SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TỈNH THÁI NGUYÊN
ĐƠN VỊ: TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU - PHÒNG GIÁO DỤC TP. THÁI NGUYÊN
-----------------------
s¸ng kiÕn kinh nghiÖm
n¡M HäC 2007 - 2008
Tªn ®Ò t µ i:
TỪ THỰC TẾ DÙNG TỪ CỦA HỌC SINH
RÚT RA NHỮNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
VÀ ĐỀ XUẤT VIỆC DẠY VÀ HỌC TIẾNG
VIỆT LỚP 9 - TRUNG HỌC CƠ SỞ
LOẠI ĐỀ TÀI THUỘC LĨNH VỰC CHUYÊN MÔN: NGỮ VĂN
Họ và tên : NÔNG THỊ THU HÀ
Chức vụ : GIÁO VIÊN
Sinh hoạt tổ chuyên môn : KHOA HỌC XÃ HỘI
LỜI NÓI ĐẦU
..... “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý” xin
được trích dẫn câu nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để chúng ta có thể
thấy được tầm quan trọng và giá trị của nghề dạy học. Bởi nó chuyển tiếp
từ thế hệ này đến thế hệ kia rất lâu dài và không nhất thời. Nghề dạy học
không thể thiếu được trong bất kỳ xã hội nào, đặc biệt xã hội càng tiến bộ
văn minh bao nhiêu thì ngành giáo dục càng đòi hỏi phát triển bấy nhiêu.
Để giáo dục thế hệ trẻ ngày nay trở thành những người công dân
tốt, có đức, có tài phục vụ cho xã hội, cho đất nước, đòi hỏi sự nghiệp
giáo dục của nước nhà cũng từng ngày, từng giờ phải đổi mới: Về
phương pháp, hình thức truyền thụ kiến thức. Ngày càng nâng cao về chất
lượng giảng dạy tất cả các môn học trong nhà trường phổ thông, đáp ứng
nhu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân. Trong các môn khoa học ở
nhà trường phổ thông, Tiếng Việt là một bộ môn rèn luyện và phát triển
năng lực nói tốt, viết tốt và biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp một cách
chính xác. Nền móng của mục tiêu này là kiến thức từ ngữ Tiếng Việt.
Thực tế, Tiếng Việt đã trở thành một ngành học độc lập, và đã khẳng định
được vị trí học thuật cao và giá trị xã hội to lớn trong đời sống khoa học
và văn hoá Việt Nam. Nó đã được dạy như một môn học độc lập trong
trường THCS từ lớp 6 đến lớp 9, vừa được coi là môn học đối tượng, vừa
2
được ý thức như là môn học công cụ, học sinh phải nằm thành thạo để
học tốt các môn học khác.
Qua sự tìm tòi, học hỏi các đồng chí, đồng nghiệp đi trước và thực
tiễn giảng dạy, tôi xin được đóng góp, đề xuất một vài biện pháp góp
phần dạy môn học Tiếng Việt đạt hiệu quả.
Thực hiện nghiên cứu đề tài này, tôi tiến hành qua việc dự giờ, thăm
lớp. Qua trực tiếp giảng dạy và quan sát các em trong sinh hoạt giao tiếp
hàng ngày. Tiến hành điều tra nhận xét, đánh giá về cách dùng từ của học
sinh, tìm ra những nét đúng, sai. Từ đó rút ra nhận xét cho việc nghiên cứu
của mình.
Với tuổi nghề và năng lực còn hạn chế, chắc chắn đề tài không tránh
được những thiếu xót. Rất mong được sự góp ý của các đồng chí làm công
tác giảng dạy trong và ngoài nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Ngày..... tháng ...... năm ........
Người thực hiện
NÔNG THỊ THU HÀ
3
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Không ngừng học tập, đó là nhận thức của con người vốn có từ lâu
đời và được tồn tại trong mọi xã hội. Con người luôn khám phá và không
ngừng nhận thức đó là nhân tố quan trọng để xã hội ngày càng phát triển.
Vậy sự nhận thức học hỏi đó là gì ? Đó là nhận thức qua học tập, qua sách
báo, qua văn học và giao tiếp hàng ngày.
Muốn trở thành một con người hoàn thiện, thì một trong những yếu
tố không thể thiếu đó là việc dùng chuẩn và đúng từ ngữ. Trong xã hội
luôn cần có nhu cầu giao tiếp, bởi không có giao tiếp thì không có cộng
đồng, không có xã hội. Ngôn ngữ là công cụ phương tiện quan trọng của
con người trong cuộc sống. Trong đó từ ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, nó không
thuộc kiến thức thượng tầng mà tồn tại trong bất kỳ giai cấp và xã hội nào,
có phạm vi sử dụng rộng rãi trong quá trình nhận thức và tư duy.
Môn học Tiếng Việt giúp học sinh nắm vững và sử dụng tốt từ ngữ
trong giao tiếp học tập. Muốn hiểu và nắm vững nội dung văn bản đều phải
bắt nguồn từ việc hiểu đúng từ ngữ. Bởi vậy, dạy từ ngữ có vai trò quan
trọng nhằm giúp cho các em sử dụng từ có văn hoá, có đủ vốn từ dùng làm
phương tiện giao tiếp và học tập.
Mục tiêu của nhà giáo dục là giúp học sinh nắm chắc, hiểu và sử
dụng từ ngữ chính xác, dó chính là yêu cầu phải đạt chất lượng cao, đòi hỏi
người giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi và vận dụng các biện pháp thích
hợp để nâng cao chất lượng giảng dạy, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy
4
học của mình. Theo tôi đó là một việc làm rất thiết thực, bởi lẽ đó,
tôi đã chọn đề tài này làm nội dung nghiên cứu.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Từ năm 1997 thực hiện việc xây dựng lại chương trình, biên soạn
lại sách giáo khoa các môn học và những đổi mới đồng bộ về giáo dục
THCS đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết về đổi mới phương pháp dạy
học. Ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và Làm văn được tích hợp chặt
chẽ trong chương trình và tên môn học được gọi là Ngữ văn. Trong đó
phân môn Tiếng Việt đóng vai trò quan trọng, nhằm giúp học sinh lĩnh
hội kiến thức kỹ năng sử dụng ngôn ngữ qua việc dùng từ ngữ chính
xác, từ đó đem lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục hình thành một
xã hội phát triển cao hơn. Để nắm được nguồn gốc và tìm hiểu sâu về
phân môn này, phải nghiên cứu qua tài liệu ngôn ngữ học, qua thực tế
giảng dạy và qua cách học tập, sinh hoạt của học sinh.
Phân môn Tiếng Việt bao quát rộng lớn cho việc nghiên cứu trên
nhiều lĩnh vực, nó thúc đẩy con người từ nhận thức xã hội, xây dựng xã
hội bằng ngôn ngữ. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ
thuật công nghệ, ngôn ngữ càng phải phát triển để đáp ứng nhu cầu của
thời đại.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phân môn Tiếng Việt nằm trong chương trình tích hợp cùng với
văn học và Tập làm văn, hướng tới mục đích chung, nhằm “Hình thành
nên con người có trình dộ trung học cơ sở”... “Đó là những con người có
bản lĩnh, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành và có năng lực sử
dngj Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp”. Thông qua
phân môn Tiếng Việt học sinh có thêm các kiến thức để thẩm nhận,
phân tích và khai thác cái hay, cái đẹp trong văn bản văn học. Đồng thời
5
có thêm các kiến thức kỹ năng phục vụ cho việc viết các văn bản Tập
làm văn tốt. Nhằm giúp học sinh hình thành, sử dụng và tích luỹ vốn từ
một cách hoàn thiện, đầy đủ, chính xác. Tôi đã tiến hành nghiên cứu về
thực trạng dùng từ của học sinh qua các giờ học Ngữ Văn, qua hoạt
động tập thể, sinh hoạt vui chơi... Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải
pháp cho thực trạng đó.
PHẦN II
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mỗi từ, mỗi ngữ cố định không chỉ là sự kiện ngôn ngữ mà còn là
những bản tổng kết cô đọng, xúc tích phong phú. Do đó dạy từ ngữ còn
phải đảm nhiệm việc cung cấp những hiểu biết, những kinh nghiệm về
thực tế thiên nhiên, xã hội, con người và đời sống tâm hồn trí tuệ của học
sinh. Những hiểu biết này không thể quy về một bộ môn khoa học nào,
song lại rất cần thiết cho xã hội. Chính vì vậy, môn Tiếng Việt là quá trình
hai chiều rèn luyện, một mặt tiếp thu kiến thức, mặt khác rèn luyện ngôn
ngữ. Cần làm cho học sinh nắm được mọi cách sử dụng biến hoá từ ngữ đề
trong thực tế giao tiếp học sinh sử dụng vốn từ sinh hoạt và sáng tạo. Phạm
vi nghiên cứu đề tài này là xoay quanh vấn đề dùng từ của học sinh, đưa ra
nhận xét về đặc điểm của phân môn này, nhằm khai thác để sử dụng cho
việc nghiên cứu đề tài về thực trạng dùng từ của học sinh.
1. Phương pháp quan sát
Quan sát thực tại trước đối tượng, cần nghiiên cứu. Phương pháp này
giúp ta hiểu được đối tượng có đặc điểm, thực chất gì ? Yếu tố nào giúp
tạo neê đối tượng đó với bản chất như vậy. Đối tượng đó phát triển theo
chiều hướng từ đâu. Dùng các giác quan, những lý luận để quan sát kỹ lưỡng.
6
Qua thực tế này nắm bắt được thực trạng của đối tượng. Từ đó vận
dụng lý luận để trao đổi vấn đề cần quan sát nghiên cứu. Cụ thể, tôi đã
quan sát về thực trạng dùng từ của học sinh trực tiếp qua giờ học Tiếng
Việt, qua sinh hoạt học tập của học sinh, cùng trao đổi, phỏng vấn, hỏi đáp
giữa cô và trò.
2. Phương pháp đàm thoại.
Tổ chức gặp gỡ, trao đổi giữa giáo viên và học sinh về một chủ đề đã
lựa chọn kỹ, dựa trên hệ thống câu hỏi đã được chuẩn bị trước nhằm
hướng dẫn học sinh tìm hiểu theo nội dung đã định. Câu hỉ đàm thoại phải
tập trung khai thác những khía cạnh xung quanh nội dung đó nhằm nổi bật
vấn đề cần đàm thoại. Qua phương hướng này nắm được kết quả của việc
đàm thoại là phát huy tư duy, năng lực dùng từ của học sinh đồng thời phát
hiện ra những lỗi dùng từ các em thường mắc phải khi giao tiếp.
3. Phương pháp tổng hợp so sánh.
Phương pháp này tổng hợp lại những số liệu qua hai phương pháp
đàm thoại và quan sát của người điều tra. Phương pháp tổng hợp đem lại
kết quả khả quan, đánh giá được vấn để ở nhiều khía cạnh. Mức độ của
phương pháp này rộng vì đã tổng hợp đúc kết những vấn đề sâu sắc để
phân tích từ hai phương pháp trên.
II. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
1. Thực trạng dùng từ của học sinh.
Để việc nghiên cứu đề tài được chính xác, tôi xin đưa ra số liệu về
thực tế dùng từ của học sinh qua thực tế:
A. Dùng từ trong học tập.
7
* Bảng thống kê giờ Tiếng việt
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu từ Dùng từ sai
122 40% 25% 30% 5%
* Bảng thống kê giờ học giảng văn
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu từ Dùng từ sai
122 80% 10% 5% 5%
* Bảng thống kê giờ học tập làm văn (luyện nói tại lớp)
số học sinh Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu từ Dùng từ sai
122 75% 15% 7% 3%
B. Dùng từ trong sinh hoạt
- Quan sát trong giờ ra chơi. Qua nhóm học sinh nam lớp 9A, B để
tìm hiểu thực tế dùng từ của các em (nhóm 1).
Số
lần
Số HS Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu
từ
Dùng từ
sai
Lần 1 15 80% 10% 2% 8%
Lần 2 10 60% 30% 5% 5%
Lần 3 20 70% 15% 10% 5%
Nhóm 2: Gồm các em nam và nữ lớp 9C, D
Số Số HS Dùng từ Dùng từ chưa Thiếu Dùng từ
8
lần chính xác chính xác từ sai
Lần 1 25 70% 10% 10% 10%
Lần 2 20 80% 10% 10% 0
Lần 3 20 85% 10% 5% 0
Nhóm 3: Các em nữ lớp 9A, B, C
Số
lần
Số HS Dùng từ
chính xác
Dùng từ chưa
chính xác
Thiếu
từ
Dùng từ
sai
Lần 1 25 85% 10% 2% 3%
Lần 2 20 90% 5% 3% 2%
Lần 3 15 90% 7% 2% 01%
Lần 4 20 87% 10% 1% 02%
Từ số liệu điều tra và thống kê trên, tôi thấy cần phải nêu lên một số
nguyên nhân va thực trạng dùng từ của học sinh
* Nguyên nhân của việc dùng từ chưa chính xác, bí từ:
Do khối lượng từ ngữ quá đồ sộ, không thể chuyển tải hết và triệt để
vào chương trình giảng dạy, nên hó chỉ được học từ ngữ qua các chủ đề cơ
bản. Do trong giờ một số học sinh chưa chú ý nghe giảng, chưa chịu khó
tham gia xây dựng bài. Do giáo viên chưa bao quát hết việc phát vấn học
sinh cùng tham gia xây dựng bài. Trong bài giảng với lượng kiến thức
nhiều giáo viên không có thời gian gợi ý được hết để tìm hiểu, bởi một đặc
thù, tiếng việt vấn nhiều và nhiều tầng nghĩa, trong khi đó khả năng tiếp
thu, cảm nhận của học sinh còn rất hạn chế. Do ở giá đình nhiều bậc phụ
huynh chưa thực sự quan tâm đến việc các em sử dụng từ ngữ. Khi các em
dùng từ chưa chính xác hoặc bí từ không hướng dẫn hoặc kịp thời uốn nắn
sai xót cho các em.
* Nguyên nhân của việc đùng từ sai, thiếu từ.
Do các em có thói quen nói theo những lời nói sai lệch nghĩa, phóng
tác nghĩa, chuyển nghĩa theo hướng không lành mạnh từ bạn bè, từ những
9