Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

Luận văn thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.64 KB, 93 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐÊ LY LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VÊ THI
HÀNH HÌNH PHẠT TÙ ................................................................................ 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù ................................................ 5
1.2. Căn cứ thi hành án phạt tù........................................................................ 13
1.3. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù ..................................................... 18
1.4. Trình tự thủ tục hoãn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án
phạt tù, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; miễn chấp hành án phạt tù....... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VÊ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ TẠI THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG ...................................................................................................... 42
2.1. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tù
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng ....................................................... 42
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt
tù...................................................................................................................... 51
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO ÁP DỤNG
ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÊ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TÙ ....................................................................................................... 58
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tù, thi hành hình
phạt tù .............................................................................................................. 58
3.2. Giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thi
hành hình phạt tù ............................................................................................. 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành hình phạt tù (THHPT) là một trong những khâu quan trọng


của hoạt động tư pháp. Thông qua THHPT, lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mới được tôn trọng và
bảo vệ. Nếu bản án phạt tù có hiệu lực pháp luật của Tòa án không được thi
hành thì không những lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan
không được bảo vệ mà còn giảm lòng tin của nhân dân với cơ quan bảo vệ
pháp luật.
Nghiên cứu tình hình THHPT ở địa bàn thành phố Đà Nẵng cho thấy,
hoạt động này mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng hiệu lực,
hiệu quả chưa cao: Một số bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật của TAND
thành phố Đà Nẵng chưa được thi hành một cách nghiêm chỉnh; việc tổ chức
THHPT có nơi, có lúc chưa hoặc không đúng nội dung của bản án; chưa có sự
thống nhất cao trong việc áp dụng pháp luật về THHPT; công tác quản lý Nhà
nước về THHPT chưa thật sự ngang tầm với những yêu cầu, đòi hỏi của tiến
trình cải cách tư pháp… Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân liên
quan đến cả nhận thức lý luận cũng như thực tiễn THHPT. Về mặt lý luận,
vẫn còn một số vấn đề chưa được làm sáng tỏ một cách sâu sắc và toàn diện,
đến nay vẫn còn những quan điểm khác nhau về bản chất pháp lý của
THHPT.
Về mặt thực tiễn, hoạt động THHPT gặp không ít khó khăn và vẫn còn
để xảy ra những thiếu sót nhất định… đòi hỏi phải có biện pháp khắc phục
nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động THHPT.
Có thể thấy trong tình hình hiện nay với xu thế tăng cường bảo vệ quyền
con người, kể cả người bị kết án phạt tù trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
1


nhân dân thì vấn đề THHPT là một vấn đề hết sức nhạy cảm, cần được quan
tâm đặc biệt. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề THHPT trong phạm vi cả nước
nói chung và ở từng địa phương nói riêng, nhất là ở những thành phố lớn như

Đà Nẵng để góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng, trên
cơ sở đó tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc thi
hành các bản án phạt tù của Tòa án là hướng nghiên cứu có tính cấp thiết, có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Với lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thi hành hình phạt tù theo pháp
luật thi hành án hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để nghiên
cứu làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng trong
những năm gần đây đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những
phương diện khác nhau. Tiêu biểu là:
- Sách chuyên khảo “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam- Những
vấn đề lý luận và thực tiễn” của PGS.TS Võ Khánh Vinh và PGS, TS.
Nguyễn Mạnh Kháng (đồng chủ biên), do Nxb Tư pháp phát hành năm
2006; cuốn “Hoàn thiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự
ở Việt Nam” của TS. Võ Trọng Hách, do Nxb Tư pháp phát hành 2006;
Luận văn thạc sĩ Luật học “Một số vấn đề về thi hành án phạt tù ở Việt
Nam” của Lê Văn Thư, Đại học Luật Hà Nội, 1996; cuốn “Bình luận Luật
Thi hành án hình sự năm 2010” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên),
do Nxb Chính trị quốc gia phát hành 2012; cuốn “Luật Thi hành án hình sự”
của GS.TS Võ Khánh Vinh, TS. Cao Thị Oanh do Nxb Khoa học xã hội phát
hành năm 2013, v.v…
Những công trình khoa học nêu trên chủ yếu đề cập đến vấn đề thi hành
án hình sự nói chung, chỉ có luật văn thạc sĩ của Lê Văn Thư - Đại học Luật
Hà Nội là trực tiếp đề cập đến vấn đề thi hành án phạt tù, nhưng ở phạm vi cả
nước.


Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào được công
2



bố đề cập đến vấn đề thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án hình sự
Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng. Vì thế đề tài này không trùng với
bất kỳ công trình nào đã được công bố về chủ đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và
thực tiễn thi hành hình phạt tù ở thành phố Đà Nẵng, luận văn hướng tới mục
đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tù trong thời gian tới ở địa bàn thành phố Đà Nẵng
cũng như trong phạm vi cả nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ cơ
bản sau:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tù;
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù;
+ Khảo sát, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về
thi hành hình phạt tù ở thành phố Đà Nẵng.
+ Xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tù trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu: Vấn đề lý luận; quy định của pháp luật về hình
phạt tù, về thi hành hình phạt tù và thực tiễn áp dụng các quy định đó trên
thực tế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thi hành hình phạt tù với nghĩa là
thi hành án phạt tù (tù có thời hạn, tù chung thân) do các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tại thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến

năm 2016.


3


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cở sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để làm rõ từng nội
dung nghiên cứu của luận văn gồm: Phân tích, tổng hợp; so sánh, thống kê,
đàm thoại, phỏng vấn, v.v…
6. Y nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả dạt được của luận văn góp phần là phong phú lý luận chuyên
ngành thi hành án hình sự nói chung, thi hành án phạt tù nói riêng ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đạt được của luận văn có thể được sử dụng như là chỉ dẫn khoa
học trong việc hoàn thiện pháp luật về thi hành hình phạt tù cũng như đảm
bảo áp dụng đúng các quy định đó trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập,
nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo ngành Luật, chuyên ngành Luật
hình sự và tố tụng hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,…
nội dung của luận văn được kết cấu thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành hình phạt tù.

Chương 2. Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về thi hành
phạt tù tại thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo áp dụng đúng quy định của
pháp luật về thi hành hình phạt tù.
4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐÊ LY LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VÊ THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
1.1. Khái niệm, đặc điểm thi hành hình phạt tù
1.1.1. Khái niệm hình phạt tù và thi hành hình phạt tù
Theo từ điển giải thích thuật ngữ của Trường Đại học Luật Hà Nội thì
“Hình phạt tù” được hiểu là “Hình phạt tước quyền tự do của con người,
buộc người bị kết án phải cách li khỏi cuộc sống bình thường của xã hội,
sống trong môi trường riêng biệt có sự kiểm soát chặt chẽ (trại giam)” [35,
tr.65]. Đây là loại hình phạt truyền thống trong luật hình sự các nước nói
chung và cũng là loại hình phạt được quy định và áp dụng phổ biến nhất trong
thực tế ở Việt Nam hiện nay. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, hầu hết các
khung hình phạt đối với các tội phạm được xây dựng đều có hình phạt tù.
Ngoài mục đích trừng trị, giáo dục, cải tạo, hình phạt tù còn có tác dụng hạn
chế ở mức tối đa khả năng người phạm tội tiếp tục phạm tội, bảo vệ các quan
hệ xã hội trước sự đe dọa của những hành vi tái phạm. Hình phạt tù theo Luật
hình sự Việt Nam bao gồm hình phạt tù có thời hạn và không thời hạn (hình
phạt tù chung thân). Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt có khoảng thời gian
xác định. Khoảng thời gian này là từ 3 tháng đến 20 năm. Trong trường hợp
có tổng hợp hình phạt, hình phạt tù tổng hợp được phép tới 30 năm. Hình phạt
tù không thời hạn còn được gọi là hình phạt tù chung thân. Tuy cũng là loại
hình phạt tước tự do nhưng được coi là loại hình phạt đặc biệt giống như hình
phạt tử hình, do tính chất đặc biệt nghiêm khắc của nó (không thời hạn). Hình

phạt này được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Hình phạt này không
được áp dụng đối với người chưa thanh niên phạm tội. Hình phạt tù chung
5


thân là hình phạt cần thiết trong hệ thống hình phạt ở Việt Nam hiện nay.
Tính cần thiết này xuất phát từ thực tế của tình hình phạm tội và yêu cầu của
đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nó là hình phạt thay thế cho trường hợp tử
hình được ân giảm. Tính không thời hạn của hình phạt tù chung thân không
có tính tuyệt đối. Người bị án phạt tù chung thân vẫn có thể không phải chấp
hành hình phạt tù suốt đời mà có thể được giảm thời hạn chấp hành do cải tạo
tốt. Với mức giảm tối đa thì người bị phạt án tù chung thân vẫn phải chấp
hành hình phạt tối thiểu là 20 năm.
Hình phạt tù với tính chất là hình phạt chính được sắp sắp xếp trong hệ
thống hình phạt theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, có mức độ nghiêm khắc phù hợp
với các thang bậc, mức độ nghiêm trọng, nguy hiểm khác nhau của các loại
tội phạm.
Theo quy định của pháp luật, hình phạt tù chỉ được thi hành trong trường
hợp bản án kết tội của Tòa án có quyết định áp dụng hình phạt tù, đồng thời
bản án đó phải có liệu lực pháp luật. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc vì:
“Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9 BLTTHS năm 2003). Như vậy,
chỉ bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực mới được đưa ra thi hành. Tuy
nhiên, chỉ có bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật thôi thì chưa đủ điều kiện
để bản án đó được thi hành trên thực tế nếu thiếu quyết định thi hành của
người hoặc cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, để bản án phạt tù của Tòa án
được đưa ra thi hành thì phải có quyết định thi hành án của người hoặc cơ
quan có thẩm quyền, đó là Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án
được ủy quyền.

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tù như
sau: “Thi hành hình phạt tù là thực hiện bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật và đã có quyết định thi hành án, để tước tự do của người bị kết
án, buộc họ phải cách ly cuộc sống bình thường ngoài xã hội, sống trong môi
6


trường riêng biệt có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền”.
Với nghĩa như vậy, thi hành hình phạt tù trước hết là hoạt động chấp
hành hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù chung thân trong trại giam của
người bị kết án phạt tù. Ngoài ra, thi hành hình phạt tù còn bao hàm hoạt động
áp dụng pháp luật của cơ quan và người có trách nhiệm trong việc buộc người
bị kết án tù có thời hạn hoặc tù chung thân phải chấp hành hình phạt tại trại
giam; ra quyết định thi hành hình phạt tù; hoãn thi hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ thi hành hình phạt tù, xét giảm thời gian chấp hành hình phạt tù; tổ chức
quản lý giam giữ, cải tạo, giáo dục và đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp
của người bị kết án.
1.1.2. Đặc điểm thi hành hình phạt tù
Xuất phát từ sự khác biệt về nội dung của hình phạt tù so với hình phạt
tử hình cũng như các hình phạt không tước tự do khác, thi hành hình phạt tù
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tù là hoạt động áp dụng pháp luật vừa
mang tính tố tụng hình sự, vừa mang tính hành chính - tư pháp.
Với bản chất là việc thực hiện bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật nên hoạt động này diễn ra sau quá trình xét xử vụ án hình sự. Nếu
xét xử là việc áp dụng pháp luật để phán xét rồi đưa ra phán quyết là có tội
hay không có tội… thì THHPT (với nghĩa là thi hành bản án phạt tù đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án) là căn cứ vào phán quyết của Tòa án trong quá
trình xét xử biến hiệu lực pháp luật của phán quyết thành hiệu lực thực sự

trong thực tế. Giữa xét xử và THHPT là hai giai đoạn khác nhau nhưng liên
quan, tác động, hỗ trợ nhau. Xét xử làm tiền đề để tiến hành thi hành án hình
sự. Ngược lại, hiệu quả của hoạt động thi hành án hình sự nói chung, thi hành
bản án phạt tù nói riêng sẽ góp phần đạt được mục đích của hoạt động xét xử.
Do vậy, nếu cho rằng hoạt động tố tụng hình sự sẽ kết thúc khi Tòa án đã ra
7


quyết định bằng bản án phạt tù thì việc phán quyết đó của Tòa án được thực
hiện hóa một cách trọn vẹn nếu không thông qua hoạt động THHPT. Hoạt
động THHPT dựa trên kết quả xét xử, song đó cũng chỉ là điều kiện cần để
hoạt động xét xử đạt được mục đích thì phải có thêm điều kiện đủ, đó là bản
án phạt tù được thi hành trên thực tế thông qua hoạt động thi hành án hình sự.
Không phải ngẫu nhiên mà BLTTHS quy định trình tự, thủ tục tố tụng hình sự
bao gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Do vậy, thi
hành án hình sự nói chung, thi hành bản án phạt tù nói riêng là giai đoạn cuối
cùng, kế tiếp giai đoạn xét xử. Đây là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng hình
sự nhằm làm cho bản án phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi
hành trên thực tế. Với tính chất là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự
nên hoạt động THHPT được tiến hành theo đúng các quy định của BLTTHS.
Vì thế hoạt động này mang tính tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hoạt động này
không chỉ mang tính tố tụng hình sự thuần túy. Ở một chừng mực nhất định,
hoạt động THHPT còn mang tính hành chính- tư pháp. Tính hành chính của
hoạt động THHPT thể hiện ở chỗ, THHPT là hoạt động chấp hành, quản lý.
Hoạt động THHPT có tính chất chấp hành vì hoạt động này được tiến hành
trong khuôn khổ pháp luật về thi hành án hình sự nhằm thực hiện bản án phạt
tù của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Song tính chất chấp hành của hoạt động
THHPT có nét riêng, đó là hoạt động THHPT do cơ quan tư pháp và đối
tượng phải thi hành (người bị kết án phạt tù) tiến hành; cơ sở để tiến hành
hoạt động THHPT là các quy định của pháp luật thi hành án hình sự và bản án

phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; mục đích cuối cùng của hoạt
động THHPT là đảm bảo cho nội dung của bản án phạt tù được thi hành chứ
không phải ra các văn bản áp dụng pháp luật có tính chất điều hành.
Hoạt động THHPT còn mang tính chất quản lý vì hoạt động này luôn đòi
hỏi các yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý… nhằm tác động
tới các đối tượng phải thi hành hình phạt để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng
8


biện pháp cưỡng chế buộc họ phải thi hành. Ở đây tính chất quản lý cũng có
đặc trưng riêng về khách thể, đối tượng, chủ thể quản lý, về phạm vi và
phương thức quản lý… cụ thể là:
+ Khách thể quản lý là hoạt động THHPT. Đối tượng chịu sự tác động
của chủ thể quản lý là những người trực tiếp làm công tác THHPT (giám thị
trại giam);
+ Chủ thể quản lý về THHPT là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền riêng
thuộc hệ thống hành pháp, tư pháp.
Như vậy, xét về bản chất, THHPT là hoạt động có tính chất tố tụng hình
sự. Tuy nhiên, tính chất này chỉ đúng khi xét trên bình diện liên quan đến quy
định của BLTTHS về chức năng, thẩm quyền của Tòa án trong lĩnh vực thi
hành án hình sự- một giai đoạn kế tiếp của quá trình tố tụng hình sự. Song về
phương diện hành pháp, cũng như dưới góc độ tổ chức, quản lý bộ máy thì
THHPT lại là một khâu quản lý hành chính tư pháp.
Với cách nhìn nhận về THHPT được phân tích ở trên, chúng tôi cho rằng
không nên phân định THHPT chỉ là những hoạt động TTHS thuần túy hay chỉ
là hoạt động độc lập mang tính hành chính - tư pháp mà cần coi THHPT là
một dạng hoạt động tư pháp hình sự đặc thù vừa mang tính tố tụng hình sự và
vừa mang tính hành chính - tư pháp nhằm đảm bảo các bản án phạt tù của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
Thứ hai, thi hành án phạt tù là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước

Đặc điểm này thẻ hiện ở chỗ, thi hành án phạt tù là hoạt động của cơ
quan Nhà nước và người có thẩm quyền thực hiện trách nhiệm đưa người bị
kết án tù đi chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ (trại giam, trại tạm giam)
và tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo, giáo dục nhằm giúp họ trở thành
người lương thiện.Khi thực hiện trách nhiệm này, cơ quan và cá nhân có thẩm
quyền được nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc người
bị kết án tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam. Đối với người bị kết án tù
9


nếu không chịu chấp hành hình phạt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
Điều 304 BLHS… Còn đối với người bị kết án tù đang tại ngoại mà không có
mặt để đến trại giam chấp hành án sẽ bị áp dụng biện pháp áp giải.
Thứ ba, thi hành án phạt tù là hoạt động mang tính thủ tục pháp lý
Hoạt động thi hành án phạt tù không những mang tính quyền lực Nhà
nước mà còn mang tính thủ tục pháp lý bởi hoạt động này được tiến hành theo
trình tự thủ tục được quy định trong pháp luật về thi hành án (BLTTHS, Luật
Thi hành án hình sự).
Thứ tư, thi hành án phạt tù là hoạt động mang tính định hướng, tính mục
đích
Thi hành án phạt tù với tính chất là hoạt động của cơ quan Nhà nước và
người có thẩm quyền đưa người bị kết án tù đến chấp hành hình phạt tại trại
giam và tổ chức thực hiện các biện pháp giáo dục, cải tạo họ luôn hướng tới
mục đích giúp người bị kết án trở thành người lương thiện, không phạm tội
mới, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN; đồng
thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội
phạm.
Để đạt được mục đích này, thi hành án phạt tù có nhiệm vụ: Bảo đảm
hình phạt tù mà Tòa án đã tuyên trong bản án kết tội đối với bị cáo khi đã có
hiệu lực pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh trên thực tế; bảo đảm

thực hiện nghiêm chỉnh các nội dung Luật Thi hành án hình sự để đạt được
mục đích của hình phạt; thông qua thi hành án phạt tù giáo dục người khác
tôn trọng pháp luật, tích cực đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Để thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, thi hành án phạt tù không
thể không dựa trên những tư tưởng chỉ đạo mang tính định hướng xuyên suốt
như: Pháp chế XHCN; nhân đạo XHCN; dân chủ XHCN; mọi người bị kết án
đều bình đẳng trước pháp luật; phân loại và cá thể hóa việc thi hành án…
Thứ năm, thi hành án phạt tù là hoạt động phức tạp, đa dạng bao gồm
10


nhiều nội dung khác nhau.
Tính chất đa dạng, phức tạp của hoạt động thi hành án phạt tù trước hết
được thể hiện ở chỗ: Nội dung của hoạt động thi hành án phạt tù rất phong
phú. Đó là việc ra quyết định thi hành án phạt tù; tổ chức thực hiện các biện
pháp giáo dục, cải tạo phạm nhân bằng lao động, dạy nghề, học văn hóa,
v.v…; quản lý Nhà nước về thi hành án; quyết định áp dụng các biện pháp
miễn, giảm thi hành án như: hoãn chấp hành án phạt tù, miễn chấp hành án
phạt tùi, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, tạm đình chỉ chấp hành án phạt
tù, trả tự do cho người chấp hành xong án phạt tù, v.v…. Để thực hiện có hiệu
quả những nội dung trên, cơ quan thi hành án phạt tù, đặc biệt là Giám thị,
Phó Giám thị trại giam, các cán bộ quản giáo phải có kiến thức sâu rộng về
các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, nhất là kiến thức pháp luật. Ngoài
ra, những cán bộ này phải có tâm huyết với công việc đầy khó khăn, phức tạp
này mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Để hiểu rõ hơn về thi hành án phạt tù thì chúng ta cần phải đặt trong
tổng thể các hình phạt theo pháp luật hình sự để có cánh nhìn rõ nét và sâu
sắc hơn về tính chất thi hành hình phạt tù. Các tính chất Thi hành án phạt tù
có thời hạn, tù chung thân thể hiện rõ tính cưỡng chế nghiêm khắc của nó là
tước đi quyền tự do của người bị kết án. Những người này bị cách ly khỏi xã

hội, phải chịu sự quản lý, cải tạo, giáo dục trong thời hạn bị phạt tù. Các cơ
quan tham gia thực hiện thi hành án phạt tù cũng gồm nhiều cơ quan như: Toà
án, Công an, chính quyền địa phương theo dõi trong thời gian chờ xoá án
tích....; đối với thi hành án tử hình, đây là hình phạt nghiêm khắc nhất vì nó
tước đi quyền sống của kẻ phạm tội. Bởi vậy, pháp luật đã quy định riêng cho
thi hành án tử hình các nguyên tắc, trình tự, thủ tục chặt chẽ. Việc thi hành án
tử hình chỉ là quá trình mà Hội đồng thi hành án tử hình thực thi nhiệm vụ
theo thủ tục, trình tự luật định; thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo: Án
treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Người được
11


hưởng án treo vẫn làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương ngay
trong môi trường xã hội bình thường, chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan,
tổ chức, chính quyền địa phương... Việc quản lý, giám sát người hưởng án
treo là do các cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện; thi hành
án phạt tiền: Phạt tiền là một loại hình phạt (có thể là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung) về hình sự, nhưng lại được thi hành theo trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự; thi hành hình phạt trục xuất: Đây là hình phạt mới được
quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, tuy nhiên thủ tục thi hành hình
phạt này là thủ tục mang tính hành chính, có sự phối hợp của các cơ quan Toà
án, Công an, cơ quan ngoại giao...; thi hành hình phạt cấm đảm nhiệm các
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Đây là hình phạt bổ
sung, sau khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính là hình phạt tù
có thời hạn, cảnh cáo, phạt tiền... cơ quan thi hành án hình sự có trách nhiệm
ra quyết định và thông báo cho cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương nơi
người bị kết án cư trú về việc họ bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định. Việc thi hành hình phạt này có sự phối hợp
giữa cơ quan thi hành án hình sự và cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương
thực hiện sau khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính; thi hành

hình phạt cấm cư trú là việc cấm người phạm tội cư trú ở những địa phương
nhất định, thủ tục áp dụng thi hành là thủ tục hành chính. Đây cũng là thủ tục
áp dụng để thi hành các hình phạt quản chế, tước một số quyền công dân; thi
hành hình phạt tịch thu tài sản: Việc thi hành áp dụng thủ tục hành chính và
thủ tục thi hành án dân sự trong việc điều tra, kê biên, tịch thu tài sản của
người bị kết án sung công quỹ Nhà nước.
Từ những điểm phân tích trên đây, có thể hiểu: “Thi hành án phạt tù là
hoạt động áp dụng pháp luật mang tính quyền lực Nhà nước do cơ quan Nhà
nước và người có thẩm quyền thực hiện trên những nguyên tắc nhất định để
đưa bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực
12


tế nhằm cải tạo, giáo dục người bị kết án tù trở thành người lương thiện, có
ích cho xã hội”.
1.2. Căn cứ thi hành án phạt tù
Theo quy định của pháp luật, không phải mọi bản án, quyết định của tòa
án đều được đưa ra thi hành vì nó phải thỏa mãn những điều kiện nhất định.
Những điều kiện đó chính là căn cứ của việc thi hành án phạt tù. Những căn
cứ đó bao gồm:
Thứ nhất, bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Căn cứ này xuất phát từ nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội và phải
chịu phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
(Điều 9 BLTTHS, năm 2003).
Khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Những bản án và
quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
luật, bao gồm:
+ Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
+ Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;

+ Những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm .
Với quy định này thì bản án phạt tù được thi hành cũng phải là những
bản án đã có hiệu lực pháp luật nêu trên.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, bản án sơ thẩm
của Tòa án chỉ phát sinh hiệu lực pháp luật khi nội dung của bản án phản ánh
sự thật khách quan một cách có căn cứ và không bị kháng cáo, kháng nghị
trong thời hạn do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Theo Điều 255 Bộ luật
Tố tụng hình sự, bản án sơ thẩm không bị kháng cáo và kháng nghị theo trình
tự phúc thẩm và bản án phúc thẩm là những bản án phát sinh hiệu lực pháp
luật. Nếu các bản án này có tuyên hình phạt tù (hình phạt tù có thời hạn và tù
chung thân) thì đây cũng là thời điểm phát sinh điều kiện thi hành hình phạt
13


tù. Bộ luật tố Tụng hình sự chỉ ghi nhận điều kiện không bị kháng cáo, kháng
nghị trong thời hạn luật định để khẳng định thời điểm phát sinh hiệu lực pháp
luật của bản án. Theo Điều 241 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ xét xử để kiểm tra đối với phần bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị. Bởi vậy, bản án phúc thẩm chỉ là căn cứ thi hành hình
phạt tù khi giải quyết những vấn đề của bản án sơ thẩm bị kháng cáo hoặc
kháng nghị có liên quan đến hình phạt tù. Trong trường hợp nếu có kháng
cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm về các vấn đề khác thì bản án phúc thẩm,
không phải là căn cứ thi hành hình phạt tù. Tuy nhiên, theo Điều 249
BLTTHS thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo mặc dù vấn đề đó không bị kháng
cáo hoặc kháng nghị. Trong trường hợp này, bản án phúc thẩm sẽ trở thành
căn cứ thi hành hình phạt tù khi Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án phạt tù theo
hướng giảm nhẹ cho những phần không có kháng cáo, kháng nghị liên quan
đến hình phạt tù. Trong các loại bản án phạt tù kể trên, có những bản án phạt
tù mặc dù đã phát sinh hiệu lực pháp luật song không trở thành điều kiện thi

hành hình phạt tù, đó là bản án phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Theo quy
định của Điều 60 Bộ luật Hình sự thì án treo là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù một cách có điều kiện. Điều kiện để Tòa án cho người bị kết án
phạt tù được hưởng án treo là: "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào
nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không
cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo…". Khi
cho hưởng án treo, Tòa án bắt buộc phải ấn định thời gian thử thách từ 1 năm
đến 5 năm. Thời gian thử thách của Tòa án ấn định không được thấp hơn mức
hình phạt mà Tòa án đã tuyên. Trong trường hợp này, bản án phạt tù nhưng
cho hưởng án treo phát sinh hiệu lực pháp luật được xem là điều kiện để
người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, chấp hành thời gian thử thách của
án treo. Nếu trong thời gain thử thách mà người được hưởng án treo phạm tội
14


mới thì bản án tổng hợp hình phạt của của tội mới với hình phạt tù của bản án
trước mới trở thành điều kiện thi hành, nếu nó phát sinh hiệu lực pháp luật.
Tòa án cấp giám đốc thẩm và tái thẩm kiểm tra hoạt động xét xử của các
Tòa án cấp dưới trực tiếp có quyền ra quyết định đánh giá mặt pháp lý của
những bản án, đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị theo trình tự,
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Quyết định giám đốc thẩm hoặc quyết
định tái thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án phạt tù của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được coi là căn cứ thi hành hình phạt tù
trong trường hợp sử dụng quyền hạn được quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố
tụng hình sự, người đã ra kháng nghị bản án có hiệu lực pháp luật đã ra quyết
định tạm đình chỉ thi hành bản án đó. Thời điểm bản án của Tòa án có hiệu
lực pháp luật là thời điểm thi hành hình phạt tù.
Bên cạnh "Thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật", bản án đã có hiệu
lực pháp luật đó chỉ trở thành điều kiện thi hành hình phạt tù khi nó còn hiệu
lực thi hành. Nói cách khác, trong thực tiễn có những trường hợp người bị kết

án trốn tránh nhưng Tòa án quên không ra quyết định thi hành án hoặc người
bị kết án cố tình trốn tránh mà không bị truy nã nên bản án, quyết định của
Tòa án đã qua một thời gian nhất định mà chưa được thi hành. Để đảm bảo
tính ổn định của các quan hệ pháp luật về thi hành án hình sự nói chung và
thi hành án phạt tù nói riêng, mặt khác nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị kết án, tại Điều 55 BLHS quy định "Thời hiệu thi hành bản
án", theo đó người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên nếu tính
từ ngày bản án đã có hiệu lực pháp luật đã qua những thời hạn sau đây:
• 5 năm đối với trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử
phạt từ 3 năm trở xuống;
• 10 năm đối với trường hợp xử phạt tù từ trên 3 năm đến 15 năm;
• 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù trên 15 băn đến 30 năm;
15


Việc áp dụng thời hiệu đối với trường hợp xử phạt tù chung thân, sau khi
đã quá thời hạn 15 năm, do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định theo
đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong trường hợp
không cho áp dụng thời hiệu thì hình phạt tù chung thân được chuyển thành tù
ba mươi năm. Điều luật còn quy định cách tính thời hiệu trong trường hợp
người bị kết án phạm tội mới hoặc cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã;
các trường hợp không áp dụng thời hiệu (Điều 56 Bộ luật Hình sự). Với
quy định về "Thời hiệu thi hành bản án" nói trên, chỉ những bản án còn
trong thời hiệu thi hành bản án thì mới có đủ điều thi hành án. Mức xử phạt
để làm căn cứ áp dụng thời hiệu trong các trường hợp tổng hợp hình phạt là
mức hình phạt tổng hợp và tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu có
nhiều người bị kết án trong cùng một bản án thì mỗi người sẽ được áp dụng
thời hiệu riêng, phù hợp với mức hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với họ.
Tóm lại, "Còn hiệu lực thi hành" là một trong những điều kiện của bản án có
hiệu lực thi hành, tức là bản án có hiệu lực được đưa ra thi hành khi bản án đó

còn hiệu lực.
- Thứ hai, có quyết định thi hành án phạt tù của người có thẩm quyền
Bản án đã có hiệu lực pháp luật và đang còn thời hiệu thi hành chỉ được
đưa ra thi hành khi có quyết định thi hành án của Chánh án Tòa án đã xét xử
sơ thẩm hoặc của Chánh án Tòa án khác cùng cấp được ủy thác ra quyết định
thi hành án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTHS: "Trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc
kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết
định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi
hành án". Như vậy, bản án phạt tù đã có hiệu lực chỉ được đưa ra thi hành
trên thực tế, khi có quyết định thi hành án của người có thẩm quyền. Việc ra
quyết định thi hành án không phải là quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
16


mà là trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án mà cụ thể là trách nhiệm, quyền hạn
của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án khác cùng cấp được ủy
thác ra quyết định thi hành án. Như vậy, quyết định thi hành án cũng là căn
cứ, có ý nghĩa bắt buộc trong việc đưa bản án phạt tù có thời hạn ra thi hành
nhằm đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của bản án mà Tòa án tuyên hình phạt tù.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 256 BLTTHS thì quyết định thi hành án phải
ghi rõ họ tên người ra quyết định, tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành bản án
hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án;
bản án và quyết định của người bị kết án phải chấp hành. Trong trường hợp
người bị kết án đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ
thời hạn người đó phải có mặt ở cơ quan Công an để thi hành là 07 ngày kể từ
ngày nhận được quyết định. Về thời hạn, việc ra quyết định thi hành án không
được chậm trễ và trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Như vậy, quyết định thi hành án của Chánh án Tòa án có thẩm quyền
cũng là một trong những căn cứ thi hành án phạt tù. Nhưng quyết định thi
hành án chỉ trở thành căn cứ THAPT nếu đảm bảo được tính hợp pháp, tính
có căn cứ, đúng người, đúng nội dung vụ án.
Các căn cứ nêu trên mặc dù có tính độc lập nhất định, nhưng giữa chúng
có quan hệ mật thiết với nhau. Khi bản án phạt tù của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật thì tất yếu đòi hỏi Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra quyết
định thi hành án trong thời hạn luật định (trừ trường hợp hoãn thi hành án
hoặc ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì bị kháng nghị giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm). Ngược lại, Chánh án Tòa án có thẩm quyền chỉ ra quyết
định thi hành án dựa trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật. Nói cách khác, bản án phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật lại
trở thành căn cứ cho việc Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án. Trong căn cứ này, thì bản án phạt tù của Tòa án có hiệu lực pháp luật
17


là căn cứ “Cần” còn quyết định thi hành án là căn cứ “Đủ” của việc thi hành
hình phạt tù.
1.3. Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù
Một trong những đặc trưng cơ bản của thi hành án là được tiến hành theo
một trình tự, thủ tục chặt chẽ,đó là thủ tục thi hành án hình sự. Thi hành hình
phạt tù diễn ra theo một quá trình gồm nhiều hoạt động kế tiếp nhau, được bắt
đầu bằng việc ra quyết định thi hành án, đưa người bị kết án đến trại giam để
chấp hành hình phạt, tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo, giáo dục người
chấp hành án, trả tự do cho người bị kết án tù. Trong quá trình đó, đối với một
số trường hợp cụ thể, thi hành hình phạt tù còn bao gồm cả những hoạt động
khác như giải quyết việc tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù, giảm thời hạn,
miễn chấp hành hình phạt tù. Các hoạt động thi hành hình phạt tù nêu trên đều
được thực hiện theo những thủ tục được quy định trong pháp luật tố tụng hình

sự và pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam. Các thủ tục này, một mặt đảm
bảo cho thi hành hình phạt tù diễn ra được nhanh chóng, đúng theo các
nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự, tôn
trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án, mặt khác đảm bảo cho
những người chấp hành hình phạt tù những điều kiện cần thiết để nhanh
chóng cải tạo, giáo dục, trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội.
1.3.1. Trình tự, thủ tục đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp luật
ra thi hành
Theo quy định của pháp luật, việc đưa bản án phạt tù đã có hiệu lực pháp
luật ra thi hành được thực hiện qua hai bước: Ra quyết định thi hành án phạt
tù và thi hành quyết định thi hành án phạt tù. Điều 256 BLTTHS năm 2003
quy định: “Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc
thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Toà án đã xử
sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Toà án khác cùng
18


cấp ra quyết định thi hành án; Trong trường hợp người bị kết án đang
tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt tại cơ quan
Công an để thi hành án; quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc quyết
định phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án, cơ quan thi
hành án và người bị kết án; trong trường hợp người bị kết án phạt tù đang
tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án yêu
cầu Cơ quan công an cùng cấp ra quyết định truy nã”. Theo quy định của
Điều 21 Luật Thi hành án hình sự thì quyết định thi hành án phải ghi rõ họ
tên, chức vụ người ra quyết định; bản án, quyết định được thi hành; tên cơ
quan có nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án; họ tên, ngày, tháng,
năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án; thời hạn chấp hành án phạt tù,

thời hạn chấp hành hình phạt bổ sung. Trường hợp người bị kết án đang tại
ngoại, quyết định thi hành án phải ghi rõ trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định, người bị kết án phải có mặt tại cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú, cơ quan thi hành án hình
sự cấp quân khu nơi người đó làm việc. Trong thời hạn 03 ngày làm việc,
kể từ ngày ra quyết định thi hành án phạt tù, Tòa án đã ra quyết định phải
gửi quyết định thi hành án cho cá nhân, cơ quan sau đây:
- Người chấp hành án;
- Viện kiểm sát cùng cấp;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình
sự cấp quân khu;
- Trại tạm giam nơi người phải chấp hành án đang bị tạm giam;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp
hành án đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ hoặc đang tại ngoại;
- Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở;
Sau khi quyết định thi hành án phạt tù được gửi cho các chủ thể nói trên,
19


quyết định thi hành án phạt tù được đưa ra thi hành theo trình tự được quy
định tại Điều 22 Luật Thi hành án hình sự cụ thể như sau:
+ Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam thì trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, trại tạm giam
thuộc Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải
tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án và báo cáo cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh hoàn
chỉnh hồ sơ, lập danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo cơ quan
quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an. Trường hợp người bị kết án
phạt tù đang bị tạm giam tại trại tạm giam thuộc Bộ Công an thì trại tạm giam

phải tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết án, hoàn chỉnh hồ sơ và
báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an. Trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án
hình sự Công an cấp tỉnh hoặc trại tạm giam thuộc Bộ Công an, cơ quan quản
lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người chấp hành
án đi chấp hành án;
+ Trường hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam tại trại tạm giam
cấp quân khu thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết
định thi hành án, trại tạm giam phải tống đạt quyết định thi hành án cho người
bị kết án và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu. Trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu hoàn chỉnh hồ sơ, lập danh sách người chấp hành án phạt tù để
báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng. Trường
hợp người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam tại trại tạm giam thuộc Bộ Quốc
phòng thì trại tạm giam phải tống đạt quyết định thi hành án cho người bị kết
án, hoàn chỉnh hồ sơ và báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ
Quốc phòng; trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo
20


của cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu hoặc trại tạm giam thuộc Bộ
Quốc phòng, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng ra
quyết định đưa người chấp hành án đi chấp hành án; trong thời gian chờ
chuyển đến nơi chấp hành án phạt tù, người chấp hành án được hưởng chế độ
như đối với phạm nhân;
+ Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, người chấp hành án phải
có mặt tại trụ sở cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan
thi hành án hình sự cấp quân khu được chỉ định trong quyết định thi hành án.
Quá thời hạn trên mà người đó không có mặt, Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc

Cảnh vệ tư pháp thực hiện áp giải thi hành án.
1.3.2. Trình tự, thủ tục đưa người bị kết án phạt tù có thời hạn đến
trại giam tổ chức thực hiện các biện pháp cải tạo, giáo dục và trả tự do cho
người đã chấp hành xong án phạt tù
Theo quy định tại Điều 25 Luật Thi hành án hình sự, cơ quan quản lý thi
hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc
Bộ Quốc phòng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu có trách nhiệm hoàn chỉnh hồ sơ đưa người bị kết án phạt tù và hồ sơ
kèm theo đến bàn giao cho trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình
sự Công an cấp huyện đã được chỉ định để thi hành án.
Hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt tù phải có đầy đủ
các giấy tờ sau:
- Bản án đã có hiệu lực pháp luật; trường hợp xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm thì phải có bản án sơ thẩm kèm theo;
- Quyết định thi hành án phạt tù;
- Quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự đưa người chấp
hành án phạt tù đến trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự
21


Công an cấp huyện;
- Danh bản của người chấp hành án phạt tù;
- Bản sao hộ chiếu hoặc giấy tờ chứng minh quốc tịch đối với người
chấp hành án phạt tù là người nước ngoài;
- Phiếu khám sức khỏe và các tài liệu có liên quan đến sức khỏe của
người chấp hành án phạt tù;
- Bản nhận xét việc chấp hành nội quy, quy chế tạm giam đối với người
chấp hành án đang bị tạm giam;
- Các tài liệu khác có liên quan đến việc thi hành án phạt tù.

Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
được chỉ định thi hành án phải tiếp nhận người chấp hành án phạt tù khi có đủ
hồ sơ đưa người bị kết án đến nơi chấp hành án phạt tù. Việc tiếp nhận phải
được lập biên bản. Cơ quan tiếp nhận phải tổ chức khám sức khỏe ngay cho
người được tiếp nhận để lập hồ sơ sức khỏe phạm nhân.
Cơ quan tiếp nhận phạm nhân có trách nhiệm phổ biến cho phạm nhân
thực hiện các quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý, giáo dục
phạm nhân. Cụ thể là:
- Phạm nhân chỉ được đưa vào buồng giam những đồ dùng cần thiết;
trường hợp có tư trang chưa dùng đến, có tiền mặt thì phải gửi trại giam, trại
tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện quản lý; trường
hợp phạm nhân có nhu cầu được chuyển số tiền, đồ dùng, tư trang cho thân
nhân hoặc người đại diện hợp pháp và tự chịu chi phí thì trại giam, trại tạm
giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm thực
hiện việc chuyển hoặc giao trực tiếp cho người đó tại nơi chấp hành án.
- Phạm nhân không được sử dụng tiền mặt, giấy tờ có giá trị tại nơi chấp
hành án. Việc phạm nhân mua lương thực, thực phẩm và các hàng hóa khác
để phục vụ đời sống, sinh hoạt tại nơi chấp hành án được thực hiện bằng hình
thức ký sổ.
22


×