Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CỦA CHÍNH QUYỀN JOHNSON (11-1963 – 1-1969)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 159 trang )

Header Page 1 of 185.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Hắc Tùng

CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO
VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CỦA CHÍNH QUYỀN JOHNSON
(11/1963 – 1/1969)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

Footer Page 1 of 185.


Header Page 2 of 185.

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Hắc Tùng

CÁC CUỘC VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO
VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM CỦA CHÍNH QUYỀN JOHNSON
(11/1963 – 1/1969)

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số


: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHAN VĂN HOÀNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

Footer Page 2 of 185.


Header Page 3 of 185.

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa
từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Footer Page 3 of 185.


Header Page 4 of 185.

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy
cô Khoa Sử cùng tất cả các anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn
thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến Tiến sĩ Phan Văn
Hoàng, Người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin tỏ lòng tri ân ban Ban Giám hiệu, các giáo viên đồng
nghiệp tại trường THPT Dầu Tiếng và bạn bè đồng môn đã tạo điều kiện
thuận lợi, tận tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu cho tôi hoàn thành luận văn
đúng quy định.
Tuy thời gian nghiên cứu ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình của quý
thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, sự nỗ lực của cá nhân, tôi
đã có được sự phát triển về nhận thức, trình độ kiến thức và phương pháp
nghiên cứu vô cùng quý báu để hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2014
Lê Hắc Tùng

Footer Page 4 of 185.


Header Page 5 of 185.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM RĂN ĐE VNDCCH (cuối
1963 - cuối 1964) ........................................................................................................ 5
1.1. Bối cảnh lịch sử .................................................................................................5
1.1.1. Di sản Việt Nam mà Johnson kế thừa từ những người tiền nhiệm ............5
1.1.2. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1963 đến giữa năm 1964 ...................10

1.1.3. Chủ trương của chính quyền Johnson về Việt Nam từ cuối năm 1963
đến cuối năm 1964 ..............................................................................................14
1.2. Hai sứ mệnh của Seaborn đến Hà Nội ............................................................18
1.2.1. Chuyến đi đầu tiên đến Hà Nội của Seaborn (18-6-1964) .......................18
1.2.2. Chuyến đi thứ hai của Seaborn (10-8-1964) ............................................23
* Tiểu kết chương 1 ................................................................................................27
Chương 2. VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM ĐÀM PHÁN TRÊN THẾ
MẠNH (năm 1965 đến tháng 3-1968) ................................................................... 29
2.1. Những yếu tố tác động đến quyết sách về Việt Nam của Johnson .........29
2.1.1. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1964 đến đầu năm 1965 ....................29
2.1.2. Chính quyền Johnson tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam và
chiến tranh phá hoại ở miền BVN từ đầu năm 1965 đến đầu năm 1968 ...........32
1.1.3. Tình hình trong nước Mỹ và sức ép quốc tế đòi hỏi Mỹ phải tiến hành
đàm phán với VNDCCH ....................................................................................43
2.2. Mỹ tiến hành những cuộc vận động ngoại giao công khai và tiếp xúc bí
mật với VNDCCH ..................................................................................................51
2.2.1. Tuyên bố ngoại giao công khai về vấn đề Việt Nam của Johnson ...........51
2.2.2. Những cuộc tiếp xúc Mỹ – VNDCCH (1965 - đầu năm 1966) ...............55
2.2.3. Chiến dịch “tấn công hòa bình” lớn nhất trong sự nghiệp của Johnson
(1966-1967) ........................................................................................................67
* Tiểu kết chương 2 ................................................................................................76
Chương 3. HỘI ĐÀM MỸ - VNDCCH TẠI PARIS (3/1968 – 1/1969).............. 82
3.1. Những nhân tố dẫn đến quyết định ngày 31-3-1968 của Johnson ..................82

Footer Page 5 of 185.


Header Page 6 of 185.

3.1.1. Sự chia rẽ sâu sắc ngay trong guồng máy chiến tranh Mỹ (1967-1968) ..82

3.1.2. Phong trào phản chiến diễn tiến ngày càng quyết liệt ..............................85
3.1.3. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 ............................91
3.1.4. Dư luận Mỹ và lời khuyến cáo của “những nhà thông thái” ...................97
3.1.5. Áp lực của năm bầu cử Tổng thống .......................................................102
3.2. Hội đàm giữa Mỹ và VNDCCH tại Paris ......................................................104
3.2.1. Các cuộc gặp công khai bàn các vấn đề mang tính thủ tục cho hội đàm107
3.2.2. Hội đàm chính thức hai bên (13-5 đến hết tháng 8) ...............................112
3.2.3. Song song hội đàm công khai và tiếp xúc bí mật ...................................117
3.3. Tuyên bố ngày 31-10-1968 của Johnson, quyết định mang tính bước ngoặt
trong tiến trình đàm phán tại Paris .......................................................................122
* Tiểu kết chương 3 ..............................................................................................126
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 136
PHỤ LỤC

Footer Page 6 of 185.


Header Page 7 of 185.

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVN

: Bắc Việt Nam

CQSG

: Chính quyền Sài Gòn

MTDTGP


: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

NVN

: Nam Việt Nam

NXB

: Nhà xuất bản

NSC-68

: Bị vong lục của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ số 68

NSAM

: Từ thời chính phủ Kennedy, các nghị quyết của Hội đồng An
ninh quốc gia Mỹ (bị vong lục) mang kí hiệu NSAM (National
Security Action Memoranda) thay vì NSC của các đời tổng thống
tiền nhiệm.

ND

: Người dịch, người dẫn

QGPMN

: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam


TG

: Tác giả

VNDCCH : Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Footer Page 7 of 185.


Header Page 8 of 185.

1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Tháng 11-1963, L.B. Johnson lên làm Tổng thống nước Mỹ sau khi Kennedy
bị ám sát. Việt Nam là di sản của các tổng thống tiền nhiệm mà Johnson phải nhận.
Cuối năm 1963 đầu năm 1964, sự suy yếu của Việt Nam Cộng hòa (VNCH) đã đặt
Johnson trước hai sự lực chọn: hoặc là tìm cách rút khỏi Việt Nam; hoặc là tăng
cường nỗ lực cứu vãn chế độ Sài Gòn. Tuy nhiên, Johnson xem Việt Nam là một nơi
thử nghiệm về khả năng giúp đỡ một dân tộc đối đầu với cuộc chiến tranh giải
phóng của cộng sản. Do đó, Mỹ phải chọn con đường tăng cường viện trợ cho Sài
Gòn, tăng cường các hoạt động chiến tranh ở Việt Nam.
Trong suốt thời gian cầm quyền của mình (11/1963 – 1/1969), Johnson đã liên
tục đẩy mạnh các hoạt động chiến tranh từ “chiến tranh đặc biệt tăng cường” đến
chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở Nam Việt Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại
bằng hải quân và không quân ra miền Bắc Việt Nam. Hành động này của Johnson đã
vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới. Do đó, Johnson
vừa xúc tiến các nỗ lực quân sự, vừa đưa ra các “sáng kiến hòa bình” để xoa dịu dư
luận và yêu cầu Việt Nam kết thúc chiến tranh theo những điều kiện do Mỹ đặt ra.

Vậy quá trình và bản chất của cái gọi là “sáng kiến hòa bình” của Johnson như thế
nào? Sự tiếp xúc giữa Mỹ và Việt Nam từ 1964 – 1968 diễn ra ra sao? Kết quả đạt
được là gì? Đó là những vấn đề cần làm rõ khi chúng ta tìm hiểu về hoạt động đối
ngoại giữa Mỹ và Việt Nam trong thời kì Johnson.
Đồng thời tác giả luận văn cũng mong muốn đóng góp thêm vào kho tư liệu
nhằm nghiên cứu một trong những mối quan hệ ngoại giao nổi cộp nhất trong thời
chiến tranh lạnh, đặc biệt là khai thác tư liệu gốc từ phía Mỹ và CQSG.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài “Các cuộc vận động ngoại giao về
vấn đề Việt Nam của Chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)” cho luận văn
nghiên cứu của mình.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Các cuộc tiếp xúc, đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam trước Hội nghị Paris (1968
– 1973) hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu. Phần lớn các công trình trong
nước đều tập trung vào quá trình đàm phán và ký kết Hiệp định Paris chứ chưa đi
Footer Page 8 of 185.


Header Page 9 of 185.

2

sâu vào tìm hiểu những cuộc tiếp xúc Mỹ - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(VNDCCH) từ 1964 – 1968.
Ở Việt Nam, một số công trình có liên quan chính sách đối ngoại của Việt
Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ đã được công bố như: Mai Văn Bộ (1985), Tấn
công ngoại giao và tiếp xúc bí mật; Mai Văn Bộ (1993), Hà Nội – Paris: Hồi ký
ngoại giao; Bộ Ngoại giao (2007), Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Paris về
Việt Nam; Lưu Văn Lợi (1998), Năm mươi năm ngoại giao Việt Nam 1945 –
1995;… Nhìn chung, các công trình nghiên cứu này đã đề cập một số nội dung liên
quan đến những lập trường, quan điểm của Việt Nam và Mỹ trong quá trình đàm

phán tại Hội nghị Paris (1969 - 1973) mà chưa làm rõ được những cuộc tiếp xúc bí
mật và hòa đàm giữa Mỹ và VNDCCH dưới thời Tổng thống Johnson.
Bên cạnh đó, một số công trình nghiên cứu liên quan với tiếp xúc bí mật giữa
Mỹ và VNDCCH trước Hội nghị Paris cũng đã được xuất bản như: Lưu Văn Lợi,
Nguyễn Anh Vũ (1990), Tiếp xúc bí mật Việt Nam – Hoa Kì trước Hội nghị Pa-ri;
Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ (2002), Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ Kissinger tại Paris; Cục Văn thư Lư trữ Nhà nước, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
(2012), Hiệp Định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài
Gòn; Lê Phụng Hoàng (2008), Lịch sử Quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh; Nguyễn Khắc Huỳnh (2011),
Ngoại giao Việt Nam-góc nhìn và suy ngẫm;... Đây là những công trình nghiên cứu
có liên quan trực tiếp đến những cuộc tiếp xúc bí mật và đàm phán giữa Hà Nội và
Washington trong thời kì Johnson. Tuy nhiên, các công trình phần lớn dừng lại ở
việc cung cấp sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian mà chưa đi sâu vào làm rõ bản
chất và mục tiêu thật sự của quá trình tiếp xúc bí mật hai bên. Đặc biệt, các công
trình trên cũng chưa cập nhật được nguồn tài liệu gốc từ phía Mỹ về các chủ trương
hoạt động ngoại giao thực hiện các “sáng kiến hòa bình” của Johnson. Do đó, việc
tiếp tục bổ sung, làm rõ quá trình tiếp xúc bí mật giữa Mỹ và VNDCCH là cần thiết.
Một số tác giả Việt Nam ở nước ngoài và các nhà khoa học thế giới cũng có
một số công trình nghiên cứu như: Nguyễn Phú Đức (2009), Tại sao Mỹ thua ở Việt
Nam; Nguyễn Kỳ Phong (2006), Vũng lầy của Bạch Ốc: Người Mỹ và chiến tranh
Việt Nam 1945 – 1975; H.Y.Schandler (1999), Sự nghiệp của một tổng thống bị đổ

Footer Page 9 of 185.


Header Page 10 of 185.

3

vỡ: L.Johnson và Việt Nam; Jerry Elmar (2005), Tội phạm vì hoà bình; George

Herring (1996), America`s Longest War: The United States and Vietnam, 19501975; Nancy Zaroulis and Gerald Sullivan (1984), Who Spoke Up? American
protest against The war in Vietnam 1963 – 1975; William J.Duiker (1994), U.S.
Containment Policy and the Conflict in Indochina; Michael Maclear (1984),
Vietnam: The Ten Thousand Day War,… Những công trình nghiên cứu này tiếp cận
vấn đề phần lớn từ góc độ, quan điểm của người Mỹ, thậm chí một số ít còn mang
tính chất biện minh cho chính quyền Johnson nên chưa thật khách quan khi đề cập
đến bản chất của các “sáng kiến hòa bình” của Johnson. Mặt khác, các công trình
trên cũng chưa nghiên cứu sâu và có hệ thống về các cuộc tiếp xúc bí mật giữa
VNDCCH với Mỹ trong thời kì của Johnson.
Tóm lại, hiện nay tuy đã có một số công trình nghiên cứu về những hoạt động
ngoại giao của chính quyền Johnson đối với Việt Nam từ 1964 – 1969. Tuy nhiên,
các công trình này tiếp cận dưới những góc độ khác nhau nên chưa làm rõ được bản
chất mục tiêu của Mỹ trong những cuộc tiếp xúc bí mật và hoạt động ngoại giao để
hô hào “tìm giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam”. Mặt khác, những công trình
trên cũng chưa làm rõ một cách hệ thống, đầy đủ những diễn biến chính trong hòa
đàm Mỹ - VNDCCH trong năm 1968. Do đó, chúng tôi thiết nghĩ việc tiếp cận với
các tài liệu gốc đã được giải mật như Leslie H. Gelb, et. al, eds (1971), United
States-Vietnam Relations 1945-1967; Neil Sheehan, Hedrick Smith, E. W.
Kenworthy, and Fox Butterfield, The Pentagon Papers as Published by the New
York Times; George Herring (1996), America`s Longest War: The United States and
Vietnam, 1950-1975; Lyndon Baines Johnson (1972), Ma Vie de Président;… để
tìm hiểu bản chất, lý giải toàn diện hơn những cuộc vận động ngoại giao của Chính
quyền Johnson trong việc tìm giải pháp kết thúc chiến tranh bằng con đường hòa
bình ở Việt Nam là phù hợp, cần thiết. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Các cuộc vận
động ngoại giao về vấn đề Việt Nam của Chính quyền Johnson (11/1963 – 1/1969)”
để nghiên cứu.

Footer Page 10 of 185.



Header Page 11 of 185.

4

3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài sẽ tập trung vào tìm hiểu và làm rõ bản chất
những hoạt động ngoại giao của Mỹ trong việc tiếp xúc bí mật và kêu gọi hòa đàm
cho vấn đề Việt Nam. Qua đó, đề tài sẽ góp phần làm nổi bật được quan điểm của
Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1964 – 1969.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về mặt thời gian: từ tháng 11-1963 đến tháng 1-1969 (thời điểm Johnson
nắm quyền Tổng thống Mỹ).
- Về mặt không gian: những hoạt động ngoại giao bí mật và công khai về vấn
đề Việt Nam của Mỹ tiến hành ở Việt Nam và trên thế giới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dựa trên quan điểm biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhiệm vụ, chức năng đối ngoại của nhà nước để lý giải bản chất các mục
tiêu hoạt động đối ngoại của nước lớn – Mỹ.
Ngoài ra, chúng tôi sử dụng những phương pháp chuyên ngành như phương
pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá các sự
kiện nhằm khôi phục lại một cách có hệ thống và làm sáng tỏ bản chất quá trình Mỹ
tiến hành những cuộc tiếp xúc bí mật và tuyên bố công khai về vấn đề Việt Nam từ
năm 1964 đến tháng 1-1969.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài sẽ làm rõ bản chất những cuộc vận động ngoại giao của Mỹ về vấn đề
Việt Nam. Qua đó, đề tài sẽ góp phần làm nổi bật được quan điểm ngoại giao của
Mỹ trong suốt thời gian dài từ 1964 – 1969.
Góp phần làm phong phú thêm nguồn sử liệu cho những ai quan tâm đến vấn đề
ngoại giao của Mỹ và Việt Nam những năm tiền Hội nghị Paris.
6. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:

Thông qua nguồn tài liệu gốc, có giá trị, đề tài sẽ khai thác để chứng minh
“những sáng kiến hòa bình” (theo cách gọi của Tổng thống Johnson) thực chất chỉ
là một thủ thuật chính trị, biện hộ cho ý đồ kéo dài cuộc chiến tranh không lối thoát,
gây thiệt hại nặng nề trên nhiều mặt cho nước Mỹ mà họ đã lún ngày càng sâu ở
Việt Nam mà thôi.

Footer Page 11 of 185.


Header Page 12 of 185.

5

Chương 1.
VẬN ĐỘNG NGOẠI GIAO NHẰM RĂN ĐE
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
(cuối 1963 - cuối 1964)
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Di sản Việt Nam mà Johnson kế thừa từ những người tiền nhiệm
Truman là Tổng thống Mỹ đầu tiên dính líu đến vấn đề Việt Nam. Với mối lo
ngại sâu sắc về sự lớn mạnh của khối Xã hội Chủ nghĩa, Mỹ đã bắt đầu chú ý đến
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Theo Mỹ, khi Trung Hoa Dân quốc sụp đổ,
Đông Nam Á trở thành nơi sống còn đối với an ninh của mình vì “Nếu khu vực này
bị chủ nghĩa cộng sản kiểm soát, chúng ta sẽ phải gánh chịu một thất bại thảm hại
về mặt chính trị mà ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn trên toàn thế giới" [64, tr. 15]. Vì
vậy, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ra đời sau cách mạng tháng
Tám năm 1945 và ngày càng giành thế chủ động trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, càng làm cho Mỹ lo ngại về sự thắng lợi ngày càng to lớn của
Chủ nghĩa Cộng sản. Ngay từ ngày 27-9-1948, Bộ ngoại giao Mỹ đã đi đến kết luận
rằng chính sách của Mỹ sẽ là “loại trừ càng xa càng tốt ảnh hưởng của Cộng sản ở

Đông Dương” [54, tr. 75]. Sau thành công của cách mạng Trung Quốc, ngày 30-121949, tổng thống Truman đã phê chuẩn Văn kiện NSC-48/2 của Hội đồng An ninh
Quốc gia và xác định “phải đặc biệt chú ý đến vấn đề Đông Dương thuộc Pháp” và
“đường lối chính sách của Mỹ là chặn đứng sự bành trướng hơn nữa của chủ nghĩa
cộng sản ở châu Á” [67, tr. 9].
Sau đó, ngày 27-2-1950, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ tiếp tục thông qua
Văn kiện NSC-64 1 xác định “Đông Dương là một khu vực then chốt và đang trực
tiếp bị đe dọa… Việc Cộng sản đe dọa xâm lăng Đông Dương chỉ là một phần trong
kế hoạch đã định trước của Cộng sản nhằm kiểm soát toàn bộ Đông Nam Á… Do
Đây là văn kiện đầu tiên của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ (NSC) dành riêng cho vấn đề Đông Dương.
Cũng từ đây (2-1950), sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam được chính thức bắt đầu trên những văn bản chính
thức của Washington. NSC-64 cũng là văn bản chính thức đầu tiên của Mỹ nêu lên điều mà sau này được gọi
là “nguyên lý đô-mi-nô” (the domino principle).
1

Footer Page 12 of 185.


Header Page 13 of 185.

6

đó, Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng phải ưu tiên chuẩn bị một chương trình gồm
những biện pháp thực tế nhằm bảo vệ lợi ích an ninh của Mỹ ở Đông Dương” [54,
tr. 96]. Trong đó, NSC-64 còn gợi ý rằng, Mỹ phải có “mọi biện pháp thực tiễn …
để ngăn chặn sự mở rộng hơn nữa của cộng sản ở Đông Nam Á” [2, p. 29]. Muốn
vậy, Mỹ phải tăng cường viện trợ cho Pháp tại Đông Dương để giữ vững cái chốt
chặn cộng sản này. Đây là điều “tối cần thiết vì sự hiện diện của Trung Quốc ở biên
giới phía Bắc Đông Dương mà người Pháp thì không đủ sức đương đầu với lực
lượng Việt Minh” [28, tr. 81]. Người Mỹ rất lo ngại việc Pháp thất thủ tại Đông
Dương vì khu vực này tiếp giáp Nam Trung Quốc và là cửa ngõ ra vào giữa hai biển

Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nếu “mất Việt Nam sẽ làm cho các quốc gia
còn lại ở Đông Nam Á đứng trước nguy cơ tiêu vong” [46, tr. 16]. Do đó, mục tiêu
của Mỹ là “hoạch định một chính sách để Đông Nam Á không được phép "rơi vào
tay của những người Cộng sản như một quả mận chín" và rằng sự hiện diện của
Pháp tiếp tục ở Đông Dương là cần thiết cho mục đích đó” [64, tr. 24].
Như vậy, Việt Nam từ một quốc gia nhỏ vốn không liên quan gì đến nước Mỹ
xa xôi, từ đầu những năm 1950 bỗng giữ một vị trí quan trọng trong chính sách an
ninh của Mỹ. Mỹ đã rất nỗ lực để giúp Pháp giành thắng lợi trong cuộc chiến tại nơi
này 2. Thế nhưng, sự hậu thuẫn của Mỹ không thể cứu nguy cho sự sa lầy của Pháp
tại Đông Dương. Pháp đã phải chấp nhận thất bại, đi tới ý Hiệp định Geneva về vấn
đề Đông Dương để rút ra khỏi cuộc chiến, chấm dứt chín năm thảm hại ở đây.
Nhưng có vẻ Mỹ chưa rút ra được bài học gì từ Pháp ở Việt Nam.
Nếu như Tổng thống Truman là người khơi nguồn cho những dính líu của Mỹ
ở Việt Nam thì Tổng thống Eisenhower đã là người nâng tầm chiến lược của Việt
Nam lên đến mức cao nhất trong chính sách ngăn chặn cộng sản mà chính quyền Mỹ
luôn theo đuổi.
Khi Điện Biên Phủ sắp thất thủ, Pháp đã lên tiếng nhờ Mỹ giúp đỡ. Tổng thống
Eisenhower đã tích cực vận động Quốc hội Mỹ và lôi kéo Anh tham gia cứu Pháp,
nhưng không thành. Tiếp theo đó, ngay trong ngày Hiệp định Geneva được kí,
Mỹ bắt đầu tính đến giải pháp viện trợ cho Pháp để giữ bức tường ngăn chặn cộng sản tại Đông Dương.
Giữa năm 1950, phái đoàn Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được đưa sang Việt Nam. Trong tài khoá
năm 1954, viện trợ của Mỹ cho các cố gắng chiến tranh của Pháp ở Đông Dương tăng lên 1 tỷ đô-la. Phái
đoàn MAAG đã có 342 sĩ quan và binh lính Mỹ [38, Tr. 7].
2

Footer Page 13 of 185.


Header Page 14 of 185.


7

Eisenhower đã tuyên bố tại một cuộc họp báo ở Washington rằng, Mỹ không phải là
một bên kí kết, cũng không bị ràng buộc bởi các quyết định được Hội nghị Geneva
thông qua vì Hiệp định chứa đựng những điểm mà Mỹ không tán thành. Sau khi lưu
ý rằng “mọi mưu toan lặp lại hoạt động xâm lăng của cộng sản sẽ bị chúng tôi xem
là một vụ việc rất nghiêm trọng”, chủ nhân Nhà Trắng còn loan báo rằng Chính phủ
Mỹ hiện đang tích cực theo đuổi cuộc thảo luận với những quốc gia khác về việc
thành lập một tổ chức phòng thủ tập thể nhằm ngăn chặn hoạt động xâm lược trực
tiếp hay gián tiếp khác ở Đông Nam Á [28, tr. 195-196].
Và rồi, ngày 20-8-1954, Tổng thống Mỹ D. Eisenhower đã tán thành Nghị
quyết mang số hiệu NSC 5429/2 có nhan đề “Duyệt xét lại chính sách Mỹ ở Viễn
Đông”. Sau khi đưa ra nhận xét:”Những thắng lợi của cộng sản ở Đông Dương mà
đỉnh cao là Hiệp định Geneva đã kéo theo những hậu quả nghiêm trọng gây tổn hại
cho an ninh của Mỹ. Ở Việt Nam, những người cộng sản đã giành một đầu cầu cho
phép họ gây sức ép cả về quân sự lẫn không quân sự lên những vùng không cộng
sản cả lân cận và không lân cận”, Nghị quyết đã phác thảo một chương trình hành
động gồm ba nội dung gồm giúp củng cố lực lượng quân đội Quốc gia Việt Nam,
viện trợ trực tiếp cho chính phủ Diệm, và giúp Diệm củng cố quyền lực ở miền Nam
Việt Nam (NVN) [28, tr. 197-198]. Ngày 23-10-1954, chủ nhân Nhà Trắng đã gửi
thư cho Ngô Đình Diệm để khẳng định cam kết của Chính phủ Mỹ: “hỗ trợ chính
phủ Việt Nam phát triển và duy trì một quốc gia vững mạnh, có khả năng chống lại
mưu toan lật đổ hay xâm lược bằng quân sự” [28, tr. 199]. Để cụ thể hóa cam kết
vừa nêu ấy, tháng 12-1954, Chính phủ Mỹ đã thông qua nghị quyết NSC 5429/5 sẵn
sàng dùng lực lượng quân sự Mỹ để bảo vệ NVN khi nó bị tấn công [59, tr. 222] 3.
Qua đó có thể thấy, Eisenhower đã chính thức thừa nhận sự ủng hộ của Mỹ với
chính quyền Sài Gòn (CQSG), thậm chí là bằng sức mạnh quân sự. Rõ ràng đây là

Với Điều 9 của NSC-5429/5 quy định rằng: “nếu được yêu cầu bởi một chính phủ bản địa hợp pháp [trong
vùng Đông Nam Á] đang cần sự trợ giúp để đánh bại mọi hoạt động lật đổ hay nổi dậy tại chỗ của cộng sản,

Hoa Kì sẽ xem xét một tình thế như vậy một cách nghiêm trọng đến mức ngoài việc mang đến mọi sự giúp đỡ
công khai và bí mật có thể được nằm trong thẩm quyền của ngành Hành pháp, tổng thống còn xem xét ngay
lập tức khả năng yêu cầu Quốc hội có hành động thích đáng. Hành động này có thể, nếu cần thiết và khả thi,
bao gồm việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kì hoặc là ngay tại chỗ, hoặc chống lại người tiếp trợ từ bên
ngoài cho hoạt động lật đổ hay nổi dậy (kể cả Trung Cộng nếu quả đây là nguồn tiếp trợ)” Dẫn theo: [28, tr
205].
3

Footer Page 14 of 185.


Header Page 15 of 185.

8

một nấc thang mới trong sự dính líu của Mỹ bị chi phối nặng nề bởi thuyết Domino,
nó đã đưa Mỹ ngày càng gắn chặt vào vấn đề Việt Nam.
Sau khi khẳng định sự cam kết của Mỹ đối với NVN, Washington đã tiến hành
các bước tiếp theo. Trước tiên, Mỹ công khai chối bỏ trách nhiện thực thi Hiệp định
Geneva (1954). Ngày 28-6-1955, Ngoại trưởng J. Foster Dulles đã khẳng định: “Tất
nhiên là cả Chính phủ Mỹ lẫn Chính phủ Việt Nam (Chính quyền Diệm - TG) đều
không phải là bên có kí vào Hiệp định đình chiến Geneva. Chúng tôi không ký, và
Chính phủ Sài Gòn cũng không ký, mà còn phản đối” [58, tr. 149]. Và tiếp đó là tiếp
tục sự sẵn sàng tham chiến tại Việt Nam bằng kế hoạch đề xuất của Hội đồng Tham
mưu trưởng liên quân Mỹ (5-1956) sử dụng ít nhất 2 sư đoàn lục quân cho cuộc
hành quân đổ bộ lên phía Bắc khu phi quân sự, trong trường hợp xảy ra cuộc tấn
công công khai của VNDCCH chống lại Việt Nam Cộng hòa (VNCH) [59, tr. 223].
Sau đó, Washington không ngừng viện trợ kinh tế, trang thiết bị chiến tranh cho
CQSG để giúp duy trì và phát triển các chương trình chống cộng quyết liệt của
Diệm.

Kennedy đã để ý đến vấn đề Việt Nam từ thời còn là nghị sĩ Thượng viện. Ông
đã thể hiện sự quan tâm này trong bài diễn văn được công bố rộng rãi năm 1956:
“Việt Nam là hòn đá tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á. Đó là con đẻ của chúng
ta. Chúng ta không thể từ bỏ nó, không thể phớt lờ những nhu cầu của nó” [28, tr.
216-217].
Khi trở thành Tổng thống, ông có điều kiện thể hiện cụ thể mối quan tâm đó.
Ngày 11-5-1961, Kennedy đã thông qua nghị quyết mang kí hiệu NSAM-52 4 chứa
đựng một số biện pháp như: xem xét đề xuất tăng quân số quân đội VNCH lên 20
vạn, nghiên cứu thành phần của một đạo quân Mỹ có thể sẽ được phái sang Việt
Nam, nếu yêu cầu này được đặt ra. Và Kennedy khẳng định tiếp tục thực hiện cam
kết giúp CQSG chống cộng sản bằng câu phát biểu ngày 19-6-1961 rằng: “NVN sẽ
trở thành sự thử nghiệm quyết tâm giữ vững cam kết của Mỹ trong một thế giới đầy
đe dọa và khả năng đương đầu với những thách thức mới mà chiến tranh du kích đặt
ra trong các quốc gia mới trỗi dậy” [28, tr. 217].
Từ thời chính phủ Kennedy, các nghị quyết của Hội đồng An ninh quốc gia mang kí hiệu NSAM (National
Security Action Memoranda – NSAM) thay vì NSC của các đời tổng thống tiền nhiệm.
4

Footer Page 15 of 185.


Header Page 16 of 185.

9

Vị Tổng thống này đã thực sự quan tâm đến cuộc chiến chống du kích của
Chính phủ Diệm ở miền NVN. Nhưng diễn tiến tình hình ngày càng xấu đi nghiêm
trọng, “cuộc khủng hoảng lòng tin sâu sắc và sự suy sụp nghiêm trọng về tinh thần
lan tràn trên khắp NVN” 5, và một số cố vấn đã đề nghị Tổng thống đưa vào NVN
một “lực lượng đặc nhiệm hậu cần” gồm 8.000 quân, đóng vai trò như là một “biểu

tượng hiển nhiên chứng tỏ Mỹ có ý định nghiêm túc và sẽ là một lực lượng quân sự
dự bị vô giá nếu tình hình NVN đột nhiên xấu đi” [64, tr. 89] và bước đi vừa nêu sẽ
có nghĩa là “một bước chuyển căn bản từ quan hệ tư vấn sang đối tác” trong chiến
tranh [28, tr. 219-220]. Kennedy đã khôn khéo thực hiện những đề nghị đó một cách
thầm lặng dưới hình thức tăng cố vấn quân sự và viện trợ cho Diệm.
Tuy luôn nói rằng Chính quyền NVN phải tự đảm đương lấy chiến tranh để
giành chiến thắng, nhưng trên thực tế Kennedy không ngại mạnh tay can dự sâu vào
NVN. Một mặt, Washington nhượng bộ Sài Gòn trong việc giảm sức ép trong những
yêu cầu cải cách chính trị tại NVN và đề nghị có “sự hợp tác gần gũi” hơn, có sự
bàn bạc thường xuyên thay cho vai trò tuyệt đối của Mỹ trong việc vạch ra chính
sách [44, tr. 111]. Mặt khác, Mỹ không ngừng gia tăng viện trợ vật chất và cố vấn
quân sự cho Chính quyền Diệm. Năm 1962 đánh dấu mức độ dính líu ngày càng sâu
hơn của Hoa Kì vào NVN. Sự chuyển biến này được phản ánh qua những con số
sau: viện trợ quân sự hơn gấp đôi - từ 65 triệu USD (năm tài khóa 1961) lên 144
triệu USD (năm tài khóa 1962), số cố vấn quân sự tăng gấp ba - từ 3205 (cuối năm
1961) lên hơn 9000 (cuối năm 1962). Phù hợp với mức độ can dự ngày càng sâu hơn
về quân sự của Mỹ, tháng 1-1962, Phái bộ MAAG được thay bằng Bộ chỉ huy viện
trợ quân sự NVN (Military Assistance Command, Vietnam – MACV). Quân đội
VNCH bắt đầu được trang bị những vũ khí hiện đại như xe thiết giáp và đặc biệt là
trực thăng. Phi công Mĩ đã trực tiếp tham chiến trong nhiều trận đánh [28, tr. 223].
Đến tháng 10-1963, số cố vấn Mỹ đã lên đến 16.732 người [67, tr. 81]. Những can
dự của vị Tổng thống trẻ tuổi này ở miền NVN còn được Chính phủ Mỹ gọi là “cuộc
chiến chống nổi dậy” (the Counterinsurgency war).

Trong bản báo cáo của Maxwell Taylor và Walt Rostow sau khi sang NVN tìm hiểu tình hình tại chỗ từ
ngày 15 đến 25-10-1961. [64, tr. 89].
5

Footer Page 16 of 185.



Header Page 17 of 185.

10

Tuy nhiên, những cố gắng ngày càng tăng của người Mỹ lại không tỷ lệ thuận
với những thành công trong cuộc chiến tại miền NVN. Thất bại liên tiếp trong
những hoạt động quân sự, sự tan rã từng mảng lớn của “quốc sách ấp chiến lược”
(mặc cho đây là chương trình tiêu tốn nhiều tiền của của Mỹ nhất), chính trị ngày
càng bất ổn, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tôn giáo ngày càng trở nên trầm trọng vào
năm 1963, cộng thêm thái độ ngày càng “bất tuân” của anh em Diệm – Nhu, thậm
chí còn là tỏ thái độ công khai thách thức người Mỹ và kín đáo ám chỉ rằng chế độ
Sài Gòn đang bắt liên lạc, qua trung gian của Pháp, với đại diện của VNDCCH
nhằm tìm kiếm một nền hòa bình riêng rẽ trên cơ sở trung lập hóa Việt Nam [28, tr.
226].
Tình hình đó đưa đến quyết định mạnh tay hơn của Washington đối với CQSG,
một kế hoạch đảo chính lật đổ Diệm đã được người Mỹ thúc đẩy. Kết quả ngày 111-1963, anh em Diệm – Nhu bị giết. Cuộc đảo chính đã diễn ra như một kết quả tất
yếu trong chính sách của Washington với Sài Gòn thời điểm đó, nhưng hậu quả của
nó là không thể tính hết đối với cả NVN và Hoa Kỳ. Nó mở đầu cho một chuỗi dài
khủng hoảng trầm trọng về chính trị ở Sài Gòn và kéo theo những lúng túng ngay tại
Washington, làm cho Hoa Kỳ tiến dần đến một cuộc chiến tranh can thiệp trực tiếp
dưới thời Tổng thống Johnson.
1.1.2. Tình hình miền NVN từ cuối năm 1963 đến giữa năm 1964
Ngay sau khi John F. Kennedy bị ám sát (22-11-1963), Lyndon B. Johnson lên
thay làm Tổng thống thứ 36 của nước Mỹ và đồng thời cũng tiếp nhận cả “bãi lầy”
Việt Nam.
Johnson đúng ra không bị ràng buộc gì với những cam kết với NVN 6, nhưng
sau khi nhậm chức ông lại bất ngờ tuyên bố: “Tôi sẽ không để mất Việt Nam” hay
“chúng ta sẽ giữ vững những điều cam kết của chúng ta từ NVN đến Tây Berlin” 7
như một sự khẳng định vững chắc cam kết ủng hộ chính quyền VNCH, duy trì sự

can dự ở cái xứ nguyên là thuộc địa của Pháp mà lợi ích của Mỹ ở đó không gì ngoài
Thậm chí năm 1954, khi mà Tổng thống Eisenhower đề ra chủ trương đưa quân Mỹ vào giải cứu quân Pháp
ở Điện Biên Phủ, Thượng nghị sĩ L. B. Johnson đã nói: “Tôi chống lại việc đưa lính Mỹ đến nơi đầm lầy
Đông Dương để bị giết hại nhằm làm tồn tại mãi mãi chủ nghĩa thực dân và sự bóc lột châu Á của người da
trắng…” [52, tr. 420].
7
Đây là tuyên bố của Johnson trong cuộc họp liên tịch của Quốc Hội Mỹ ngày 27-11-1963. [52, tr. 420]
6

Footer Page 17 of 185.


Header Page 18 of 185.

11

mục tiêu “ngăn chặn Cộng sản” mà họ tự bày ra. Đối với Johnson, NVN là một “thử
thách về sự kiên quyết của Mỹ và đặc biệt là một thử thách đối với khả năng của Mỹ
trước các cuộc “chiến tranh giải phóng dân tộc” của cộng sản” [39, tr. 117; 67, tr.
278]. Và mục tiêu của Johnson là "kịp thời đem lại cho nhân dân châu Á niềm tin

và sự giúp đỡ mà họ cần để tập hợp các nguồn lực của họ một cách có tổ chức
nhằm sống trong hoà bình, ổn định bên cạnh các nước láng giềng hùng mạnh"
[64, tr. 122]. Đồng thời, nó cũng là nơi thể hiện uy tín của nước Mỹ trên trường
quốc tế.
Để thực hiện ngay lập tức sự cam kết ấy, Tổng thống Mỹ đã cử Bộ trưởng
Quốc phòng Robert McNamara sang NVN để nắm tình hình. Khi trở về ngày 21-121963, McNamara đã báo cáo lên Tổng thống: “Tình hình là rất đáng lo ngại. Các xu
hướng hiện nay, trừ phi có sự đảo ngược trong vòng 2 hoặc 3 tháng tới, dẫn đến
trung lập hóa (miền NVN - ND) trong điều kiện tốt nhất nếu không, chắc chắn hơn
là sẽ dẫn tới tình trạng bị Cộng sản kiểm soát” [67, tr. 271].

Để có kết luận như vậy, McNamara đã “mục sở thị” một hiện trạng NVN rất
rối ren sau đảo chính Diệm. "Chương trình ấp chiến lược" đang hỗn loạn, nhiều ấp
chiến lược chủ chốt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long bị Việt cộng hoặc chính
những người dân trong ấp phá tan. Trong các đô thị, phong trào đấu tranh của Phật
tử, phụ nữ, học sinh – sinh viên vẫn tiếp diễn. Nhóm tướng lĩnh lên cầm quyền ở
NVN sau vụ đảo chính cũng chẳng làm được gì nhiều để chặn đứng sự suy sụp này.
Họ thiếu kinh nghiệm, không xây dựng được cương lĩnh và không giành được sự
ủng hộ của các tổ chức chống Diệm trước đây. Nghi kỵ lẫn nhau và nghi kỵ giữa các
nhóm ganh đua khác trong quân đội, cùng việc chưa biết nên đi theo hướng nào, nên
họ giam mình trong tổng hành dinh gần sân bay Tân Sơn Nhất của Sài Gòn.
Harkins 8 thì lo ngại những cố gắng của nhóm tướng lĩnh trên sẽ hạn chế vai trò của
cố vấn Mỹ [64, tr.124]. Trong lúc đó, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền NVN
(MTDTGP) lại lên tiếng kêu gọi tướng Minh – người tạm thời thay thế Diệm –
thương lượng và tìm một kế hoạch cho tuyển cử tự do. Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
U Thant cũng liên tiếp đưa ra đề nghị tìm một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt
Nam [2, tr. 72-73].
8

Đại tướng Paul Harkins đang làm tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV).

Footer Page 18 of 185.


Header Page 19 of 185.

12

Ngày 29-1-1964, một nhóm sĩ quan trẻ do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu đã lật
đổ nhóm tướng lĩnh đảo chính Diệm khi họ đang bị chia rẽ và bất lực. Khánh cho
rằng cuộc đảo chính được thực hiện vì một số uỷ viên hội đồng quân sự cách mệnh

đã bí mật tán thành các đề nghị của De Gaulle về một miền NVN trung lập [64, tr.
124]. Một lần nữa, người Mỹ lại đứng sau vụ đảo chính này. Harkins và các cố vấn
của ông ta thấy khó chịu trước việc nhóm tướng Minh không tích cực hoạt động và
có tư tưởng độc lập, nên có thể họ đã khuyến khích và thậm chí giúp Khánh thực
hiện âm mưu tiếm quyền. Còn Đại sứ Lodge dự tính rằng chế độ cai trị độc tài có thể
tốt hơn là một nhóm tướng lĩnh chia rẽ, và việc Khánh cam kết hành động táo bạo và
quyết đoán đã khích lệ ý tưởng này của ông ta. Tuy vậy, người Mỹ vẫn chưa yên
tâm lắm và Lodge thừa nhận rằng còn quá sớm để đoán là chính phủ mới này sẽ tồn
tại được lâu [64, tr. 125].
Mỹ nhanh chóng công nhận Khánh và liên tục có những hành động ủng hộ, lên
gân cho vị tướng mang nhiều kỳ vọng này 9. Nhưng gần như ngay lập tức sau khi lên
nắm quyền, Chính quyền của Khánh cũng lại vấp phải những vấn đề thực sự đáng lo
ngại. Các hoạt động quân sự và chương trình ấp chiến lược đã hoàn toàn bế tắc.
Quyền lực của chính quyền không tồn tại ở khắp vùng nông thôn, và tình trạng gần
như vô chính phủ lan tràn ở các thành phố lớn. Tướng Westmoreland sau này kể lại,
tại Sài Gòn "bầu không khí nặng mùi bất mãn, với các cuộc bãi công của công nhân,
biểu tình của sinh viên, báo chí địa phương thì thực hiện một chiến dịch dai dẳng
phê phán chính phủ mới" [64, tr. 125]. Giới tình báo Mỹ báo động rằng, nếu chính
phủ Mỹ không nhanh chóng đảm nhận và giải quyết những khó khăn một cách có
hiệu quả, NVN "cùng lắm chỉ có khả năng chống trả mối đe dọa của quân cách
mạng trong vòng vài tuần hoặc vài tháng tới" [64, tr. 126] 10.
Đánh giá về tình hình này, Bùi Diễm (cựu Đại sứ VNCH tại Mỹ) đã viết: “Nói cho cùng thì Hoa Kỳ chỉ
muốn một tình trạng “ổn định” (đúng ra phải là muốn chiến thắng Việt cộng – ND) nên chỉ cần có một người
lèo lái vững chắc, không cần biết người đó có đáng giúp hay không. Do đó trong những ngày đầu, tướng
Khánh được coi như là một “người hùng” (tạm dịch hai chữ Strong man) đáng tin cậy. Rồi ông McNamara
lại được phái sang Việt Nam để nói lên sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với vị lãnh đạo mới của Việt Nam. Ông
McNamara đi liền với tướng Khánh trong mấy ngày kinh lý và hai người đã cùng giơ cao nắm tay, hô khẩu
hiệu “Việt Nam muôn năm”. Hoa Kỳ đã quá vội vàng”. [15, tr. 193]
10
Ngày 15/5/1964, CIA đã gửi một đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam cho Tổng thống. Dean Rusk, Mac

Bundy, và McNamara. Họ đưa ra những tin tức ảm đạm: Tình hình bao trùm ở NVN là cực kỳ mỏng manh.
Tuy đã có một số cải thiện trong khả năng của quân đội NVN, sức ép kéo dài của Việt cộng tiếp tục xói mòn
quyền lực của Chính phủ trong cả nước, gây phương hại đến các chương trình của Mỹ và Việt Nam (Cộng
hoà) và làm suy sụp tinh thần của NVN. Chúng tôi không nhận thấy dấu hiệu cải thiện nào... Nếu chiều hướng
9

Footer Page 19 of 185.


Header Page 20 of 185.

13

Trong tình hình đó, Tổng thống Pháp lại liên tục kêu gọi “trung lập hóa” miền
NVN. Trước ngày Diệm bị giết hai tháng, ngày 29-8-1963, De Gaulle họp Hội đồng
Bộ trưởng Pháp và tuyên bố mong được thấy một Việt Nam “độc lập với bên ngoài,
hòa bình và thống nhất bên trong, hòa hợp với các nước láng giềng” và “nhân dân
Việt Nam có quyền lựa chọn những biện pháp để đạt những mục tiêu đó”. Đồng
thời, ông cũng nhấn mạnh: “Qua mọi cố gắng, Việt Nam sẽ thấy một nước Pháp sẵn
sàng, trong chừng mực và khả năng của mình, tổ chức một sự hợp tác chân thành
với Việt Nam” [8, tr. 51]. Với cách nói như vậy, De Gaulle đã là nhà lãnh đạo ở châu
Âu đầu tiên dám lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, đồng thời
khẳng định Pháp sẵn sàng giúp tìm một giải pháp giải quyết cuộc chiến. Và sau đó,
vị tổng thống của một đế quốc trước đây đã từng trải ở “vũng lầy” Việt Nam ấy, đã
đưa ra một giải pháp cụ thể. De Gaulle tiếp tục lên tiếng về cuộc chiến tranh “phi
nghĩa” và “đáng ghét” của Mỹ tại các cuộc họp báo tháng 1 và tháng 7-1964. Ngày
23-7-1964, Tổng thống Pháp kêu gọi triệu tập lại Hội nghị Geneva năm 1954, nhằm
chấm dứt sự can thiệp của nước ngoài và tôn trọng sự trung lập của ba nước Đông
Dương [6, tr. 53]. Chính những tuyên bố kêu gọi một giải pháp trung lập cho vấn đề
Việt Nam của Pháp đã tác động khá lớn đến nội bộ chính quyền NVN và cả ở Mỹ.

Tuy nhiên, Johnson đã không vội đưa ra quyết định. Dù rất lo lắng với tình
trạng bất ổn ở NVN, nhưng tổng thống này chưa sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự
Mỹ với quy mô lớn vào đầu năm 1964. Ông ta và các cố vấn của mình sợ rằng việc
Mỹ hoá cuộc chiến tranh sẽ làm giảm tinh thần tự lực của chính quyền VNCH. Việc
đưa lực lượng Mỹ với quy mô lớn vào Việt Nam sẽ tạo ra những làn sóng thù địch
Mỹ trên phạm vi toàn thế giới. Nó có thể gây rối loạn lớn trong nước, đe dọa chương
trình lập pháp của Johnson cùng chiến dịch tranh cử tổng thống của ông ta. Do vậy,
Johnson trì hoãn đề nghị của hội đồng tham mưu trưởng liên quân về việc tiến hành
các hoạt động tác chiến trên không và trên bộ chống BVN [64, tr. 130]. Dù vậy, năm
1964, chính sách của Washington đối với vấn đề Việt Nam cũng có nhiều điểm rất
đáng nói.

đang xấu đi này không bị chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của NVN sẽ không thể đứng vững.
[39, tr.129].

Footer Page 20 of 185.


Header Page 21 of 185.

14

1.1.3. Chủ trương của chính quyền Johnson về Việt Nam từ cuối năm 1963
đến cuối năm 1964
Ngày 24-11-1963, sau khi nghe bản đánh giá bi quan về triển vọng của chính
phủ NVN sau đảo chính, Johnson nói với các cận thần rằng ông đang có cảm tưởng
"như một chú cá trê vừa đớp phải con mồi lớn có mắc lưỡi câu sắc" [64, tr. 122].
Ông liền chỉ thị cho Đại sứ Lodge "trở lại và báo cho các tướng lĩnh Sài Gòn biết
rằng, Lyndon Johnson có ý định giữ lời". Hai ngày sau, 26-11-1963, Bị vong lục
NSAM 273 đã ghi nhận lời hứa của Johnson vào chính sách của Mỹ và khẳng định

rằng “mục tiêu trung tâm của Mỹ” là giúp “nhân dân và chính quyền" NVN “giành
chiến thắng trong cuộc thử nghiệm chống cộng sản" [64, tr.122].
Với mục tiêu như vậy, Washington đã đẩy mạnh các hoạt động củng cố chính
trị, tăng cường quân sự ở miền Nam và thực hiện tiếp tục ở mức độ cao hơn các
cuộc xâm nhập phá hoại miền Bắc.
Tháng 1-1964, Johnson gửi cho Dương Văn Minh một thông điệp đầu năm
mới, với lời nhắn: “Trung lập hóa NVN sẽ chỉ là một cái tên khác cho việc tiếp quản
của Cộng sản… Mỹ sẽ tiếp tục cung cấp cho ngài và nhân dân của ngài mức độ viện
trợ đầy đủ trong cuộc chiến đấu gay gắt này… Chúng tôi sẽ duy trì ở Việt Nam nhân
viên và dụng cụ Mỹ để giúp ngài đạt thắng lợi” [2, tr. 75]. Nhưng tướng Minh
không tỏ ra hiểu rõ ý của Johnson, với thái độ lừng chừng, “không quả quyết và
buông trôi” 11, Mỹ đã ủng hộ Khánh thay Minh.
Sau đó Khánh cũng không cho thấy một tín hiệu lạc quan nào, tình hình miền
NVN vẫn rối rắm. Để đối phó với tình hình đang xấu đi tại Việt Nam, Mỹ tiếp tục
tăng nhanh cố vấn và viện trợ cho CQSG. Thế nhưng, tình hình miền NVN vẫn
không được kết quả như người Mỹ mong muốn, ngược lại, còn ngày càng trầm trọng
hơn. Ngày 16-3-1964, sau khi từ Việt Nam trở về, McNamara đã trình lên Tổng
thống bản báo cáo: Sau khi thẳng thắn đánh giá, bằng các con số như 40% lãnh thổ,
hơn 50% dân số miền Nam thuộc quyền kiểm soát hay ảnh hưởng của cộng sản và
22 trong số 43 tỉnh của VNCH thuộc quyền kiểm soát ở mức độ đáng kể của lực
lượng cách mạng, rằng vị thế của CQSG sau cuộc đảo chính tiếp tục suy yếu [59, tr.
312] “và ở nhiều vùng, Việt Cộng đã giành được chỗ đứng vững chắc đến nỗi không
11

Lời nhận xét của McNamara tháng 12-1963 về chính phủ của Minh [2, tr. 74]

Footer Page 21 of 185.


Header Page 22 of 185.


15

thể đánh bật họ nếu không huy động một lực lượng lớn” [64, tr.131-132]. Ngày 155-1964, trong bản đánh giá tình báo đặc biệt về Việt Nam, CIA cho rằng “tình hình
bao trùm ở NVN là cực kỳ mong manh… Nếu chiều hướng đang xấu đi này không bị
chặn lại vào cuối năm nay, thì vị trí chống cộng của NVN sẽ không thể đứng vững”
[39, tr. 129]. Rõ ràng, giới chức Mỹ đã nhìn nhận vấn đề ngày càng tồi tệ ở NVN.
Trước tình hình đó, giới quân sự lại đề nghị đưa quân viễn chinh Mỹ vào Việt Nam.
Sự thất vọng của Mỹ với CQSG buộc Johnson và các cộng sự phải tìm đến giải
pháp gây sức ép với Bắc Việt, phá hoại miền Bắc để duy trì một chính phủ ổn định ở
NVN và hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho lực lượng giải phóng ở miền Nam.
Tức là, Mỹ sẽ tìm đến giải pháp kết hợp cả ba bước quân sự, chính trị lẫn ngoại
giao.
Mặc dù Johnson chưa chính thức chấp thuận việc đưa quân Mỹ sang chiến đấu
trực tiếp tại Việt Nam nhưng ông đã vạch ra kế hoạch “gây sức ép” với Hà Nội.
Ngày 21-2-1964, Johnson thông báo cho C.Lodge rằng “với sự đồng ý của tôi,
Ngoại trưởng Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã bắt đầu chuẩn bị kế
hoạch cụ thể gây sức ép đối với BVN cả trên lĩnh vực ngoại giao và quân sự” [39,
tr.121].
Để chuẩn bị chu đáo cho giải pháp nêu trên, chính quyền Johnson đã tổ chức
những cuộc họp, thảo luận khá kỹ càng. Nhà nghiên cứu Frances Fitzgerald đã mô tả
khái quát về diễn tiến quá trình đi đến quyết sách cuối cùng ở Washington như sau:
Trong lịch sử hoạch định các quyết sách của chính quyền Mỹ, ở giai đoạn này,
các nhà phân tích của Lầu Năm Góc đã chỉ ra rằng, trừ Geogre Ball 12, không có
quan chức cao cấp nào của chính phủ chống lại một chính sách can thiệp để cứu
CQSG. Các vấn đề được tranh cãi trong nội bộ các quan chức chỉ là về chiến lược
và thời gian tiến hành chính sách đó. Một số quan chức, chủ yếu là hội đồng tham
mưu trưởng liên quân Mỹ, đã thúc giục Tổng thống theo đuổi một kế hoạch leo
thang chiến tranh nhanh chóng. Những người khác lại có quan điểm tiến hành một
chiến dịch chậm rãi và hiệp đồng cẩn thận, kết hợp cả việc tăng dần sử dụng vũ lực

và các sáng kiến ngoại giao để cảnh báo Bắc Việt rằng sức mạnh của Mỹ có thể đưa
sự việc tới những cấp độ họ cho là cần thiết [23, tr. 392].

12

Lúc này đang là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ.

Footer Page 22 of 185.


Header Page 23 of 185.

16

George C. Herring cũng diễn tả về tình hình nói trên, nêu rõ thêm một số chi
tiết. Ông cho biết, chính Maxwell Taylor đã nêu ra ý niệm gọi là “một cuộc ném
bom được phối hợp cẩn thận” chống VNDCCH. Lý do ném bom cũng là vấn đề
chưa thống nhất trong giới quan chức Nhà Trắng. Một số người cho rằng đó là cách
làm tăng tinh thần ở NVN, một số người khác lại coi nó như một vũ khí để buộc Hà
Nội ngừng chi viện cho quân giải phóng miền Nam (QGPMN). Họ cũng chưa nhất
trí về việc phải thực hiện một chiến dịch ném bom kiểu gì. Các tham mưu trưởng
liên quân đề nghị một chiến dịch “chớp nhoáng và vắt kiệt”, tức là đánh ồ ạt vào các
mục tiêu công nghiệp và quân sự lớn. Các viên chức ở Lầu Năm Góc và Bộ Ngoại
giao thì chủ trương “vắt kiệt dần”, tức là một loạt các trận ném bom tăng dần và
mục tiêu mở đầu là các con đường thâm nhập Lào, sau đó từ từ mở rộng ra các mục
tiêu ở phía BVN [25, tr. 208-209].
Cuối cùng, mặc cho những cảnh báo từ các cơ quan tình báo và cả sự phản đối
kịch liệt của thứ trưởng ngoại giao George Ball, đa số cố vấn của Johnson vẫn tán
thành chiến dịch ném bom theo hướng “vắt kiệt dần” hay nói cách khác là leo thang
từng bước. Họ cho rằng tối thiểu thì chiến dịch này cũng tạo ra cho chính quyền

NVN “thời gian để lấy lại sức và cơ hội cải thiện tình hình”. Hơn nữa, họ tin rằng
họ có thể kiểm soát được những rủi ro của hành động leo thang [25, tr. 210]. Với
quyết sách như vậy, Washington đã trước tiên thúc đẩy các kế hoạch về quân sự
chống VNDCCH.
Ngày 22-1-1964, trong bản ghi nhớ gởi cho McNamara, các Tham mưu trưởng
Liên quân Mỹ cho rằng “để giành thắng lợi, Mỹ phải sẵn sàng gạt sang một bên
nhiều hạn chế tự áp đặt đang hạn chế những cố gắng của chúng ta, và Mỹ phải có
những hành động táo bạo hơn dù có thể có những rủi ro lớn hơn” [39, tr.118].
“Hành động táo bạo hơn” ở đây ám chỉ việc tăng cường lực lượng quân sự Mỹ tại
miền NVN và ném bom phá hoại miền Bắc, từng bước leo thang và mở rộng cuộc
chiến tranh Việt Nam. Ngày 24-1-1964, Johnson phê chuẩn kế hoạch OPLAN 34A
với nhiệm vụ là “gây hậu quả cho Bắc Việt bằng sự đầu hàng hoặc nền kinh tế,
chính trị suy sụp đưa đến hòa bình trong vùng” [27, tr. 256], bao gồm hai loại hình
hoạt động:

Footer Page 23 of 185.


Header Page 24 of 185.

17

Thứ nhất, cho tàu thuyền và máy bay tung điệp viên người NVN được trang bị
máy vô tuyến điện vào miền Bắc để phá hoại và thu thập tin tức tình báo;
Thứ hai, cho tàu tuần tra tốc độ cao do người miền Nam hoặc lính đánh thuê
nước ngoài điều khiển, tiến hành các cuộc tập kích ven bờ biển miền Bắc và đánh
phá các căn cứ trên đảo [39, tr.138].

Kế hoạch leo thang chiến tranh này bắt đầu triển khai từ ngày 1-2-1964. Với
nó, Johnson hy vọng đe dọa: “Giới lãnh đạo miền Bắc nên biết rằng họ sẽ phải trả

giá đắt, nếu còn tiếp tục nuôi dưỡng, cho quân xâm nhập vào miền Nam” [27, tr.9].
Hoạt động chính trong OPLAN-34A là thực hiện các chuyến bay do thám của máy
bay U-2 trên bầu trời Bắc Việt, bắt cóc công dân miền Bắc để khai thác tin tức tình
báo, sử dụng các đội nhảy dù phá hoại chống lại miền Bắc và tổ chức các cuộc tiến
công biệt kích từ biển. Những hoạt động phá hoại đó nhằm “đưa lại kết quả là gây
tàn phá, tổn thất nặng nề về kinh tế và quấy rối Hà Nội” 13.
Bên cạnh đó, Washington còn cho thực hiện kế hoạch DESOTO, phái các tàu
khu trục của Hải quân Mỹ tiến hành tuần tra trong vịnh Bắc Bộ, thu thập thông tin
bằng rada, bắn phá dọc bờ biển, phô trương sức mạnh quân sự của Mỹ, đe dọa và
khiêu khích Hà Nội.
Rõ ràng chính sách nhất quán từ đầu chí cuối của Washington là cố gắng bám
giữ miền NVN, gia tăng viện trợ mọi mặt cho CQSG, gây áp lực, thậm chí là đánh
phá miền Bắc một cách bí mật. Nhưng bên cạnh đó, Chính quyền Mỹ cũng không
quên rêu rao rằng cuộc chiến tại Việt Nam là một vấn đề riêng của dân chúng NVN.
Và nhất định CQSG sẽ chiến thắng trong cuộc chiến với những người cộng sản miền
Bắc. Mục đích chính của cách nói như vậy là chỉ nhằm che đậy dã tâm can thiệp
ngày càng sâu vào vấn đề NVN, nhằm lừa bịp dân chúng Mỹ và thế giới. Cụ thể là,
cơ quan truyền thông Mỹ và cả Bộ trưởng quốc phòng McNamara cùng lên tiếng
đánh lừa dư luận Mỹ bằng một kế hoạch rút người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Đầu tháng
2-1964, McMamara tuyên bố trước Ủy ban Thượng Viện rằng: “Chúng ta hy vọng
có thể rút phần lớn binh sỹ Mỹ từ NVN về nước trước cuối năm 1965, dù cho cuộc
chiến chống cộng tại nước này không đạt được kết quả như mong muốn. Không phải
Tuy nhiên, kế hoạch này tỏ ra không hiệu quả, đến nỗi trong một bản báo cáo năm 1964 gửi đến cố vấn
Tổng thống William Bundy có câu“tất cả các toán biệt kích đều bị lực lượng an ninh Bắc Việt phát hiện, chỉ
còn bốn người sống sót chạy thoát trở về”. [27, tr. 9-12] xem thêm: [2, tr. 76]
13

Footer Page 24 of 185.



Header Page 25 of 185.

18

nước Mỹ nhận lãnh trách nhiệm chính yếu trong cuộc chiến chống du kích mà chính
người dân NVN phải thắng trong cuộc chiến này. Người Mỹ không thể thay thế họ
mà chỉ có nhiệm vụ huấn luyện họ cho các cuộc hành quân và chính họ phải thực
hiện” [31, tr. 167]. Đây thực sự là một bằng chứng xác thực cho thấy thủ đoạn thâm
hiểm của giới chính trị gia Mỹ, nói vậy mà không phải vậy.
Tuy nhiên ngay sau đó chỉ vài tháng, tờ New York Times số ra tháng 7-1964
lại đăng tải lời khẳng định khác của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ là cuộc chiến tại Việt
Nam cũng là cuộc chiến của chính ông ta và của cả nước Mỹ. McNamara nói: “Tôi
không phản đối việc gọi cuộc chiến này là chiến tranh của McNamara. Tôi nghĩ
rằng đây là một cuộc chiến tranh rất quan trọng và tôi lấy làm hài lòng khi được
gắn cùng với nó và tôi sẽ làm bất kỳ điều gì để giành chiến thắng” [39, tr. 128129] 14. Và đúng như thế, cuộc chiến này đã ngày càng trở thành cuộc chiến của
Johnson, của McNamara, của Nhà Trắng, của Lầu Năm Góc và cuối cùng là của
người Mỹ, của cả nước Mỹ.

1.2. Hai sứ mệnh của Seaborn đến Hà Nội
1.2.1. Chuyến đi đầu tiên đến Hà Nội của Seaborn (18-6-1964)
Song song với các hoạt động quân sự nhằm gây sức ép lớn hơn lên Hà Nội nêu
trên, Washington cũng tiến hành các hoạt động ngoại giao bí mật bằng trung gian,
mà sau này Johnson đã nâng lên thành “sáng kiến hòa bình”.
Cần nói thêm, mặc dù Johnson vẫn xem cam kết của Mỹ với NVN là không
thể chối bỏ, nhưng lo ngại rằng một sự dính líu quy mô lớn của Mỹ có thể ảnh
hưởng tiêu cực đến cơ hội thắng cử của ông ta năm 1964 và đe dọa chương trình Xã
hội vĩ đại (Great Society) trong nước, Johnson đã thực hiện các biện pháp tạm thời
trong hơn một năm, bằng cách tiếp tục tăng cường viện trợ Mỹ và tăng số lượng cố
vấn với hy vọng một chính sách gần giống như của vị tiền nhiệm nhưng được tập
trung hơn có thể đẩy lùi được tai hoạ (disaster) [64, tr. 121].

Cuối tháng 5-1964, Trước những đánh giá ảm đạm trong báo cáo của CIA về
tình hình NVN, Johnson đã yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng soạn thảo
Sự nông nỗi, bốc đồng này đã làm cho chính McNamara ray rứt mãi cho đến cuối đời như trong hồi ký của
ông đã thú nhận.
14

Footer Page 25 of 185.


×