Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề bảo vệ tổ QUỐC xã hội CHỦ NGHĨA và bảo vệ tổ QUỐC VIỆT NAM xã hội CHỦ NGHĨA TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.04 KB, 16 trang )

BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1. BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ QUY LUẬT CHUNG
CỦA CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Khái niệm Tổ quốc và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
1.2. Tính tất yếu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
2. BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

2.1. Những nhân tố tác động đến quốc phòng an ninh hiện nay
2.2. Mục tiêu và quan điểm, tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay
KẾT LUẬN


2

LỜI NÓI ĐẦU

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tình hình hiện
nay, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào, chủ nghĩa đế
quốc và bọn phản động quốc tế nhân cơ hội đó thực hiện nhiều âm mưu, thủ
đoạn tấn công quyết liệt vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại; đối với Việt
Nam, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyên”


hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, do đó vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đặt ra hết sức cấp thiết cả về phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn.
1. BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA LÀ QUY LUẬT CHUNG CỦA
CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

1.1. Khái niệm Tổ quốc và Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Tổ quốc là một ý niệm đã từng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân
loại. Đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau về Tổ quốc. Theo từ điển Bách
khoa, Tổ quốc là một tổng thể các yếu tố, ngoài những yếu tố đất nước, con
người còn có yếu tố chính trị, xã hội. Với cách tiếp cận trên, Tổ quốc là một
phạm trù lịch sử dùng để chỉ một vùng lãnh thổ mà trên đó nhân dân sống và
lao động trong một môi trường chính trị - xã hội và văn hoá nhất định.
Như vậy, Tổ quốc một mặt có yếu tố vĩnh hằng, đó là nơi chôn nhau cắt
rốn của mọi người dân, cội nguồn của mỗi cộng đồng dân cư cùng chung sống
lâu đời, quyết định lòng yêu quê hương đất nước của mọi người, mọi thế hệ.
Mặt khác, Tổ quốc không phải là một khái niệm trừu tượng, nhất thành bất biến
mà là một phạm trù mang tính lịch sử. Tổ quốc luôn tồn tại trong mối quan hệ
giữa hai phương diện: tự nhiên và xã hội. Tổ quốc được nghiên cứu như một
thực thể thống nhất biện chứng của nhiều yếu tố, đất nước, con người với các
phong tục, tập quán, truyền thống văn hoá và những quan hệ kinh tế, xã hội
giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các tộc người trong một chế độ kinh tế chính trị thống nhất. Các yếu tố đó luôn biến đổi, phát triển không ngừng, do
đó đã làm cho Tổ quốc cũng có sự biến đổi. Trong các yếu tố tạo thành Tổ


3

quốc thì môi trường xã hội - chính trị là yếu tố cơ bản nhất qui định tính chất
của Tổ quốc; sự phát triển của Tổ quốc phụ thuộc vào sự nối tiếp nhau của các

chế độ xã hội từ thấp lên cao; Tổ quốc ở mỗi giai đoạn được đặc trưng bằng
chế độ xã hội nhất định. Mỗi quốc gia dân tộc trên thế giới tùy độ dài của sự
trường tồn của nó trong lịch sử mà trải qua nhiều hay ít chế độ xã hội, và tuỳ
thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội và hoàn cảnh quốc tế cụ thể mà mỗi quốc
gia có con đường, hình thức phát triển đặc thù, có thể có quốc gia bỏ qua giai
đoạn nào đó của tiến trình lịch sử, nhưng không thể có một quốc gia nào với tư
cách là một “Tổ quốc thuần tuý” lại phát triển ngoài chế độ xã hội.
Tổ quốc hình thành khi diễn ra sự phân công lao động, xuất hiện giai
cấp và nảy sinh nhà nước. Tổ quốc là chế độ kinh tế và chính trị, gắn với giai
cấp và nhà nước. Do đó, trong điều kiện của xã hội có đối kháng giai cấp thì
không có một Tổ quốc chung cho kẻ thống trị và người bị trị. Trên ý nghĩa đó,
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Dưới chủ nghĩa tư bản, công nhân không có Tổ
quốc. Người ta không thể cướp của họ cái mà họ không có” 1. V.I.Lênin chỉ ra
rằng: giai cấp vô sản khi chưa giành được chính quyền vẫn có Tổ quốc của
mình, dĩ nhiên ý niệm về Tổ quốc của giai cấp vô sản không giống ý niệm về
Tổ quốc của giai cấp tư sản. Người viết: “Đối với chúng ta, những người vô
sản đại Nga giác ngộ, lòng tự hào dân tộc có phải là xa lạ không? Lẽ cố nhiên
là không. Chúng ta yêu mến ngôn ngữ và Tổ quốc chúng ta” 2. Như vậy, Tổ
quốc luôn mang tính giai cấp sâu sắc, bản chất chính trị - xã hội của Tổ quốc
chủ yếu được quy định bởi: giai cấp nào thống trị xã hội thì giai cấp đó là
người đại diện cho Tổ quốc, chi phối và quyết định đến vận mệnh và sự phát
triển của Tổ quốc. Tổ quốc của giai cấp nào thì phục vụ lợi ích của giai cấp
đó, không có Tổ quốc chung cho mọi giai cấp nếu như các giai cấp đó không
có sự thống nhất về lợi ích.
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một loại hình Tổ quốc mà trong đó giai cấp
công nhân và nhân dân lao động đã thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa ra đời gắn liền với thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
là thành quả cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
1
2


C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, t. 4, tr 623
V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Sự thật, H,1963, t. 21, tr197


4

Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là loại hình Tổ quốc khác về chất so với loại
hình Tổ quốc của giai cấp thống trị bóc lột trong lịch sử. Trong chế độ tư bản,
vận mệnh của Tổ quốc do giai cấp tư sản định đoạt, thậm chí giai cấp tư sản
còn lợi dụng lòng yêu Tổ quốc, kích động lòng tự hào dân tộc, đẩy giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nước mình vào cuộc chiến tranh phi nghĩa
thôn tính các dân tộc nhỏ, yếu, kém phát triển. Trong chế độ tư bản, ở giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, lòng yêu nước kết hợp với lòng yêu giai cấp
đã kích thích tinh thần đấu tranh chống lại chế độ đang áp bức bóc lột họ.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, với tư cách là người chủ xã hội, đồng thời là
người chủ Tổ quốc, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, với Nhà nước của mình tiến hành xây dựng Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó. Đối với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, Tổ quốc chân chính gắn liền làm một với chế độ xã
hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cơ sở kinh tế của Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa được hình thành và ngày càng
hoàn thiện; cơ sở chính trị - xã hội của nó là sự liên minh bền vững của giai cấp
công nhân với nhân dân lao động, là Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức
chính trị - xã hội khác do Đảng Cộng sản lãnh đạo; xu hướng phát triển của Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa là đoàn kết cộng đồng trong nước và các nước xã hội
chủ nghĩa, thực hiện chính sách hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền của các
nước và các dân tộc. Có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa là: do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp
nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, với tính cách là một hiện tượng chính trị - xã
hội mang tính lịch sử sẽ từng bước hòa nhập vào một ý niệm rộng hơn là cộng
đồng nhân loại khi chủ nghĩa cộng sản thắng lợi trên phạm vi toàn thế giới.


5

Trong giai đoạn lịch sử hiện nay, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại và phát
triển như một nhân tố mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân
tộc lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Không nhận rõ điều này là mơ hồ, mất
cảnh giác, dễ rơi vào những ảo tưởng của một thế giới đại đồng tư sản trong
quá trình toàn cầu hóa kinh tế, dễ bị những luận điệu phản động lung lạc như:
“đặt lợi ích nhân loại cao hơn lợi ích dân tộc và giai cấp”, “nhân quyền cao
hơn chủ quyền”… nhằm phục vụ cho mưu đồ chống lại độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, chống chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa đế quốc.
1.2. Tính tất yếu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

Nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức và xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Song, do tính chất sâu sắc và triệt để của
cách mạng xã hội chủ nghĩa, (xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xây
dựng một chế độ xã hội không có áp bức bóc lột) vì vậy, chủ nghĩa xã hội gặp
phải sự phản kháng điên cuồng và quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và tất cả
các giai cấp bóc lột.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
là quy luật khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nắm vững bản chất
qui luật ra đời, tồn tại và phát triển của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra những quan điểm khoa học nền tảng về bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản đang trong giai đoạn phát triển tương
đối hòa bình, chủ nghĩa xã hội chưa trở thành hiện thực, vấn đề cách mạng vô
sản chưa được đặt ra một cách trực tiếp, cho nên hai ông chưa đưa ra quan
điểm về bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sau thực tiễn công xã Pa ri, hai ông cho
rằng, nhiệm vụ của giai cấp công nhân là phải đấu tranh “tự mình phải trở
thành dân tộc”, thiết lập Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, đẩy lùi sự tấn công
của bọn phản cách mạng. Trong thư gửi “Đồng minh những người cộng sản”,
C.Mác chỉ ra: Ngay từ giờ phút đầu, sau khi giành được thắng lợi, công nhân
phải được vũ trang và có tổ chức; cần phải lập tức trang bị súng trường, các
bin, đại bác và đạn dược cho toàn thể giai cấp công nhân để bảo vệ cách mạng.


6

Chừng nào kẻ thù còn tìm mọi cách bóp chết cách mạng thì giai cấp công nhân
không thể bỏ vũ khí được.
V.I.Lênin là người có công lao to lớn phát triển học thuyết bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối
hòa bình, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: cách mạng vô sản chỉ có thể nổ ra
và giành thắng lợi đồng thời ở nhiều nước tư bản phát triển. Khi chủ nghĩa tư
bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, nảy sinh hiện tượng phát triển không
đều giữa các nước tư bản, hình thành khâu yếu trong hệ thống, V.I.Lênin cho
rằng: cách mạng vô sản không thể thắng lợi đồng thời mà chỉ có thể ở mắt khâu
yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc, thậm chí ở một nước
riêng lẻ. Sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công,

một quốc gia xã hội chủ nghĩa ra đời, tồn tại trong vòng vây của hệ thống tư
bản chủ nghĩa và phải chống đỡ với các cuộc tiến công và phản kích điên
cuồng, V.I.Lênin xác định: bảo vệ thành quả cách mạng với tính cách là Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa không những là tất yếu mà còn là vấn đề quan trọng, cần
thiết, “một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ” 1. Người viết:
“Kể từ ngày 25-10-1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta tán thành “bảo vệ Tổ quốc”, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà
chúng ta đang đi tới là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc, bảo vệ nước cộng hoà Xô viết với
tính cách là một đơn vị trong đạo quân thế giới của chủ nghĩa xã hội”2.
Ý thức được tầm quan trọng đặc biệt của công cuộc bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, V.I.Lênin là người tổ chức lực lượng bảo vệ thành quả cách
mạng Tháng Mười, đánh bại sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Người chỉ rõ:
“Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và của Hồng quân ta như
chăm lo đến con ngươi trong mắt mình, hãy nhớ rằng chúng ta không được
phép lơ là một giây phút nào trong việc bảo vệ công nhân và nhân dân của ta
và bảo vệ những thành quả của họ”3.

1

V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 37, tr. 145.
V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 36, tr. 102.
3
V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M. 1978, t. 44, tr. 368-369.
2


7


Kế thừa tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa, trong quá trình cùng toàn Đảng lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: bảo vệ Tổ quốc là một
vấn đề tất yếu của cách mạng Việt Nam, và muốn bảo vệ được Tổ quốc thì
phải huy động sức mạnh của cả dân tộc.
Tính tất yếu của bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ bản
chất phản động, hiếu chiến xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động trong và ngoài nước. Chúng cấu kết với nhau ra sức dùng mọi thủ đoạn
tinh vi, xảo quyệt chống phá cách mạng, nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, khôi
phục lại địa vị đã mất. Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi chủ nghĩa xã
hội hiện thực xuất hiện, các nước xã hội chủ nghĩa đã phải thường xuyên đối
phó với những âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch: Liên
Xô trong những năm nội chiến (1918-1920), trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ
đại (1941-1945), cuộc chiến tranh Triều Tiên, các cuộc bạo loạn phản cách
mạng để lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa Hunggari, Tiệp Khắc, Ba Lan, cuộc
tiến công xâm lược hòn đảo tự do Cuba; ở nước ta, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
được đặt ra ngay sau cuộc cách mạng Tháng Tám, khi nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa vừa mới ra đời; để bảo vệ thành quả cách mạng, chúng ta đã phải tiến
hành hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, sau đó tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu đất nước; vào
những năm 90 của thế kỷ XX, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên
Xô và các nước Đông Âu trong đó có âm mưu chống phá của kẻ thù.
Ngày nay, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những là tất yếu mà
còn là vấn đề cấp bách. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và bọn
phản động đang điên cuồng chống phá cách mạng với những thủ đoạn tinh vi
và xảo quyệt trên tất cả các lĩnh vực, nhằm xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin,
đường lối của các Đảng Cộng sản; chia rẽ trong nội bộ Đảng và mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng Cộng sản với nhân dân; hạ thấp và vô hiệu hóa Nhà nước
xã hội chủ nghĩa, tách Nhà nước ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; tìm
mọi cách làm cho xã hội mất ổn định, rối loạn; tiếp tục bao vây, cấm vận các

nước xã hội chủ nghĩa, làm cho các nước xã hội chủ nghĩa lún sâu vào khủng
hoảng và đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, tiến tới mục tiêu xóa bỏ hoàn toàn


8

chủ nghĩa xã hội. Một trong những thủ đoạn mà chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là đế quốc Mỹ thường dùng để chống phá chủ nghĩa xã hội là chiến lược
“Diễn biến hòa bình”. Thực chất của chiến lược “Diễn biến hòa bình” của chủ
nghĩa đế quốc là sử dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức,
kinh tế, ngoại giao và hoạt động ngầm để chống phá chủ nghĩa xã hội ngay
trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Các biện pháp tư tưởng, kinh tế, ngoại
giao được đặc biệt coi trọng như là công cụ để “mở cửa” đi vào trong nước,
kích động các nhân tố bên trong nổi dậy thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đây thực
sự là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc quyết liệt với những thủ đoạn,
hoạt động phối hợp trong, ngoài vô cùng xảo quyệt và hết sức nguy hiểm của
chủ nghĩa đế quốc. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu chứng minh một quy luật khắc nghiệt là: nếu không cảnh giác cao
độ, nếu không chuẩn bị thường xuyên chống lại các âm mưu và hành động
xâm lược, lật đổ của các thế lực thù địch thì chủ nghĩa xã hội không thể đứng
vững, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại được.
Điều kiện bảo đảm thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng với sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc, nâng cao giác ngộ chính trị cho nhân dân; đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao tiềm lực toàn
diện của đất nước, nhất là tiềm lực kinh tế; xây dựng nền quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân vững mạnh, kết hợp kinh tế với quốc phòng và an
ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
2. BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG GIAI

ĐOẠN HIỆN NAY

Nhận thức được tính tất yếu và cấp bách bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn xác định bảo vệ Tổ
quốc là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, Đảng ta
chỉ rõ: “Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta
luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”1.
1

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H. 1991, tr. 10


9

2.1. Những nhân tố tác động đến quốc phòng an ninh hiện nay

Phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới ở vào thời kỳ thoái
trào, nền quốc phòng an ninh của nước ta không còn chỗ dựa quốc tế là hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Các thế lực thù địch vẫn không ngừng chống
phá cách mạng nước ta bằng những âm mưu và thủ đoạn mới, nổi lên là âm
mưu “diễn biến hòa bình” nhằm thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa, đưa nước ta
đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Do ở vào vị trí địa lý, chính trị, kinh tế, quân sự quan trọng trong khu
vực Đông Nam Á, do vậy nhiều nước đã quan tâm đến việc lôi kéo, khuất
phục nước ta để tìm cách khống chế khu vực này. Họ đã và đang có những
điều chỉnh chính sách đối với Việt Nam nhằm thực hiện ý đồ chính trị của
mình. Các thế lực thù địch đang tìm cách tranh thủ, lôi kéo, chia rẽ các nước
láng giềng với ta. Bên cạnh đó, tranh chấp chủ quyền về biển, đảo của một số
nước trong khu vực, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước có chủ

quyền… đang ẩn chứa những nhân tố có thể gây bùng nổ xung đột, tác động
đến quốc phòng an ninh nước ta, buộc ta phải có tư duy mới về nhiệm vụ
củng cố quốc phòng an ninh.
Trong nước, các thế lực thù địch đang đẩy mạnh những hoạt động xâm
hại trực tiếp đến an ninh quốc gia. Chúng tập trung tuyên truyền phủ nhận chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xuyên tạc đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước; tuyên truyền vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”,
“nhân quyền”, “đàn áp tôn giáo”; lợi dụng chiêu bài “chống tham nhũng” để
gây chia rẽ trong Đảng, gây hoang mang nghi ngờ và mất lòng tin của nhân
dân đối với Đảng và chế độ. Đồng thời, chúng tiến hành triển khai lực lượng
dưới nhiều hình thức như: đưa người thâm nhập vào nước ta, cài cắm cơ sở
tình báo nội gián, phát triển lực lượng vào các tôn giáo, vùng dân tộc, móc nối
với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị… nhằm tạo dựng ngọn cờ, hình
thành các tổ chức đảng phái đối lập, từng bước chống phá ta. Thông qua các
chương trình viện trợ, đầu tư có chủ định, hợp tác thương mại… để gây sức
ép với ta, thúc đẩy nhanh quá trình tự do hóa, tư nhân hóa nền kinh tế, thông
qua kinh tế để chuyển hóa chính trị.


10

Mặc dù gặp nhiều khó khăn phức tạp, nhưng chúng ta đã bước đầu làm
thất bại các âm mưu và hoạt động của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ
thành quả của cách mạng, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ… tạo môi trường thuận lợi để công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, cũng còn nhiều tồn tại yếu
kém, nếu không khắc phục tốt có thể gây nên tình trạng mất ổn định từ bên
trong, đáng chú ý là:
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu
và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta còn mơ hồ.

Công tác bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hóa, đối ngoại, biên
giới, biển đảo, bảo vệ bí mật quốc gia, quản lý cán bộ còn nhiều sơ hở.
- Kỷ luật của Đảng, pháp chế, kỷ cương xã hội có nơi, có lúc chưa
nghiêm; nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, một bộ phận cán bộ đảng viên có
chức có quyền thoái hóa biến chất nghiêm trọng về tư tưởng, đạo đức, lối
sống; bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, cửa quyền sách nhiễu nhân dân diễn
ra khá phổ biến. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Khoá X đánh giá: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức và lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của Đảng và lòng
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước”1.
- Diễn biến tư tưởng trong nội bộ nhân dân phát triển khá phức tạp.
Tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội diễn ra khá nghiêm trọng.
- Các nguy cơ tụt hậu về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa và tham
nhũng chưa bị đẩy lùi, đang trở thành những thách thức lớn, ảnh hưởng trực
tiếp đến an ninh - xã hội nước ta.
- Về mặt xã hội, xuất hiện những vấn đề bức xúc mới như phân hóa
giàu nghèo, giải quyết việc làm, công bằng xã hội. Đáng chú ý là đồng bào
miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng biên giới hải đảo
đời sống còn nhiều khó khăn. Tình trạng du canh, du cư, di dân tự do đang gia
tăng chứa đựng những nhân tố mất ổn định đối với an ninh chính trị - xã hội.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCHTW khoá X, Nxb CTQG, H 2007, tr. 34.


11

Những yếu tố tác động đến an ninh quốc gia trên đây dù từ bên ngoài

hay bên trong đều nguy hiểm, nhưng phải chú trọng đẩy lùi những yếu tố bên
trong vì điểm mấu chốt của chủ nghĩa đế quốc là dựa vào các yếu tố bên trong
để thực hiện “diễn biến hòa bình”. Những yếu tố đe dọa đến an ninh quốc gia
sẽ chuyển hóa trong quá trình phát triển của đất nước. Chúng ta có nhiều khả
năng và nhiều thuận lợi to lớn để làm giảm dần từng bước và xóa bỏ những
yếu tố đó. Tuy nhiên phải cảnh giác, sẵn sàng đề phòng, chủ động đối phó với
những tình huống xấu xảy ra.
2.2. Mục tiêu và quan điểm, tư tưởng chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay

- Mục tiêu tổng quát:
Đại hội Đảng X xác định: “Bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương, an toàn xã hội; giữ
vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi
âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”1.
Mục tiêu tổng quát do Đại hội Đảng X xác định không những mang
tính toàn diện trên cả phương diện tự nhiên và phương diện xã hội của Tổ
quốc, mà còn thể hiện nhận thức mới của Đảng ta trong điều kiện toàn cầu
hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, qua đó đã khắc phục sự phiến diện
trong tư duy. Các nội dung được xác định trong mục tiêu là một thể thống
nhất, tác động biện chứng lẫn nhau, trong đó vấn đề bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa là quan trọng, cấp bách hàng đầu trong
tình hình hiện nay.
Mục tiêu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
được thể hiện trên một số lĩnh vực như sau:
Về chính trị: giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng của Đảng và
Nhà nước, của các lực lượng vũ trang; bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Giữ vững ổn định chính trị xã hội, kiên

định con đường xã hội chủ nghĩa; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; làm
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 108.


12

thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại nội bộ nước
ta, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Về kinh tế - xã hội: đảm bảo vững chắc sự ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu của các
thế lực thù địch thông qua kinh tế để chuyển hóa chính trị. Kết hợp giữa tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thu hẹp dần khoảng cách giàu
nghèo, giải quyết tốt nạn thất nghiệp… Hạn chế những tiêu cực của kinh tế thị
trường, đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm kinh tế, thực hiện tiết kiệm,
chống lãng phí.
Về văn hóa - tư tưởng: kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu
hoạt động xuyên tạc chủ nghĩa xã hội, phủ nhận lịch sử, tuyên truyền những giá
trị tư sản về tự do, dân chủ, tư tưởng đa nguyên, đa đảng của các thế lực chống
chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bài trừ các nọc độc văn hóa phản động, đồi trụy.
Về đối ngoại: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin
cậy của nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp
tác quốc tế và khu vực. Tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ cho
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố và nâng cao vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Về quốc phòng và an ninh: xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết
hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, là lực
lượng nòng cốt của sức mạnh quốc phòng – an ninh; nâng cao chất lượng tổng
hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong
sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và
nhân dân, chống âm mưu của các thế lực thù địch phi chính trị hóa và chia rẽ
lực lượng vũ trang.
- Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo:


13

Dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn những năm qua và yêu cầu nhiệm vụ
của cách mạng, Đảng ta xác định: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; sức mạnh bên trong là nhân tố
quyết định; chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố
bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo trên, cần nắm vững một số vấn đề sau:
Một là, kết hợp chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng:
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đây là vấn đề bao trùm, quy định các mối quan hệ trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Sự kết hợp này được đúc kết từ nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin: xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ
những thành quả của chủ nghĩa xã hội, và từ kinh nghiệm lịch sử hàng ngàn
năm của dân tộc ta: dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Hai nhiệm vụ này có
quan hệ mật thiết với nhau, khi được kết hợp chặt chẽ sẽ tạo nên sức mạnh
tổng hợp bảo đảm cho Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội phát triển nhanh và
vững chắc.

Hai là, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh
quốc phòng và an ninh.
Phát triển kinh tế - xã hội được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, song
không được xem nhẹ, buông lỏng nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Phải lấy việc
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội làm nền tảng giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng an ninh; đồng thời lấy việc ổn định chính trị, củng cố
quốc phòng an ninh làm điều kiện để giữ vững ổn định và phát triển kinh tế xã hội.
Việc kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc
phòng an ninh phải được thể hiện trong quy hoạch tổng thể cũng như trong
từng ngành và vùng lãnh thổ, sao cho mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là
một bước tăng thêm tiềm lực quốc phòng an ninh. Ngược lại, quốc phòng an
ninh ngày càng vững chắc sẽ tạo thêm môi trường thuận lợi để phát triển kinh
tế - xã hội.


14

Ba là, gắn nhiệm vụ an ninh với nhiệm vụ quốc phòng; phối hợp chặt
chẽ hoạt động an ninh quốc phòng với hoạt động đối ngoại.
An ninh và quốc phòng là hai mặt có quan hệ khăng khít với nhau trong
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì các lực lượng thù địch ở bên trong và bên ngoài
luôn cấu kết với nhau chống phá cách mạng. Sự kết hợp này phải được thể
hiện trong việc xây dựng tiềm lực vật chất và tinh thần của an ninh quốc
phòng, trong cơ chế phối hợp xây dựng nền an ninh và thế trận an ninh nhân
dân với xây dựng nền quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân.
Sự phối hợp giữa hoạt động an ninh quốc phòng với hoạt động đối
ngoại được đặt ra một cách khách quan trong điều kiện mở rộng giao lưu, hội
nhập với thế giới. Trong quan hệ đối ngoại phải đảm bảo độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không để nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của
nước ta, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn

biến hòa bình”. Ngược lại, cũng không vì yêu cầu đảm bảo an ninh, quốc
phòng mà hạn chế quan hệ đối ngoại, bỏ lỡ thời cơ hội nhập và sự phân công
lao động quốc tế, nhưng luôn phải lấy sự ổn định bên trong làm nền tảng, làm
điều kiện để nâng cao hiệu quả và mở rộng quan hệ quốc tế.
Bốn là, củng cố quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân.
Bảo vệ an ninh quốc gia, chống “diễn biến hòa bình”, củng cố quốc
phòng, chống họa xâm lăng của các thế lực thù địch không phải là nhiệm vụ
riêng của Công an, Quân đội. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý điều hành thống nhất của Nhà nước, trong đó Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân đóng vai trò nòng cốt. Nhiệm vụ này cũng không
phải chỉ đặt ra trong tình huống có chiến tranh hay bạo loạn lật đổ mà là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân.
Năm là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và
sự nghiệp củng cố quốc phòng an ninh.
Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện đối với lực lượng vũ
trang và sự nghiệp quốc phòng an ninh - đây là nguyên tắc. Bảo đảm sự lãnh
đạo như trên sẽ xây dựng được các lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh,


15

trung thành với sự nghiệp cách mạng và phát huy được sức mạnh tổng hợp,
xây dựng nền quốc phòng và an ninh của đất nước.
Sáu là, quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, đánh bại mọi âm mưu và
hành động xâm hại đến an ninh, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Bảy là, kết hợp sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của thời
đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu
tố hiện đại trong nhiệm vụ quốc phòng an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc

Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu, quan điểm tư tưởng chỉ đạo trên, cần nắm vững
phương châm: Kiên định các nguyên tắc chiến lược, đi đôi với vận dụng linh
hoạt sách lược, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận
quốc tế; phải phân hóa kẻ thù; lấy việc phát huy dân chủ, giáo dục, thuyết
phục, phòng ngừa là chính, xử lý nghiêm các sai phạm.
Với mục tiêu, quan điểm, phương châm đó, trong thời gian tới chúng ta cần
chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi và loại trừ các mối đe dọa đến an ninh quốc gia là:
- Đẩy lùi và làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”,
bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
- Tập trung khắc phục những biểu hiện suy thoái về quan điểm tư
tưởng, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; củng cố lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; nâng cao sức chiến đấu của các
tổ chức Đảng và hệ thống chính trị nói chung.
- Chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý,
điều hành công việc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, không để các thế lực
thù địch lợi dụng, phá hoại.
- Giữ vững ổn định chính trị trong nước; cảnh giác với thủ đoạn dùng
quân sự của các thế lực thù địch; đặc biệt đề phòng âm mưu lợi dụng các vấn
đề nội bộ như: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… để chống phá và tạo
cớ can thiệp thô bạo vào nước ta.

KẾT LUẬN


16

Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là tất yếu, cấp bách, là
một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn

dân, của cả hệ thống chính trị; trong đó quân đội và công an có vị trí hết sức
quan trọng, là lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp toàn dân bảo vệ Tổ quốc.
Nhận thức đúng đắn chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là cơ sở để
không ngừng tăng cường, củng cố nền quốc phòng an ninh vững mạnh, sẵn
sàng đập tan mọi âm mưu chống phá của kẻ thù, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



×