lượt mình, bản thân đội ngũ cán bộ của hệ thống
trường Đảng cũng cần phải được thường xuyên, liên tục bồi dưỡng, rèn luyện,
đổi mới và trưởng thành không chỉ trên bục giảng mà còn trong thực tiễn trực
tiếp lãnh đạo, quản lý ở các cấp.

24

24



×