Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật thi hành án hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.26 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU HIỀN

THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN
TREO THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS, TS. NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi; các số
liệu, tư liệu được sử dụng trong Luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng;
những phát hiện đưa ra trong Luận văn là kết quả nghiên cứu của chính tác
giả Luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ THU HIỀN


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO ........... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ, án treo......................................................................................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật thi hành án hình sự về thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, án treo .................................................................................. 26
Chương 2. THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT CẢI TẠO
KHÔNG GIỮ, ÁN TREO THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN HÌNH
SỰ VIỆT NAM .............................................................................................. 36
2.1. Khái quát tình hình áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ........ 36
2.2. Kết quả thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo theo pháp luật
thi hành án hình sự Việt Nam ......................................................................... 38
2.3. Nhận xét, đánh giá về tình hình thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ, án treo ...................................................................................................... 51
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THI HÀNH
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO Ở VIỆT NAM ..58
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành hình phạt cải tạo không giam
giữ, án treo....................................................................................................... 59
3.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo ....................................................... 65
3.3. Đảm bảo các điều kiện cần thiết và chế độ chính sách cho cán bộ làm
công tác thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án treo .......................... 69
3.4. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các chủ thể thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, án treo................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


Án treo:

AT

Bộ luật hình sự:

BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự:

BLTTHS

Cải tạo không giam giữ:

CTKGG

Thi hành án hình sự:

THAHS

Tố tụng hình sự:

TTHS

Ủy ban nhân dân:

UBND

Viện kiểm sát:


VKS

Viện kiểm sát nhân dân:

VKSND


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án hình sự (THAHS) là lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, phức tạp,
liên quan đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Công tác
THAHS có vị trí quan trọng trong phòng, chống tội phạm và bảo vệ pháp luật.
Đây là hoạt động mang tính hành chính, tư pháp liên quan đến quyền con
người và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm bảo đảm cho bản án, quyết
định thi hành bản án hình sự được thực hiện thống nhất, nghiêm minh.
Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ (CTKGG), án treo (AT) là một
bộ phận của hoạt động THAHS ở nước ta. Thi hành hình phạt CTKGG, AT
được giao cho Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã thực hiện nhiệm vụ giám sát,
giáo dục người chấp hành án. Đặc trưng quan trọng của việc thi hành hình phạt
CTKGG, AT là người phải chấp hành án không bị cách ly khỏi xã hội, được
sống, học tập trong môi trường bình thường dưới sự giám sát, giáo dục của chính
quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án học tập,
công tác. Vì vậy, việc thi hành có hiệu quả hình phạt CTKGG, AT có ý nghĩa
quan trọng và góp phần thể hiện mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội,
có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống.
Xác định được ý nghĩa quan trọng của thi hành hình phạt CTKGG, AT,
vì thế, trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật về thi hành hình phạt CTKGG, AT (bao gồm các quy định về trình

tự, thủ tục, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan có thẩm quyền trong thi
hành hình phạt CTKGG, AT; quyền, nghĩa vụ của người đang chấp hành án và
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan trong thi
hành hình phạt CTKGG, AT; rút ngắn thời gian thử thách của AT; việc giảm,
1


miễn thời hạn chấp hành án phạt CTKGG và miễn chấp hành thời hạn cấm cư
trú, quản chế còn lại ...) phân công cụ thể nhiệm vụ cho cơ quan, tổ chức giám
sát, giáo dục người được hưởng AT, thi hành hình phạt CTKGG; tăng cường
công tác phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan và gia đình trong việc
giúp đỡ, giáo dục người chấp hành án; ... Nhờ đó, công tác thi hành hình phạt
CTKGG, AT ngày càng đi vào nề nếp và đã đạt được những kết quả nhất định,
góp phần bảo đảm thi hành pháp luật được nghiêm minh, phục vụ có hiệu quả
công tác phòng, chống các loại tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thi hành hình phạt CTKGG, AT còn bộc lộ
sơ hở, thiếu sót, bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phòng, chống tội
phạm và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án như việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với công tác giám sát, quản lý, giáo
dục người chấp hành AT, CTKGG của các cơ quan có thẩm quyền chưa hiệu
quả; sự phối hợp giữa các cơ quan Tòa án, Công an, Tư pháp, UBND cấp xã
chưa chặt chẽ nên không nắm được số lượng và tình hình giáo dục, cải tạo của
người thi hành hình phạt CTKGG, AT ở đơn vị, địa phương mình; biên chế,
kinh phí, phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giám sát, quản lý,
giáo dục người chấp hành án của chính quyền địa phương chưa được quy định
cụ thể, rất khó triển khai thực hiện; cán bộ theo dõi thi hành án ở cấp xã không
chuyên trách, trình độ, năng lực còn hạn chế, thường xuyên thay đổi, thiếu ổn
định về tổ chức... Mặt khác, mặc dù Luật THAHS đã được thông qua từ năm
2010 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011, nhưng cho tới nay còn nhiều quy
định liên quan đến thi hành hình phạt CTKGG, AT chưa có văn bản hướng

dẫn; bên cạnh đó, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp mới (Hiến pháp năm
2013) với các quy định cụ thể hơn về bảo đảm thực hiện các quyền con người,
quyền công dân, trong đó có lĩnh vực THAHS; Bộ luật hình sự (BLHS) năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
2


2015 đã có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2018, nội dung của các đạo luật
này có nhiều quy định mới liên quan đến thi hành hình phạt CTKGG, AT nhằm
tăng cường tính cưỡng chế của hình phạt CTKGG, AT.
Xuất phát từ tình hình nêu trên, việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận
và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt CTKGG, AT theo
quy định của Luật THAHS được đặt ra như một yêu cầu khách quan. Chính vì
vậy, học viên chọn vấn đề: "Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án
treo theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác THAHS nói chung, hình phạt
CTKGG, AT nói riêng đã được các nhà khoa học và hoạt động thực tiễn quan
tâm. Nhờ đó, trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu,
đề cập dưới các góc độ khác nhau, trong đó, đáng chú ý là các công trình sau:
- ThS. Lê Văn Thư (2001), Công an nhân dân trong việc tổ chức thi
hành án hình sự - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, đề tài khoa học cấp cơ
sở, Hà Nội;
- PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2008), Khái quát lịch sử các quy định
của pháp luật về công tác quản lý thi hành án ở Việt Nam từ năm 1945 đến
nay, Kỷ yếu Hội thảo Quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm quốc
tế, Bộ Tư pháp, Hà Nội;
- PGS, TS. Nguyễn Ngọc Anh và TS. Lê Văn Thư (2009), Tài liệu tập

huấn chuyên sâu Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thi
hành án phạt tù, NXB Lao động, Hà Nội;

3


- Đặng Thị Thanh (2009), Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong thi
hành án hình sự, Hội thảo quản lý thi hành án, các mô hình và kinh nghiệm
quốc tế do Bộ Tư pháp phối hợp với UNDP tổ chức, Hà Nội, tháng 5/2009;
- Vũ Hùng (2009), Vai trò, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong công tác kiểm sát thi hành án hình sự, Hội thảo quản lý thi hành án, các
mô hình và kinh nghiệm quốc tế do Bộ Tư pháp phối hợp với UNDP tổ chức,
Hà Nội, tháng 5/2009;
- GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2011), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật
thi hành án hình sự năm 2010 (Chủ biên), NXB Lao động, Hà Nội;
- GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh (2012), Bình luận khoa học Luật thi hành
án hình sự, (Chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội;
- GS, TS. Nguyễn Ngọc Anh, Đại tá, TS. Lê Văn Thư, ThS. Phạm Thị
Chung Thủy, CN. Công Phương Vũ (2012), Hỏi - đáp pháp luật về thi hành
án hình sự Việt Nam, NXB Lao động, Hà Nội;
- Nguyễn Minh Khuê (2016), Các hình phạt chính không tước tự do
trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
Tuy nhiên, do mục đích, cách thức tiếp cận vấn đề nghiên cứu của các
tác giả ở những góc độ khác nhau nên các công trình nêu trên mới chỉ dừng
lại ở mức độ tổng kết từng mặt công tác thuộc về quản lý nhà nước, tổ chức
và hoạt động công tác THAHS và đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn
tại, thiếu sót đối với mặt công tác đó dưới góc độ khoa học tội phạm học, giáo
dục học, tâm lý học. Việc xây dựng và đánh giá việc thi hành các quy định
của pháp luật về THAHS, bao gồm cả thi hành hình phạt CTKGG, AT chưa

được quan tâm đúng mức. Chính vì thế, việc nghiên cứu ở bình diện pháp luật
cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động thi hành hình phạt CTKGG, AT từ
đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao
4


hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành hình phạt CTKGG, AT là vấn đề mới,
không trùng lặp với các công trình đã công bố và có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành hình
phạt CTKGG, AT; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành hình phạt CTKGG, AT trong thời gian tới, góp phần giữ vững an ninh,
trật tự, bảo vệ quyền con người, tạo môi trường thuận lợi để đất nước phát triển
kinh tế - xã hội.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Dưới góc độ lý luận, nghiên cứu làm sáng tỏ các khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt
CTKGG, AT nói riêng;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng thi hành hình phạt CTKGG, AT theo
quy định của pháp luật THAHS ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những nhận
xét, đánh giá, ưu, nhược điểm và làm rõ nguyên nhân, tồn tại, hạn chế của
việc thi hành hình phạt CTKGG, AT;
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động thi hành
hình phạt CTKGG, AT trong thời gian tới, góp phần giữ vững an ninh quốc
gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là các vấn đề lý luận, pháp lý và
thực tiễn thi hành hình phạt CTKGG, AT theo quy định của pháp luật
THAHS Việt Nam.
5


- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Cụm từ viết tắt: “thi hành hình phạt CTKGG, AT” trong luận văn được
hiểu là CTKGG là hình phạt còn AT là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù
có điều kiện. Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ khoa học Luật hình sự, Luật
TTHS và Luật THAHS, phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong
một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành hình phạt CTKGG, AT trên quy
mô toàn quốc trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2017 (từ khi Luật
THAHS có hiệu lực thi hành) thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của lực
lượng Công an nhân dân.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước ta về phòng, chống tội phạm nói chung, về THAHS
nói riêng.
- Trong quá trình thực hiện luận văn, học viên đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu chuyên ngành Luật hình sự và TTHS cùng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, bao gồm:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: phương pháp này được học viên sử
dụng trong quá trình nghiên cứu luận văn để phân tích các nguồn tài liệu đã
được công bố về những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn, trên cơ sở đó
tổng hợp để rút ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu.
+ Phương pháp phân tích: phương pháp phân tích được học viên sử
dụng để phân tích các tài liệu sơ cấp và tài liệu thứ cấp, giúp học viên nắm rõ
được tất cả các khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.

Tài liệu sơ cấp bao gồm các văn bản pháp luật có liên quan, các báo
cáo, số liệu thống kê chính thức của Cơ quan quản lý THAHS (Tổng cục VIII

6


Bộ Công an); các số liệu thống kê do học viên thực hiện thông qua tư vấn
chuyên gia.
Tài liệu thứ cấp bao gồm các bài báo đăng trên tạp chí, các kết luận đã
được công bố.
+ Phương pháp tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp các số liệu, tri thức
có được từ kết quả của phương pháp phân tích. Việc tổng hợp nhằm mục đích
đưa ra những luận cứ, nhận xét và đề xuất của chính học viên về những vấn
đề chung nhất của luận văn.
+ Phương pháp so sánh: trên cơ sở rà soát, tổng hợp các quy định trước
đây và hiện nay của Đảng, Nhà nước và của Bộ Công an về thi hành hình phạt
CTKGG, AT học viên phân tích làm rõ những điểm phù hợp và bất cập trong
các quy định đó với cách nhìn nhận, đánh giá theo quan điểm lịch sử cụ thể,
làm cơ sở để đề xuất các giải pháp.
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống: những thông tin thu thập được về vấn đề
nghiên cứu của luận văn sẽ được học viên hệ thống hóa theo một cấu trúc logic
khoa học, qua đó giúp học viên có được nhận thức một cách biện chứng, tổng
hợp, khái quát nhất về hoạt động thi hành hình phạt CTKGG, AT.
+ Phương pháp tổng kết thực tiễn: trong quá trình nghiên cứu luận văn,
học viên thu thập, nghiên cứu những tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn về thi
hành hình phạt CTKGG, AT theo pháp luật THAHS ở Việt Nam, qua đó phân
tích, tổng hợp, thống kê để đưa ra những nhận định, kết luận về thực tiễn.
+ Phương pháp tư vấn chuyên gia: học viên lựa chọn những chuyên gia
lý luận và những cán bộ làm công tác thực tiễn có nhiều kinh nghiệm trong
lĩnh vực THAHS nói chung, hình phạt CTKGG, AT nói riêng để đặt ra những

câu hỏi nhằm khai thác sâu những thông tin về hoạt động này ở Việt Nam
hiện nay. Thông tin thu thập được qua tư vấn chuyên gia là cơ sở quan trọng
để học viên nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đưa ra
7


những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt CTKGG, AT ở
Việt Nam trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: từ việc nghiên cứu khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của
hoạt động THAHS nói chung, thi hành hình phạt CTKGG, AT nói riêng, kết
quả nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ và phong phú thêm những vấn đề lý
luận, góp phần thống nhất nhận thức về tổ chức và hoạt động THAHS, thi
hành hình phạt CTKGG, AT ở nước ta.
- Về thực tiễn: kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giải quyết
những khó khăn, vướng mắc, bất cập của THAHS, thi hành hình phạt
CTKGG, AT; đồng thời có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu, giảng dạy, học tập, hoạch định chính sách, sửa đổi, bổ sung các văn bản
quy phạm pháp luật, bố trí lực lượng, phương tiện và các điều kiện bảo đảm
khác trong công tác THAHS, thi hành hình phạt CTKGG, AT góp phần nâng
cao hiệu quả công tác THAHS.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thi hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, án treo.
Chương 2. Thực trạng về thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, án
treo theo pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao chất lượng thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, án treo ở Việt Nam.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ, ÁN TREO
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, án treo
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm về thi hành án hình sự
THAHS là một trong những hoạt động quan trọng trong hoạt động
hành chính - tư pháp của Nhà nước ta. Đây là giai đoạn cuối trong hoạt động
TTHS nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
phải được đưa ra thi hành. Nó có vai trò quan trọng trong công tác quản lý,
giáo dục đối với người phạm tội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật,
hiệu lực, hiệu quả của quyền lực Nhà nước. Việc làm rõ khái niệm về
THAHS có ý nghĩa quan trọng cả ở bình diện lý luận và thực tiễn trong việc
nghiên cứu hoạt động THAHS ở Việt Nam hiện nay.
Cho đến nay, các nhà khoa học pháp lý và hoạt động thực tiễn thường
dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân chia các giai đoạn TTHS và trên cơ sở
đó khẳng định vị trí của từng giai đoạn. Với quan niệm các giai đoạn TTHS là
các phần độc lập, liên quan với nhau của quá trình TTHS, phân biệt với nhau
bằng những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau,
cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau và những người tiến hành tố tụng tương
ứng, có thủ tục, trình tự thực hiện các hành vi tố tụng và đặc tính của các quan
hệ TTHS khác nhau, từ đó phân chia quá trình TTHS thành 5 (năm) giai đoạn
khác nhau, đó là: (1) Khởi tố, điều tra vụ án; (2) Xét xử sơ thẩm; (3) Xét xử
phúc thẩm; (4) Thi hành bản án và quyết định của Toà án; (5) Xét lại bản án
và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.


9


Trong khoa học luật TTHS, các nhà nghiên cứu lại chia quá trình TTHS
thành các giai đoạn tương ứng với chức năng đặc thù của cơ quan và người
tiến hành tố tụng, đó là: (1) Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; (2) Giai đoạn
điều tra vụ án; (3) Giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm; (4) Giai đoạn thi hành bản án và quyết định của Toà án.
Căn cứ vào cách phân loại nêu trên, thì hoạt động thi hành bản án và
quyết định của Toà án là một hoạt động độc lập, trong đó các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo luật định nhằm "hiện thực
hoá" nội dung bản án và quyết định của Toà án về từng vụ án hình sự cụ thể.
Vì thế, khi xem xét vị trí của hoạt động THAHS, không thể chỉ xem xét
ở bình diện pháp luật TTHS về thi hành bản án và quyết định của Toà án.
Luật TTHS chỉ điều chỉnh việc đưa bản án, quyết định hình sự của Toà án ra
thi hành và giải quyết một số vấn đề thuộc về thủ tục phát sinh trong quá trình
thi hành bản án và quyết định của Toà án. Còn các quan hệ phát sinh sau khi
bản án, quyết định hình sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nhiệm vụ thi
hành bản án của người bị kết án, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức
trong việc thi hành án, cũng như các quan hệ pháp lý khác nảy sinh trong quá
trình thi hành án lại được điều chỉnh bằng Luật THAHS và các văn bản quy
định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
Vì những lý do đó, nên khi xem xét vị trí của hoạt động thi hành bản án
và quyết định của Toà án đã có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà luật học,
các cán bộ làm công tác thực tiễn, cụ thể là:
Có ý kiến cho rằng: "Thi hành bản án và các quyết định của Toà án là
giai đoạn của tố tụng hình sự". Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động trong
quá trình thi hành bản án và quyết định của Toà án đều nằm trong phạm vi
điều chỉnh của luật TTHS. Thực chất THAHS là hoạt động tố tụng của Toà

10


án, của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho bản án và
quyết định của Toà án được thi hành nghiêm minh. Chủ thể chính của hoạt
động tố tụng trong giai đoạn này là Toà án. Điều này cũng phù hợp với quy
định của BLTTHS năm 2003 khi xác định nhiệm vụ của Bộ luật này là: "Quy
định trình tự, thủ tục, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự"
(Điều 1 BLTTHS năm 2003) [33]. Vì thế, việc thi hành bản án và quyết định
của Toà án có vị trí là một giai đoạn của TTHS.
Quan điểm khác lại cho rằng, thi hành bản án và quyết định của Toà án
là một dạng của hoạt động chấp hành thuộc chức năng của cơ quan hành
pháp. Xét về bản chất, giải quyết vụ án là hoạt động tố tụng, là quá trình xác
định sự thật khách quan của vụ án để ra quyết định xử lý vụ án theo thẩm
quyền; chức năng giải quyết vụ án kết thúc khi Toà án ra bản án hoặc quyết
định về giải quyết vụ án và bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật.
Còn THAHS là giai đoạn thực hiện bản án, quyết định của Toà án trên thực tế
và thuộc hoạt động chấp hành của cơ quan hành pháp. Vì vậy, hoạt động
THAHS hoàn toàn mang tính hành chính mệnh lệnh của hoạt động hành pháp,
tức là THAHS là hoạt động hành chính – tư pháp.
Về mặt lý luận các quan điểm nêu trên đều có những lập luận xuất phát
từ mục đích, bản chất, chức năng, nhiệm vụ và thực tiễn của công tác
THAHS. Các quan điểm về vị trí của THAHS đều có các khía cạnh hợp lý và
đáng được nghiên cứu, xem xét.
Tác giả ủng hộ quan điểm cho rằng thi hành bản án và quyết định của
Toà án không phải là giai đoạn TTHS như một số người quan niệm. Bởi vì,
theo lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật thì
căn cứ để phân định một ngành luật độc lập là dựa vào đối tượng điều chỉnh
và phương pháp điều chỉnh của ngành luật đó. Theo đó, toàn bộ hoạt động


11


trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Toà án cũng có đối tượng
điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng. Đó là các quan hệ xã hội cụ thể
nảy sinh trong quá trình thi hành, chấp hành bản án và quyết định của Toà án,
giữa một bên là Nhà nước mà đại diện là hệ thống cơ quan, tổ chức THAHS
và một bên là người bị kết án có nghĩa vụ phải chấp hành bản án, quyết định
của Toà án.
Để tổ chức thi hành các quy định của pháp luật về THAHS cần phải
xác định cách thức tác động hay nói khác, đó chính là phương pháp điều
chỉnh của pháp luật THAHS. Từ góc độ nghiên cứu này để xem xét thì thi
hành bản án và quyết định của Toà án còn có phương pháp điều chỉnh riêng
của mình - phương pháp quyền uy, mệnh lệnh. Mặt khác, theo nội dung quy
định tại Điều 1 BLTTHS năm 2003 thì việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự... đều đi đến một mục đích cuối
cùng là: "Nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô
tội" [33]. Xem ở tiêu chí này thì các nhiệm vụ đặt ra của BLTTHS năm 2003
không do các cơ quan, tổ chức THAHS thực hiện. Việc xử lý tội phạm và
người phạm tội đã kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật. Các cơ quan, tổ chức THAHS chỉ "hiện thực hoá" nội dung bản án
và quyết định của Toà án mà thôi. Hay nói cách khác là bước thực hiện tiếp
theo của hoạt động TTHS (điều tra, truy tố, xét xử). Lẽ đương nhiên, việc
thực hiện bản án và quyết định của Toà án (còn gọi THAHS) phải theo trình
tự, thủ tục luật định điều chỉnh. Theo quy định của Điều 27 BLTTHS năm
2003, các cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định
của Toà án không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà là cơ quan hành chính
- tư pháp, điều này cũng đã được ghi nhận ở khoản 4 Điều 18 Luật Tổ chức
Chính phủ năm 2011. Cùng đó, các quy định ở Chương III về người tham gia

12


tố tụng trong BLTTHS năm 2003 thì người bị kết án, cơ quan THAHS không
được xác định là người tham gia tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đi đến kết luận, hoạt động thi hành
bản án và quyết định của Toà án chủ yếu là hoạt động hành chính, tư pháp, nằm
ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự và TTHS. THAHS được hiểu là
việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành các
hoạt động nhằm đưa các bản án, quyết định của Toà án về việc đưa bản án hình
sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế, bảo đảm bản án, quyết định
của Tòa án được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án hình sự
Từ khái niệm, vị trí của THAHS đã phân tích ở trên đây, có thể rút ra
một số đặc điểm cơ bản của THAHS, cụ thể như sau:
Một là, THAHS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nuớc, đặc điểm
này thể hiện rõ nét ở việc đưa các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật ra thi hành trên thực tế, hoạt động THAHS phải do cơ quan,
người có thẩm quyền được Nhà nước giao quyền thực hiện, nhằm thực hiện
quyền lực nhà nước, mang tính chất chấp hành, điều hành.
Hai là, THAHS phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
do pháp luật quy định. Hoạt động THAHS là hoạt động nhạy cảm, phức tạp
liên quan đến quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, có trường
hợp liên quan đến việc tước tính mạng của một cá nhân - quyền cao nhất của
con người (thi hành án tử hình), vì vậy, việc THAHS cần phải quy định chặt
chẽ về trình trự, thủ tục để đảm bảo việc thi hành các bản án được cụ thể, rõ
ràng tránh sai sót trong quá trình thực hiện.
Ba là, THAHS mang tính bắt buộc thực hiện với tất cả các chủ thể kể cả
chủ thể có thẩm quyền được Nhà nước giao để đảm bảo việc thi hành án trên
13



thực tế và các chủ thể phải chấp hành án. Đối với các cơ quan, cá nhân được
Nhà nước giao quyền, các tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện nhiệm
vụ của mình và phối hợp chặt chẽ với nhau để bản án được thực thi hiệu quả;
còn đối với người phải chấp hành án phải thực hiện nghiêm túc đầy đủ nghĩa
vụ của mình mà bản án đã tuyên một cách bắt buộc không được quyền lựa
chọn, nếu không sẽ chịu cưỡng chế của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
1.1.1.3. Ý nghĩa của thi hành án hình sự
THAHS là việc đưa các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật ra thi hành trên thực tế. Với quan niệm như vậy, THAHS là một
hoạt động độc lập nhằm thực hiện bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật. Vì vậy, THAHS có ý nghĩa quan trọng, cụ thể là:
Thứ nhất, nếu như Cơ quan điều tra, VKS, Toà án khi tiến hành các
hoạt động TTHS là nhằm hướng tới mục đích là phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, thì các cơ quan, tổ chức THAHS có trách
nhiệm bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
được thi hành kịp thời, triệt để, nghiêm minh, theo đúng các quy định của
pháp luật. Với ý nghĩa này, THAHS trước hết nhằm thực hiện nguyên tắc
công bằng và nguyên tắc không tránh khỏi hình phạt của luật hình sự.
Thứ hai, THAHS còn có ý nghĩa là việc thực hiện pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực THAHS chính là sự đòi hỏi
các cơ quan và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án phải thực hiện đúng,
nghiêm chỉnh, triệt để các quy định của pháp luật về THAHS. Nghiêm chỉnh
và triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật về THAHS không những là
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức THAHS (trại giam, trại tạm giam, UBND xã,
phường, thị trấn...) mà còn là trách nhiệm của tất cả những người bị Toà án
14



kết án. Họ phải tự giác chấp hành bản án, quyết định của Toà án, nếu không
tự giác chấp hành hoặc trốn tránh thì sẽ bị Nhà nước áp dụng các biện pháp
cưỡng chế như áp giải thi hành án, truy nã... Trong khi chấp hành hình phạt,
người chấp hành án phải tuân thủ nghiêm chỉnh những quy định về quản lý,
giám sát, giáo dục cải tạo của cơ quan, tổ chức THAHS có thẩm quyền theo
quy định pháp luật.
Thứ ba, THAHS là phương tiện, là công cụ quan trọng, trực tiếp góp
phần vào bảo vệ an ninh, trật tự, phòng, chống tội phạm, từng bước loại trừ
những vi phạm pháp luật hình sự ra khỏi đời sống xã hội, đồng thời thể hiện
chính sách khoan hồng nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người chấp
hành án. Xuất phát từ lợi ích của cả cộng đồng, Nhà nước bên cạnh việc thực
hiện trừng trị người phạm tội, cũng có nhiệm vụ cải tạo, giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích cho xã hội. Còn người phạm tội khi
đã bị Toà án kết án phải có nghĩa vụ chấp hành hình phạt, bị hạn chế những
quyền, lợi ích như hạn chế tự do đi lại, tự do lựa chọn nơi cư trú, ... nhưng
trong quá trình chấp hành án họ cũng có quyền được giáo dục, cải tạo và bảo
đảm các quyền của mình. Trừng trị là biện pháp cần thiết để việc THAHS đạt
được mục đích của mình là giáo dục và cải tạo người chấp hành án trở thành
người có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, phòng ngừa họ phạm tội mới.
Thứ tư, THAHS còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
phòng ngừa những người khác phạm tội. Nói cách khác, THAHS có đầy đủ ý
nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Không thể giáo dục, cải tạo
phạm nhân nếu như không giam giữ, quản chế họ chặt chẽ, buộc họ phải
nghiêm chỉnh chấp hành quy chế, nội quy trại giam, không được trốn, chống
phá trại giam hoặc tái phạm. Ngoài ý nghĩa phòng ngừa riêng đã nêu trên, thi
hành án phạt tù còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh
15



chống và phòng ngừa tội phạm (phòng ngừa chung). Việc buộc người bị kết
án tù có thời hạn, tù chung thân vào chấp hành án tại trại giam trong từng
trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác động đến tâm lý và hành động của các
thành viên khác trong xã hội.
Thứ năm, THAHS là một loại hoạt động áp dụng pháp luật. Hoạt động
này ngoài mục đích giáo dục người chấp hành án trở thành người có ích cho
xã hội, còn nhằm mục đích tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung cho hoạt động
lập pháp, hành pháp và hoạt động nghiên cứu khoa học. Thực tiễn THAHS
thời gian qua cho thấy, để có thể đổi mới một cách cơ bản, đúng đắn nhằm
nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động THAHS, từng bước khắc phục những
tồn tại, thiếu sót trong hoạt động này cần có một hệ thống pháp luật về
THAHS có tính pháp lý cao, được xây dựng một cách khoa học, đồng bộ,
toàn diện, có tính khả thi và phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta. Thực tiễn THAHS sẽ là cơ sở, là nguồn tư liệu phong phú để nghiên
cứu, thực hiện các đòi hỏi này.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, án treo
1.1.2.1. Khái niệm thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Theo Từ điển Luật học, CTKGG là việc buộc người phạm tội phải tự
cải tạo dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi họ làm
việc hoặc cư trú qua việc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Từ sau
năm 1945, CTKGG được quy định lần đầu tiên trong Luật Nghĩa vụ quân sự
được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981: “Người nào đang ở lứa tuổi làm
nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa
vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn
luyện thì tùy mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính,
16



bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm,…” [25]. Tại Điều 6
Pháp lệnh Trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép năm 1982: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng
với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá
niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hóa, sử dụng trái phép nhãn hiệu
hàng hóa hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan nhà nước và người
tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, ….”
[21]. Đến BLHS năm 1985 đã chính thức ghi nhận hình phạt CTKGG là một
trong những hình phạt chính, tại Điều 24 BLHS năm 1985 và điểm 1, điểm 2
Nghị quyết số 02/1986/NQ-HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao quy định hình phạt này được áp dụng với người
phạm tội ít nghiêm trọng và những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà
BLHS năm 1985 quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt
CTKGG không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả trường
hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. BLHS năm 1999 đã mở
rộng diện áp dụng hình phạt CTKGG và tăng cường nghĩa vụ, trách nhiệm
của người chấp hành án, phù hợp định hướng cải cách tư pháp, theo đó tại
Điều 31 của BLHS năm 1999, hình phạt CTKGG được áp dụng từ sáu tháng
đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm
trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi
thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội
khỏi xã hội; tăng mức giới hạn thời gian CTKGG từ sáu tháng đến ba năm và
việc khấu trừ phần trăm thu nhập là chế tài bắt buộc của hình phạt CTKGG,
chỉ tùy nghi mức độ khấu trừ căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội,
thiệt hại gây ra cho xã hội và điều kiện, khả năng của người bị khấu trừ; Tòa
án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản
17



án. Đến BLHS năm 2015 hình phạt CTKGG vẫn được quy định là một trong
07 hình phạt chính, so với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ
sung nhằm tăng cường tính giáo dục, cải tạo của hình phạt CTKGG, đảm bảo
tính công khai, minh bạch trong quá trình vận dụng pháp luật về hình phạt
này, theo đó so với Điều 31 BLHS năm 1999, Điều 36 BLHS năm 2015 quy
định về hình phạt CTKGG bổ sung các nội dung sau đây:
Thứ nhất, không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người
đang thực hiện nghĩa vụ quân sự: theo Điều 4 Luật Nghĩa vụ quân sự năm
2015 thì thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ
trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân. Công dân phục vụ trong lực lượng
Cảnh sát biển và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được coi là
thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ.
Thứ hai, trường hợp người bị phạt CTKGG không có việc làm hoặc bị
mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số
công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian CTKGG. Thời gian lao
động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05
ngày trong 01 tuần. Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối
với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người
bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Thứ ba, người bị kết án CTKGG phải thực hiện những nghĩa vụ theo
quy định của Luật THAHS.
Như vậy, có thể thấy hình phạt CTKGG là một loại hình phạt chính, về
bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người bị kết án dù
được chấp hành án tại môi trường xã hội bình thường nhưng mọi việc làm của
họ đều bị theo dõi, giám sát và việc áp dụng hình phạt này có nội dung, điều kiện
và giới hạn áp dụng cụ thể riêng so với các hình phạt khác. Việc áp dụng hình
18


phạt này thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà

nước ta đối với người phạm tội, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo
của họ trở thành người có ích cho xã hội. Ngoài ra, hình phạt CTKGG còn là
một trong những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, giáo dục, cải tạo người phạm tội nói riêng.
Như vậy, CTKGG là hình phạt được quy định trong BHHS và nó được
thể hiện cụ thể bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án, thi hành hình phạt
CTKGG là một bộ phận của THAHS và phải được cơ quan có thẩm quyền tổ
chức thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Việc thi hành hình
phạt CTKGG nhằm tạo điều kiện cho người kết án lao động, học tập và chứng tỏ
sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới
sự giám sát, giáo dục của UBND xã, phường, thị trấn, đơn vị quân đội, cơ quan,
tổ chức nơi người bị kết án cư trú và gia đình người đó. Theo quy định tại khoản
6 Điều 3 Luật THAHS năm 2010 thì: “Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ
là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo
dục người chấp hành án tại xã, phường, thị trấn và khấu trừ thu nhập sung quỹ
nhà nước theo bản án đã có hiệu lực pháp luật.” [27].
1.1.2.2. Khái niệm thi hành án treo
Ở nước ta, chế định AT được quy định ngay từ những năm đầu của Nhà
nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến nay, mặc dù chưa có văn bản luật
nào đưa ra định nghĩa chính thức AT là gì, song nhìn chung các văn bản đều
đưa ra những quy định về AT, điều kiện được hưởng AT. Trải theo dòng lịch
sử lập pháp Việt Nam, các quy định về AT có một số thay đổi và ngày càng
hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh và phòng, chống tội phạm. Văn
bản đầu tiên quy định về AT là Sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 của Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tổ chức của Tòa án quân sự

19


thiết lập tại Bắc, Trung và Nam Bộ, trong đó quy định: “Khi phạt tù tòa có thể

cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản
án xử treo sẽ tạm đình việc thi hành. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên
án, tội nhân không bị tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì
bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân bị
kết án một lần nữa trước một tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành.”
[16]. BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 xác định AT là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện. Khoản 1 Điều 60 BLHS năm 1999 quy định:
"Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội
và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình
phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến năm năm" [30]. Để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại Điều 60
BLHS năm 1999, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sau khi có ý
kiến thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã
ban hành Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật
Hình sự về án treo, trong đó khẳng định “Án treo là biện pháp miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội
bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các
tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù”,
đồng thời quy định cụ thể về các trường hợp được xem xét cho hưởng AT,
các trường hợp không được xem xét cho hưởng AT, về thời gian thử thách….
Về cơ bản kế thừa quy định của BLHS năm 1999 về điều kiện áp dụng
AT và các quy định có liên quan đến AT, Điều 65 BLHS năm 2015 quy định về
AT có một số điểm sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau: (1) Bổ sung quy định về
trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định
của Luật THAHS của người được hưởng AT tại khoản 1 Điều 65 BLHS năm
20


2015; (2) Nhằm tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật và nâng cao hiệu

quả thi hành AT, khoản 5 đã bổ sung quy định: Nếu người được hưởng AT cố
ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật THAHS 02 lần trở lên, thì Toà án
có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã
cho hưởng AT; (3) Khoản 3 quy định rõ việc áp dụng hình phạt bổ sung đối
với người được hưởng AT chỉ khi trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt
này. Như vậy, so với BLHS năm 1999 thì về nguyên tắc loại hình phạt bổ
sung được áp dụng đối với người được hưởng AT mở rộng hơn, không chỉ
giới hạn ở hình phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định như quy định tại khoản 3 Điều 60 BLHS năm 1999 mà là
bất cứ hình phạt bổ sung nào được quy định trong điều luật được áp dụng.
Qua phân tích như trên, có thể thống nhất nhận thức: AT là một biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với
người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành
hình phạt tù. Như vậy, AT là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện và cũng như hình phạt CTKGG, AT được thể hiện cụ thể bằng bản
án hoặc quyết định của Tòa án, thi hành AT là một bộ phận của THAHS và
phải được cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện theo đúng trình tự, thủ
tục pháp luật quy định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị định số
61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ về thi hành hình phạt tù cho
hưởng AT, thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng AT nhằm tạo điều kiện
cho người được hưởng AT làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn
lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát,
giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc
UBND xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng AT làm việc, công tác, học
tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Theo Luật THAHS năm 2010, thi
21



×