Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Luận văn tổ chức và hoạt động của phòng tư pháp từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.14 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................................6
1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng và quá trình hình thành, phát triển của Phòng Tư
pháp ở Việt Nam .........................................................................................................6
1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp ở Việt Nam ........12
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt
Nam.....21
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ
PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................28
2.1. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng đến
tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp .................................................................28
2.2. Thực tiễn tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội
...................................................................................................................................30
2.3. Đánh giá về tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn thành phố Hà
Nội và những kinh nghiệm được rút ra .....................................................................44
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA PHÒNG TƯ PHÁP TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.....................60
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp
...............................60
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp................................62
KẾT LUẬN .......................................................................................................................72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................................74


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

2.1

Kết quả công tác ban hành và thẩm định văn bản QPPL



34

của HĐND và UBND quận, huyện, thị xã trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016
2.2

Số lượng báo cáo viên pháp luật quận, huyện, thị xã thuộc

35

thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016

2.3

Kết quả thực hiện PBGDPL trên địa bàn quận, huyện, thị

37

xã, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2016
2.4

Số lượng Tổ hòa giải và hòa giải viên ở cơ sở trên địa bàn

38

thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016
2.5

Kết quả hoạt động hòa giải của các Tổ hòa giải trên địa

bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016

38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ máy nhà nước được tạo thành bởi các cơ quan được tổ chức ở Trung
ương và địa phương, mỗi cơ quan được tổ chức ra để thực hiện thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. Ở địa phương cơ quan nhà nước thực hiện thẩm quyền
chấp hành - điều hành là UBND gồm 3 cấp cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Ở cấp
huyện, để UBND cấp huyện thực hiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng tại địa phương thì cơ quan
chuyên môn tham mưu giúp UBND cùng cấp quản lý nhà nước theo lĩnh vực,
ngành đóng vai trò rất quan trọng, trong đó có Phòng Tư pháp thực hiện tham
mưu, giúp việc phục vụ chức năng, nhiệm vụ của UBND cấp huyện. Hoạt
động của các cơ quan này là thành tố đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của
UBND cấp huyện.
Được thành lập năm 1945 và tái thành lập năm 1981 đến nay, ngành Tư pháp
từ Trung ương đến cơ sở đã không ngừng được củng cố, kiện toàn về tổ chức và
hoạt động ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò và đóng góp nhất định vào hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, giúp Chính phủ và UBND các cấp
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện đã có
công trình nghiên cứu, mỗi công trình nghiên cứu có phạm vi, mức độ, ở những giai
đoạn khác nhau và đã có những đóng góp rất lớn đối với tổ chức và hoạt động của
Phòng Tư pháp. Nhưng hiện nay, mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam đều mở cửa,
hội nhập để phát triển là xu thế tất yếu, hơn nữa Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân với nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy dân chủ, quyền

làm chủ của nhân dân đã đặt ra cho các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở nói
chung và ngành Tư pháp nói riêng phải thường xuyên củng cố, kiện toàn cảvề tổ
chức và hoạt động. Sau khi các quy định của pháp luật về hộ tịch, chứng thực, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) năm 2015… được ban hành và có hiệu
lực, qua tìm hiểu chưa có công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Phòng


1


Tư pháptừ thực tiễn thành phố Hà Nội trong một vài năm trở lại đây. Do đó, để
củng cố thêm cơ sở lý luận và pháp lý cho việc kiện toàn về tổ chức và hoạt
động của Phòng Tư pháp, học viên lựa chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động của
Phòng Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội” để triển khai nghiên cứu là cần
thiết, có ý nghĩa thiết thực lý luận, thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp huyện và Phòng Tư pháp đã có nhiều đề tài nghiên cứu ở
phạm vi khác nhau như:
Đề tài cấp Bộ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện. Thực
trạng, giải pháp kiện toàn và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động” của Lê Thị
Thu Ba, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, năm 2005.
Đề tài cấp Bộ: “Xây dựng cơ chế thi tuyển Tư pháp quốc gia đáp ứng yêu
cầu cải cách Tư pháp” của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, Phó Giám đốc Học viện
Tư pháp, năm 2011.
Luận văn thạc sĩ : “Tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội hiện nay” của Thạc sĩ Chu Văn
Liên, năm 2011.
Luận văn thạc sĩ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn tỉnh
Hưng Yên” của Thạc sĩ Lê Trọng Duẩn, năm 2015.

Luận văn thạc sĩ:“Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực tiễn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” của Thạc sĩ Lê Thị Hồng Thu, năm 2014.
Như vậy về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp chưa có nhiều đề tài
nghiên cứu, thực tế đã có đề tài cấp Bộ nghiên cứu ở phạm vi cả nước về tổ chức và
hoạt động hoặc về vấn đề thi tuyển cán bộ, công chức Tư pháp hoặc đã có đề
tài nghiên cứu thực tế tại một Phòng Tư pháp cụ thể ở một huyện thuộc thành phố
Hà Nội. Nội dung các đề tài đã đề cập đến ở mức độ khác nhau, các nghiên cứu đã
cung cấp lượng kiến thức lý luận, thông tin gần như toàn diện đối với pháp luật nói
chung và pháp luật về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp cấp huyện nói
riêng. Các đề tài đã tập trung mô tả các quy định của pháp luật, tổng kết thực tiễn
và đề ra các


2


giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp đến, các
đề tài có giá trị tham khảo rất quan trọng trong việc triển khai luận văn. Tuy nhiên,
có đề tài đã được nghiên cứu cách đây đã lâu, có đề tài vừa mới được bảo vệ cách
đây hai đến ba năm là luận cứ thời sự nhưng qua tìm hiểu, học viên thấy chưa
có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư
pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội, một địa phương có 30 đơn vị hành chính quận,
huyện, thị xã; Hà Nội là Thủ đô - trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước,
nên cấp ủy, chính quyền thành phố Hà Nội luôn mong muốn củng cố, kiện toàn
về tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc chính quyền các cấp
phù hợp với các quy định của pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu CCHC, hội nhập để
phát triển. Do đó, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp từ thực
tiễn thành phố Hà Nội là cần thiết, quá trình nghiên cứu có kế thừa các kết quả
nghiên cứu của các đề tài đã nghiên cứu, đồng thời làm rõ thêm các vấn đề lý luận,

thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp thuộc thành phố Hà Nội nói
riêng và thuộc các tỉnh, thành phố trong cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu tổng quát là củng cố thêm luận cứ khoa
học cho việc đề xuất các giải pháp nhằm góp phần đổi mới về tổ chức, nâng cao
hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam và từ thực tiễn thành phố Hà Nội, qua đó
đánh giá những hạn chế, bất cập trong thể chế, trong thực tiễn tổ chức, hoạt động
của Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện từ đó đưa ra
các quan điểm, đề xuất giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật và đổi
mới thực tiễn tổ chức, hoạt động của Phòng Tư pháp ở Việt Nam nói chung và của
thành phố Hà Nội nói riêng nhằm nâng cao chất lượng về tổ chức, hoạt động tham
mưu, giúp việc UBND, Chủ tịch UBND cùng cấp tại địa phương trong thời gian tới.
Để nghiên cứu các vấn đề về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp. Luận
văn có nhiệm vụ nghiên cứu:

3


Thứ nhất, Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp
như khái niệm, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tư pháp ở Việt
Nam.
Thứ hai, Phân tích, đánh giá thực trạng việc tổ chức và hoạt động của Phòng
Tư pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội qua đó thấy được những kết quả, tồn tại và
nguyên nhân của thực trạng đó trong tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp.
Thứ ba, Đưa ra các quan điểm, giải pháp đổi mới về tổ chức, chất lượng hoạt
động của Phòng Tư pháp đáp ứng tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn về vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp; các đề xuất quan điểm, giải pháp tiếp tục
củng cố, kiện toàn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp.

- Do thời gian có hạn, nên học viên tập trung nghiên cứu thực trạng tổ chức
và hoạt động (về hoạt động, tập trung nghiên cứu một số nhiệm vụ, quyền hạn, còn
các nhiệm vụ, quyền hạn khác, dành học viên khác tiếp tục nghiên cứu, bổ sung lý
luận và thực tiễn cho việc tổ chức và hoạt động về Phòng Tư pháp) của Phòng Tư
pháp của 30 quận, huyện và thị xã từ thực tiễn thành phố Hà Nội trong khoảng 4
đến 5 năm trở lại đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Trên cơ sở các nguyên lý cơ bản và phương pháp luận duy vật
biện chứng; chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; những quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về tổ chức bộ máy nhà nước về tổ chức chính quyền. Luận văn đã tiếp thu có
chọn lọc sau khi tham khảo một số công trình nghiên cứu khoa học, các tác phẩm,
bài viết của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về công tác tư pháp; về tổ chức
và hoạt động của Phòng Tư pháp để khẳng định việc nghiên cứu của luận văn nhằm
tiếp tục nâng cao hiệu quả về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp nói chung và
Phòng Tư pháp thuộc thành phố Hà Nội nói riêng.

4


Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài nghiên cứu, học viên sử dụng
các phương pháp nghiên cứu như phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp phân tích, phương pháp so sánh...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hoạt động có hiệu quả của các cơ quan chuyên môn, trong đó có Phòng Tư
pháp đối với một chính quyền hoạt động quản lý nhà nước ngày càng hiệu lực, hiệu
quả hướng đến xây dựng chính quyền phục vụ nhân dân, thực hiện mục tiêu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân đòi
hỏi phải kiện toàn, củng cố nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Phòng Tư pháp
là một tất yếu. Việc nghiên cứu thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư

pháp trong phạm vi thành phố Hà Nội là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của cả nước nhằm đánh giá, tổng kết, đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương là rất cần thiết.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho chính quyền và các cơ
quan chức năng của có liên quan trong việc nghiên cứu tổ chức và hoạt động của
Phòng Tư pháp trong cả nước nói chung và của thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của
Phòng Tư pháp ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Phòng Tư
pháp từ thực tiễn thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng và quá trình hình thành, phát triển của
Phòng Tư pháp ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, vị trí, chức năng của Phòng Tư pháp
Trong tác phẩm Tinh thần pháp luật (Quyển IX) Montesquieu đã khái niệm
quyền lập pháp là quyền “làm ra luật,…sửa đổi hay hủy bỏ luật đã ban hành” còn
quyền hành pháp là quyền “quyết định việc hòa hay chiến, gửi đại sứ đi các nước,
thiết lập an ninh, đề phòng xâm lược” còn quyền tư pháp là quyền “trừng trị tội
phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân” [………., tr. 105-106]. Như vậy, theo

quan niện của Montesquieu quyền Tư pháp là quyền phán xét tội, phân xử vụ việc
tranh chấp dựa trên cơ sở áp dụng luật do cơ quan lập pháp đã làm ra để xác định
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm, hậu quả pháp lý của các bên tham gia tranh chấp
dựa trên các tình tiết khách quan. Quyền tư pháp được thực hiện là năng kính phản
chiếu quyền lập pháp mang giá trị xã hội khi luật được áp dụng và được tôn trọng
thực thi trên thực tế.
Ở Việt Nam thuật ngữ “Tư pháp” được tiếp cận ở các góc độ rộng, hẹp khác
nhau và có sự khác biệt nhất định với quan niệm của Montesquieu nhưng đều thống
nhất quyền tư pháp là quyền xét xử trên cơ sở luật định. Hiểu theo nghĩa này thì
trong tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, quyền tư pháp thuộc Tòa án nhân dân
và thực hiện cải cách tư pháp mà trọng tậm là cải cách Tòa án.
Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa rộng “Tư pháp” không chỉ được quan niệm là xét
xử thuộc thẩm quyền của Tòa án mà còn hiểu là toàn bộ hoạt động bảo vệ pháp luật,
kiểm soát quyền lực ở cả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong
đó quyền hành pháp là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật liên quan đến bảo vệ
quyền con người, bổ trợ tư pháp phục vụ chính con người trong xã hội hiện tại. Đây
chính là cơ sở nền tảng hình thành hoạt động tư pháp hành chính, bổ trợ tư pháp
thuộc cơ quan hành pháp.

6


Để thực hiện các nhiệm vụ tư pháp hành chính, bổ trợ tư pháp và quản lý nhà
nước về công tác này, trong tổ chức Bộ máy nhà nước ta hiện nay, hình thành
nên một hệ thống cơ quan được tổ chức tương ứng với các cơ quan thực hiện chức
năng hành pháp tư Trung ương đến cơ sở, giúp cơ quan hành pháp quản lý hành
nước về công tác này gồm: Bộ Tư pháp giúp Chính phủ, Sở Tư pháp giúp UBND
cấp tỉnh, Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện và công chức Tư pháp-Hộ tịch
giúp UBND cấp xã các cơ quan, chức danh chuyên môn của các cơ quan hành
pháp không có chức năng thực hiện quyền tư pháp.

Tại Thông tư liên tịch số 23/2013/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2013 của Bộ
Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND
cấp huyện và công tác tư pháp thuộc UBND cấp xã đã quy định cụ thể về Phòng Tư
pháp như sau:
Khái niệm: Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện,
có trách nhiệm tham mưu, giúp việc cho UBND cấp huyện trong lĩnh vực hành
chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công
tác xây dựng và thi hành pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm tra, xử lý văn
bản quy phạm pháp luật, kiểm soát TTHC, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở
cơ sở, trợ giúp pháp lý, nuôi con nuôi, công tác hộ tịch, chứng thực, thực hiện bồi
thường nhà nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, đơn vị hành chính của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam được phân định: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; xã,
phường, thị trấn thuộc huyện, quận, thị xã, thành phố được gọi là Chính quyền địa
phương, Như vậy, chính quyền được tổ chức ở 3 cấp bao gồm: (i) cấp tỉnh: tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; (ii) cấp huyện: huyện, quận, thị xã, thành phố;
(iii) cấp xã: xã, phường, thị trấn. Riêng thành phố trực thuộc Trung ương được tổ
chức ở cấp huyện gồm: huyện, quận, thành phố và đơn vị hành chính tương đương;
ngoài ra theo quy định, Quốc hội quyết định thành lập đơn vị hành chính-kinh tế
đặc biệt. Chính quyền địa phương ở mỗi cấp đều được tổ chức hai cơ quan là

7


HĐND và UBND, trong đó HĐND do nhân dân địa phương bầu ra và UBND do
HĐND cùng cấp bầu ra, UBND là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương,
HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên.

Thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính nhà
nước tại địa phương, UBND cấp huyện có thẩm quyền trong việc thi hành pháp
luật, quản lý nhà nước trong phạm vi địa phương, thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội…; thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến
pháp và pháp luật, xây dựng chính quyền về địa giới hành chính, giáo dục, đào
tạo,văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,
hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp …; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được cấp trên
phân cấp, ủy quyền …
Để giúp UBND cấp huyện thực hiện những nhiệm vụ trên. Theo quy định
của luật, UBND cấp huyện được thành lập các cơ quan chuyên môn của mình để
thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về ngành,
lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy quyền
của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật; góp phần bảo đảm sự thống
nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác ở địa phương; chịu sự chỉ đạo, quản
lý về tổ chức, vị trí việc làm, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức và công
tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên thuộc UBND cấp tỉnh.
Thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc UBND cấp huyện trong lĩnh vực
hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp. Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn được
giao thực hiện tham mưu, giúp UBND cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm
tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo
dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở, trợ giúp pháp lý; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực;
quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; bồi thường nhà
nước và các công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.

8


- Vị trí của Phòng Tư pháp trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước,

được tổ chức ở cấp huyện, theo quan hệ chiều ngang là một trong các cơ
quan chuyên môn tham mưu, giúp việc UBND cấp huyện; theo mối quan hệ chiều
dọc thì Phòng Tư pháp là cơ quan chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên là Sở Tư pháp cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, theo nguyên tắc song trùng trực thuộc.
- Chức năng của Phòng Tư pháp tham mưu giúp UBND cấp huyện thực hiện
quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương, thực hiện một số nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự ủy quyền của UBND cấp huyện và theo quy định của pháp luật;
giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước về lĩnh vực tư pháp hành chính, bổ trợ tư
pháp tại địa phương; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn về
chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên là Sở Tư pháp.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Phòng Tư pháp
- Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử công bố với đồng bào cả nước và nhân dân toàn thế giới
về sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Để nhà nước hoạt động quản
lý xã hội thì việc tổ chức bộ máy Nhà nước nói chung và chính quyền địa
phương nói riêng, thay mặt Nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
63-SL ngày 22/11/1945 và Sắc lệnh số 77-SL ngày 21/12/1945 về tổ chức Hội
đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban hành chính (UBHC) tỉnh, huyện, xã. Trong đó
cấp cấp tỉnh và cấp xã có tổ chức có HĐND và UBHC; ở cấp kỳ và cấp huyện, khu
phố chỉ tổ chức UBHC không tổ chức HĐND.
- Ngày 19/11/1946, Việt Nam đã có bản Hiến pháp đầu tiên đặt nền móng
cho tổ chức bộ máy nhà nước, thể chế chính trị, kinh tế-xã hội…của đất nước sau
khi giành độc lập. Hiến pháp ghi nhận đất nước Việt Nam là một khối thống nhất
Trung Nam Bắc không thể phân chia. Việc tổ chức bộ máy chính quyền địa phương
tại Hiến pháp 1946 cơ bản kế thừa các quy định về tổ chức chính quyền địa phương
tại hai Sắc lệnh năm 1945 đã quy định.
- Do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Miền Bắc xây dựng CNXH, Miền Nam
tiếp tục kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã thông qua


9


bản Hiến pháp thứ hai, Hiến pháp năm 1959 quy định chính quyền địa phương được
tổ chức theo cấp hành chính, cụ thể giai đoạn này ở mỗi cấp hành chính của
chính quyền địa phương đều tổ chức hai cơ quan là HĐND và UBHC (Điều 78,
79 Hiến pháp 1959).
Tại Điều 3 Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14/9/1960 quy định về tổ
chức các Bộ và cơ quan ngang Bộ, không quy định về tổ chức Bộ Tư pháp, ở cấp
tỉnh, cấp huyện không tổ chức cơ quan tư pháp. Do đó giai đoạn này tổ chức và hoạt
động của ngành tư pháp từ trung ương đến địa phương chưa được ghi nhận. Công
tác tư pháp theo quy định tại Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và
Điều 9 Pháp lệnh số 18/LCT ngày 30/3/1961 quy định về tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân các địa phương thì Tòa án nhân dân
cấp tỉnh trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ xây
dựng tổ chức tư pháp, tập huấn cán bộ tư pháp cho xã, phường thị trấn về công tác
tuyên truyền pháp luật cho nhân dân tại địa phương.
- Sau khi thống nhất đất nước, nước ta đổi tên nước thành Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976 và Hiến pháp năm 1980 ra đời kế thừa những
quy định của Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 là bản Hiến pháp có ý nghĩa quan
trọng, cơ sở pháp lý để thể chế đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong thời kỳ mới, là nền tảng xây dựng đất nước ta trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 143/HĐBT
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp, tại Điều 3
quy định hệ thống các cơ quan tư pháp trong cả nước gồm:
+ Bộ Tư pháp.
+ Sở Tư pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương
đương.
+ Ban Tư pháp ở cấp quận, huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tương

đương.
+ Ban Tư pháp ở cấp xã, phường và các đơn vị hành chính tương đương[20].
Theo quy định ở cấp huyện, quận, thị xã có Ban Tư pháp nhưng thực tế trên
địa bàn thành phố Hà Nội không tổ chức Ban Tư pháp ở cấp huyện, quận, thị xã mà

10


được sáp nhập vào tổ chức cơ quan chuyên môn khác hoặc sáp nhập vào Văn phòng
HĐND và UBHC.
- Đại hội VI năm 1986 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi nhận giai đoạn
này đất nước đã đạt được những kết quả, thành tựu nhất định, tuy nhiên nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế là nhiệm vụ cấp thiết, do
đó nhu cầu trước hết phải sửa đổi Hiến pháp năm 1980 để tạo hành lang pháp luật,
động lực thúc đẩy mọi tầng lớp trong xã hội tham gia làm kinh tế, xây dựng đất
nước. Hiến pháp năm 1992 ra đời đã là bước ngoặt trong nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, là nền tảng để đưa
đất nước ta đạt những thành tựu sau hơn 30 năm đổi mới như ngày nay.
Do yêu cầu phát triển của xã hội, quản lý của nhà nước trước những nhiệm
vụ phải nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật,
khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân. Ngày 26/7/1993, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số
12/TTLB quy định hệ thống các cơ quan pháp chế được thành lập ở các cấp, trong
đó cấp tỉnh có Sở pháp chế hoặc Ty pháp chế; cấp huyện có Phòng hoặc Tổ pháp
chế; cấp xã có Tổ pháp chế hoặc cán bộ pháp chế. Như vậy, giai đoạn này ở cấp
huyện đã có bộ phận chuyên môn giúp việc UBND cấp huyện về công tác pháp chế
là tiền thân của Phòng Tư pháp ngay nay.
Căn cứ quy định trên, năm 1993 trên địa bàn tỉnh Hà Tây đã tổ chức thành
lập Phòng Tư pháp tại 14 huyện, thị xã. Tuy nhiên, thời điểm năm 2001 tại thành

phố Hà Nội (cũ), Phòng Tư pháp cấp huyện lại được sáp nhập vào Văn phòng
HĐND và UBND cùng cấp.
Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 và năm 2003 đã cụ thể hóa các
quy định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước trong
đó có cơ quan tư pháp của chính quyền địa phương. Ngày 06/6/2003, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp.

11


Do việc tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện chưa
thống nhất trong cả nước, ngày 29/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định
số 172/2004/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện theo quy định thì Phòng Tư pháp là cơ quan chuyên môn của UBND
cấp huyện. Năm 2004, trên địa bàn thành phố Hà Nội (cũ) tại các UBND quận,
huyện đã thành lập Phòng Tư pháp, cho đến nay theo quy định của Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015;
Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP
ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức của các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện; Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV
ngày 28/4/2009 và số 23/2013/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2013 đã quy định
cụ thể về tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp.
1.2. Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư
pháp 1.2.1. Cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp
Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp
luật, thì cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo, bồi
dưỡng có khả năng đáp ứng và hoàn thành nhiệm vụ được giao là yếu tố quyết định
khẳng định vai trò, vị trí tham mưu, giúp việc của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp huyện.

Đối với Phòng Tư pháp nói riêng và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp huyện nói chung là cơ quan được tổ chức theo mô hình chế độ thủ trưởng, nên
về tổ chức Phòng Tư pháp có Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và các công chức
khác. Trong đó: (i) Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND
cấp huyện và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao và
toàn bộ hoạt động của Phòng và công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã trên địa bàn;
(ii) Phó Trưởng phòng là người giúp Trưởng phòng phụ trách và theo dõi một số
mặt công tác; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về nhiệm vụ
được phân công. Khi Trưởng phòng vắng mặt, một Phó Trưởng phòng được Trưởng
phòng ủy nhiệm điều hành các hoạt động của Phòng; (iii) Việc bổ nhiệm, điều động,
luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cho từ chức, thực hiện chế độ,

12


chính sách đối với Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng do Chủ tịch UBND cấp huyện
quyết định theo quy định của pháp luật.
Việc bố trí cán bộ, công chức của Phòng Tư pháp thuộc thẩm quyền quyết
định của Chủ tịch UBND cấp huyện về định biên (số lượng cán bộ, công chức được
giao trong tổng biên chế của huyện do Chủ tịch UBND cấp tỉnh giao hàng năm).
Việc bố trí, sắp xếp đủ số lượng cán bộ, công chức; bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản
lý hợp lý cho Phòng Tư pháp là nhân tố quyết định để Phòng Tư pháp có khả năng
thực hiện và hoàn thành tốt các nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của
pháp luật. Ngày 31/12/2015, Bộ Nội vụ phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong cơ
quan, tổ chức hành chính của Thành phố tại Quyết định số 2076/QĐ-BNV. Ngày
06/3/2017, UBND thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch số 1553/KH-UBND về
triển khai hoàn thiện đề án vị trí việc làm đối với cán bộ, công chức, viên chức
trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập của Thủ đô.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng Tư pháp
1.2.2.1. Về công tác xây dựng pháp luật

Pháp luật là hành lang pháp lý, công cụ đảm bảo thực hiện quản lý xã hội của
nhà nước nói chung và của các cấp chính quyền ở địa phương nói riêng. Pháp luật
được ban hành với hình thức văn bản QPPL có chứa quy phạm pháp luật, được ban
hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định của pháp luật,
trong đó QPPL là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng
nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc trong phạm
vi đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và
được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Do pháp luật có hiệu lực, tác động đến các mặt
của đời sống xã hội trong khoảng thời gian dài, không gian, phạm vi của địa phương
nên việc ban hành văn bản QPPL, ở mỗi cấp chính quyền phải được thực hiện theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định rất chặt chẽ trong đó quy trình thẩm định có vai
trò kiểm tra, rà soát, đối chiếu tính thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo
văn bản QPPL trước khi được ban hành. Đây là nhiệm vụ quan trọng của chính
quyền địa phương, thể hiện chức năng quản lý nhà nước của chính quyền địa
phương, góp phần đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của bộ máy hành chính

13


nhà nước bằng pháp luật từ trung ương đến cơ sở. Ở cấp huyện, việc xây dựng pháp
luậtvăn bản QPPL của HĐND và UBND ban hành đòi hỏi yêu cầu đúng trình
tự, thủ tục, thẩm quyền, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất và đồng bộ
với hệ thống pháp luật hiện hành. Văn bản QPPL tác động tích cực, thúc đẩy kinh
tế-xã hội của địa phương phát triển khi văn bản đó được ban hành kịp thời, hợp
hiến, hợp pháp thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và ngược lại.
Theo quy định của pháp luật, HĐND và UBND cấp huyện có thẩm quyền
ban hành văn bản QPPL đối với những việc do luật quy định. Để việc ban hành văn
bản của HĐND và UBND cấp huyện đảm bảo tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp
đảm bảo tính khả thi trên thực tế, luật quy định Phòng Tư pháp có nhiệm vụ thực
hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện quản lý nhà nước thống nhất về

công tác xây dựng pháp luật tại địa phương như: Phối hợp xây dựng quyết định
thuộc thẩm quyền ban hành của UBND cấp huyện do các cơ quan chuyên môn khác
thuộc UBND cấp huyện chủ trì xây dựng; Thẩm định dự thảo các văn bản QPPL
thuộc thẩm quyền ban hành của HĐND và UBND cấp huyện; góp ý dự thảo văn
bản QPPL của HĐND cấp huyện theo quy định của pháp luật và tổ chức lấy ý kiến
nhân dân về các dự án luật, pháp lệnh theo sự chỉ đạo của UBND cấp huyện và
hướng dẫn của Sở Tư pháp [27].
1.2.2.2. Về phổ biến, giáo dục pháp luật
Pháp luật sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để được
thực thi trong thực tiễn thì giai đoạn đưa pháp luật vào thực tiễn là quá trìnhphổ
biến, giáo dục pháp luật (viết tắt PBGDPL) đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội
để cán bộ, nhân dân nắm bắt, tìm hiểu, biết thực hiện, chấp hành giúp cho văn bản
pháp luật đó “sống” trong thực tiễn xã hội… Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến
công tác PBGDPL và đã ban hành các văn lãnh đạo, chỉ đạo như Chỉ thị số 32CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác PBGDPL, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân
dân; Nghị quyết số 06/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ về việc tiếp
tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công
tác PBGDPL, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết định số

14


37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
chương trình PBGDPL từ năm 2008 đến năm 2012. Nhận thấy, việc PBGDPL
là nhiệm vụ đầu tiên để đưa pháp luật đến với thực tiễn đời sống xã hội ngay sau
khi được ban hành là công tác PBGDPL, ngày 20/6/2012, Quốc hội đã ban hành
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Chính phủ đã ban hành Nghị định số
128/2013/NĐ-CP ngày 04/4/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật là cơ sở pháp lý quan trọng để toàn bộ hệ thống chính trị của các
cấp, các ngành và địa phương tổ chức thực hiện công tác này [9, tr. 2].

Giúp UBND cấp huyện về công tác này, UBND huyện thành lập Hội đồng
phối hợp PBGDPL và Phòng Tư pháp là cơ quan thường trực của Hội đồng thực
hiện tham mưu giúp Hội đồng PBGDPL và UBND cấp huyện công tác PBGDPL
trên địa bàn.
1.2.2.3. Về công tác hòa giải ở cơ sở
Hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp
đạt được thoả thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những việc vi phạm pháp luật và
tranh chấp nhỏ nhằm giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy tình
cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng
ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng
dân cư.Do đó hòa giải cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện ở cơ sở
thôn xóm, bản ấp, khu dân cư hoặc nơi họp chợ, điểm du lịch, vui chơi giải trí, hoạt
động này xuất phát từ đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta như: “Tắt lửa tối
đèn có nhau” hoặc “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” …Thông qua hoạt động
hòa giải ở cơ sở góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự, phòng ngừa tội phạm, vận
động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, tăng cường đoàn kết trong nội bộ,
cộng đồng dân cư, củng cố tình làng nghĩa xóm, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã
hội ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Quan tâm làm tốt công tác
này ngay từ cơ sở thôn, xóm, khu dân cư, tổ dân phố vì quá trình hòa giải đã hóa
giải được các tranh chấp, mẫu thuẫn nhỏ trong nội bộ nhân dân ngay từ khi phát
sinh, ngay từ gốc rễ, giải quyết được từ gốc rễ với quan điểm từ mẫu thuẫn, tranh
chấp to thành mẫu thuẫn nhỏ, từ mẫu thuẫn, tranh chấp nhỏ thành không có gì, góp

15


phần làm ổn định an ninh trật tự ngay tại thôn xóm, khu dân cư, tổ dân phố. Nếu
không được quân tâm hóa giải thì tranh chấp, mẫu thuẫn thì từ bé xé thành to, để
lâu ngày sẽ cháy dẫn đến phức tạp hóa tranh chấp, mẫu thuẫn thù vặt thành mẫu
thuẫn, tranh chấp không thể hòa giải được và phải giải quyết bằng pháp luật, bởi

cơ quan nhà nước các cấp hoặc có thể là phán quyết của Tòa án. Do đó, chính
quyền phải có trách nhiệm giải quyết theo quy định của pháp luật, mất công sức,
thời gian…lẽ ra thời gian, công sức đó dành để tập trung phát triển kinh tế-xã hội
của địa phương; chăm lo đến đời sống của nhân dân… và khi vụ việc đã được giải
quyết bằng pháp luật sẽ mất tình, mất nghĩa giữa anh em, họ hàng, tình làng,
nghĩa xóm…sẽ không thể hàn gắn nếu không bỏ qua được cho nhau từ những cố
chấp, thù vặt, mặc cảm, cay cú vì thua cuộc trong tranh chấp, mẫu thuẫn…
Với ý nghĩa tốt đẹp, vai trò quan trọng của công tác hòa giải đòi hỏi các cấp,
các ngành quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thì các tranh chấp phát sinh được hòa
giải ngay từ cơ sở sẽ góp phần giúp hoạt động quản lý nhà nước của nhà nước có
hiệu quả ngay từ cơ sở thôn, xóm, khu dân cư … Nhà nước thực hiện quản lý nhà
nước về công tác hòa giải ở cơ sở là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm tạo ra các điều kiện, xác lập, duy trì, phát triển ổn định tổ chức và hoạt động
hòa giải ở cơ sở; đảm bảo cho hoạt động hòa giải ở cơ sở đạt hiệu quả vừa tuân theo
pháp luật, vừa vun đắp đoàn kết trong cộng đồng dân cư gắn kết nghĩa tình, đạo lý
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta trên cơ sở xây dựng một hệ thống các văn bản
pháp luật về hòa giải ở cơ sở như Pháp lệnh hòa giải ở cơ sở năm 1998; Nghị định
số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của pháp lệnh hòa giải; Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 27/6/2011 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở.
- Năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Hòa giải ở cơ sở; Nghị định
số 15/2014/NĐ-CP 27/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải. Ngày 22/12/2014, UBND thành phố
Hà Nội ban hành Quyết định số 92/2014/QĐ-UBND về áp dụng mức chi công tác
hòa giải ở cơ sở.
1.2.2.4. Về công tác kiểm soát thủ tục hành chính

16



Hệ thống pháp luật thống nhất, hợp hiến, hợp pháp, có tính khả thi ghi nhận
quyền, nghĩa vụ của tổ chức cá nhân được thực hiện, thông qua đó Nhà nước thực
hiện quản lý xã hội một cách hiệu lực, hiệu quả trên cơ sở là một hệ thống pháp
luật có khả năng điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội được gọi là pháp
luật nội dung; ngoài ra còn có pháp luật hình thức sẽ quy định cách thức, trình
tự, thủ tục thực hiện các quy định của luật nội dung. Ví dụ: Khiếu nại về việc nhà
nước thu hồi đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải căn cứ vào quy định của
pháp luật Đất đai để giải quyết (luật nội dung), còn quy trình, thủ tục thực hiện giải
quyết cơ quan nhà nước sẽ phải căn cứ vào pháp luật về khiếu nại đã quy định để
làm theo (luật hình thức)…
Để đáp ứng các việc do tổ chức, cá nhân yêu cầu diễn ra hàng ngày nói trên
để Nhà nước có cơ sở phục vụ nhân dân thì đòi hỏi cũng phải có pháp luật quy định
về cách thức, trình tự, cách thức, trách nhiệm của cơ quan nhà nước phục vụ; đồng
thời quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình (luật hình thức) về một công việc cụ thể giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân,
Nhà nước quy định các thủ tục hành chính, mỗi loại việc yêu cầu có một thủ tục để
Nhà nước giải quyết cho tổ chức, cá nhân gọi là thủ tục hành chính (dịch vụ công-là
dịch vụ do Nhà nước trực tiếp thực hiện). Vậy có thể hiểu thủ tục hành chính là
trình tự, cách thức thực hiện hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá
nhân, tổ chức yêu cầu.
Nhà nước sau khi ban hành thủ tục hành chính để giải quyết một công việc
cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức. Nhưng các quy định của luật nội dung luôn
luôn có xu hướng bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới cho phù hợp với
thực tiễn, trước yêu cầu công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện thủ
tục hành chính, loại bỏ những thủ tục gây khó khăn, cản trở cho tổ chức, cá nhân
thực hiện quyền, nghĩa vụ do pháp luật quy định. Đồng thời Nhà nước biết được
thủ tục hành chính quy định về trình tự, cách thức thực hiện giải quyết một hồ sơ,
công việc cụ thể do cá nhân, tổ chức yêu cầu. Cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền ban hành còn phù hợp hay không, đòi hỏi Nhà nước phải kịp thời phát hiện


17


để loại bỏ hoặc chỉnh sửa thủ tục hành chính không phù hợp, rào cản, gây phiền hà
hoặc bổ sung thủ tục hành chính cần thiết, đáp ứng nhu cầu thực tế; bảo đảm
quy định thủ tục hành chính đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tiết kiệm thời gian, chi
phí, công sức của tổ chức, cá nhân và cơ quan thực hiện thủ tục hành chính.
Môi trường đầu tư, sự hài lòng của tổ chức, cá nhân đặc biệt là thu hút đầu tư
nước ngoài đã dần được cải thiện là một lăng kính phản chiếu giúp nhà nước đánh
giá chất lượng của hệ thống pháp luật nói chung và TTHC do bộ máy hành chính
thực hiện hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, những bất cập, rào cản không những trong
các quy định luật nội dung mà còn ở trong các TTHC (luật hình thức) không những
còn rườm rà, không cần thiết cần phải loại bỏ mà còn tình trạng ở nhiều địa phương
trong cả nước còn đặt ra rất nhiều thủ tục ngoài quy định của luật.
Về công tác này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2010/NĐ-CP
ngày 08/10/2010 của Chính phủ về kiểm soát TTHC và nhiệm vụ kiểm soát TTHC
được giao cho Văn phòng Chính phủ và ở cấp tỉnh giao cho Văn phòng UBND thực
hiện; Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/05/2013 sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát TTHC đã chuyển thẩm
quyền, trách nhiệm sang cho cơ quan Tư pháp, theo đó cơ quan kiểm soát TTHC
ở trung ương giao cho Bộ Tư pháp và ở UBND cấp tỉnh giao Sở Tư pháp thực hiện.
Xác định trọng tâm cải cách hành chính và cải cách chế độ công vụ, công
chức, của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/5/2013
về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020. Ngày
19/8/2013, Bộ Tư pháp đã ban hành Văn bản số 5957/BTP-KSTT về triển khai thực
hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về công tác kiểm soát TTHC, Bộ Tư pháp yêu
cầu rà soát, kiện toàn cán bộ đầu mối thực hiện kiểm soát TTHC ở các cơ quan, đơn
vị trong đó yêu cầu đối với UBND cấp huyện, bố trí tối thiểu từ 02 cán bộ đầu mối
là lãnh đạo UBND huyện và một cán bộ lãnh đạo Phòng Tư pháp [3, tr. 3] để thực

hiện nhiệm vụ đầu mối kiểm soát TTHC.
1.2.2.5. Về công tác quản lý và đăng ký hộ tịch
Một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết đi có liên quan đến những việc
như: sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; xác định cha, mẹ,

18


con; xác định lại dân tộc, giới tính; thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch; thay đổi
quốc tịch; chấm dứt nuôi con nuôi…được gọi là những sự kiện về Hộ tịch-nhân
thân của một con người. Những việc hộ tịch khi được đăng ký bởi cơ quan nhà
nước có thẩm quyền sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt về hộ tịch đối với
một con người, tác động trực tiếp tới việc thực hiện quyền, nghĩa vụ cơ bản của
con người. Nhà nước thực hiện quản lý thực trạng, biến động về hộ tịch để nhà
nước bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, gia đình đồng thời thông
qua đó Nhà nước xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng gắn liền với chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình trong từng giai
đoạn cụ thể của bất cứ quốc gia nào. Ở Việt Nam, với một quốc gia hơn 90 triệu
dân, quản lý nhà nước về hộ tịch là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các
ngành và chính quyền từ trung ương đến cơ sở, ngày 20/11/2014 Quốc hội đã
ban hành Luật Hộ tịch khẳng định tầm quan trọng của công tác này trong thực
tiễn đòi hỏi phải nâng quy định từ Nghị định thành Luật để quản lý, đáp ứng yêu
cầu hội nhập quốc tế, tương trợ Tư pháp. Theo Luật Hộ tịch năm 2015 quy
định Sổ hộ tịch là sổ giấy được lập và lưu trữ tại cơ quan đăng ký hộ tịch để xác
nhận hoặc ghi các sự kiện hộ tịch [27, tr. 14] và Sổ hộ tịch là tài sản quốc gia,
được lưu trữ vĩnh viễn theo quy định pháp luật về lưu trữ quy định tại Điều 12
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 quy định chi tiết một số điều và
biện pháp thi hành Luật Hộ tịch [13, tr. 7] và tại Điều 17 Thông tư số
15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 của Bộ Tư pháp quy định thẩm quyền in biểu
mẫu hộ tịch, Sổ hộ tịch [4, tr. 9].

1.2.2.6. Về quản lý công tác thi hành pháp luật về

lý vi phạm hành chính

Những hoạt động - hành vi do con người thực hiện hàng ngày có hai xu
hướng (i) ứng xử phù hợp, được xã hội chấp nhận, pháp luật không ngăn cấm;
(ii) ứng xử không phù hợp, nguy hiểm hoặc không có lợi cho xã hội, pháp luật quy
định là hành vi bị nghiêm cấm. Ví dụ: hành vi đi ngược chiều, điều khiển phương
tiện đi lên vỉa hè dành cho người đi bộ khi tham gia giao thông đường bộ… và
nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự mà hành vi đó theo quy định
phải bị xử lý VPHC, thực tiễn đời sống xã hội hành vi VPHC diễn ra hàng giờ,


hàng ngày đặc biệt trong hàng trăm lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như
giao thông đường

19


bộ, an ninh trật tự, gian lận thương mại, hàng nhái, hàng giả, đất đai, môi trường,
trật tự xây dựng…. Theo quy định của Luật Xử lý VPHC năm 2012 các hành vi vi
phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực cụ thể giao cho Chính phủ quy
định trong từng Nghị định thuộc các lĩnh vực khác nhau. Có thể nói, pháp luật về
xử lý VPHC rất đặc biệt kết cấu có hai phần nhưng do 03 chủ thể ban hành, cụ
thể: (i) phần chung do Quốc hội ban hành, (ii) phần hành vi vi phạm, mức phạt
cụ thể do Chính phủ ban hành… và (iii) HĐND thành phố trực thuộc trung
ương cũng có thẩm quyền ban hành Nghị quyết quy định mức phạt vi phạm trong
hoạt động xây dựng, văn hóa trong phạm vi địa phương theo nguyên tắc mức phạt
gấp 2 lần mức phạt Chính phủ đã quy định trong Nghị định thuộc lĩnh vực xây
dựng. Năm 2012, Quốc hội đã ban hành Luật Xử lý VPHC năm 2012 thay thế Pháp

lệnh Xử lý VPHC năm 2002. Đồng thời Chính phủ đã quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013
(Nghị định số 81) quy định trách nhiệm của UBND cấp huyện báo cáo công tác
thi hành pháp luật về xử lý VPHC trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của
địa phương; đồng thời UBND cấp huyện trong quá trình thi hành pháp luật về xử
lý VPHC, nếu phát hiện các quy định về xử lý VPHC không khả thi, không phù
hợp với thực tiễn hoặc chồng chéo, mâu thuẫn, thì kiến nghị cơ quan chủ trì soạn
thảo hoặc Bộ Tư pháp để nghiên cứu, xử lý. Nhiệm vụ trên, theo quy định của
pháp luật được giao cho Phòng Tư pháp tham mưu, giúp Chủ tịch UBND cấp
huyện báo cáo tình hình thi hành pháp luật về xử lý VPHC tại địa phương.
Như vậy theo quy định của pháp luật về xử lý VPHC, Phòng Tư pháp có
nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp theo dõi, hướng dẫn việc thi hành (áp dụng) pháp
luật về xử lý VPHC trên địa bàn cấp huyện, đồng thời tổng hợp giúp UBND cấp
huyện báo cáo, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung đối, bãi bỏ với những
khó khăn, vướng mắc, các quy định chồng chéo, không khả thi...trong quá trình thi
hành pháp luật về xử lý VPHC tại địa phương.
1.2.2.7.Thực hiện các nhiệm vụ khác do UBND cấp huyện giao hoặc theo
quy định của pháp luật

20


×