Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.54 KB, 32 trang )

Tiểu luận Triết học

Nhận thức đầy đủ về phát triển đã khó, giải thích thấu đáo sự phát triển càng
khó hơn. Bản thân kinh tế học, xưa và nay, với nhiều học thuyết đã cố gắng đi tìm lời
giải đáp cho những vấn đề nhận thức và giải thích sự phát triển. Bằng việc khai quát
cơ chế thi trường cạnh tranh và quan hệ tương tác giữa các cá nhân có quyền tự do lựa
chọn trên thị trường, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển được xem là một học thuyết có
vị trí ưu trội trong lý giải sự vận động của các nền kinh tế. Tuy nhiên, các nhà nghiên
cứu đều thừa nhận rằng học thuyết đó không đủ sức giải thích được đầy đủ và thực sự
thuyết phục nguyên nhân dẫn tới thành quả kinh tế khác nhau giữa các nước. Vấn đề
là nền kinh tế học cổ điển và tân cổ điển mới chủ yếu lưu tâm đến chức năng hoạt
động của thị trường mà ít đề cập đến sự biến chuyển, tiến hoá của thị trường. Cách
nhìn thiên lệch, lý tưởng hoá vai trò can thiệp, dẫn dắt nền kinh tế của nhà nước cũng
có nhiều điểm hạn chế. Trên thực tế, cả “thất bại của thị trường” và “thất bại của nhà
nước” đều phổ biến. Hơn nữa, tư duy về phát triển cũng đã có thay đổi về chất, quan
tâm mạnh mẽ hơn đến sự phát triển bền vững, hài hoà và vì mục tiêu phát triển con
người. Đó chính là những lý do để các nhà khoa học nỗ lực tìm lời giải thích sự phát
triển dưới góc độ thể chế và kinh tế học thể chế.
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường diễn ra không phẳng lặng ở nhiều nước. Bài học kinh nghiệm 30 năm đổi mới
ở Việt Nam cũng cho thấy đây là một quá trình phức tạp, nhất là khi Việt Nam đề ra
mục tiêu “xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa”
và coi đây là một trụ cột có tính đột phá để tiếp tục chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và phát triển.
Hiện nay, cùng với xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá, Việt Nam đã chủ động hôi
nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Chúng ta đã là thành viên chính thức của
ASEAN, APEC, ASEM và WTO cũng như nhiều định chế tài chính như WB, ADB,
IMF... Việc gia nhập WTO vào năm 2007 đã mở ra quan hệ thương mại bình đẳng
giữa Việt Nam với 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là một thành tựu quan trọng
của việc thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới, đưa Việt Nam trở thành quốc gia
bình đẳng trong thương mại với các nước trên thế giới. Ngoài ra, ta đã có quan hệ


thương mại với trên hai trăm quốc gia và vùng lãnh thổ ở khắp các châu lục; trên một
trăm quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam và doanh nghiệp Việt
Nam đã có dự án đầu tư ở trên bảy mươi quốc gia và vùng lãnh thổ. Với việc mở rộng
thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia sâu rộng vào các
hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan trọng với ý thức trách
nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới, do đó đã góp phần mở rộng thị
trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần
phục vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định
được hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới.
Trong quá trình tham gia vào sân chơi chung toàn cầu, việc tìm hiểu các định
chế, thể chế kinh tế quốc tế là hết sức quan trọng, vì muốn tham gia “cuộc chơi”
chúng ta cần biết, cần hiểu và vận dụng cho tốt “luật chơi”.
Bài nghiên cứu này xin nêu ra một số vấn đề lý luận chung về thể chế, thể chế
kinh tế quốc tế; vai trò của một số thể chế kinh tế lớn đối với sự phát triển kinh tế và
định hướng vận dụng ở Việt Nam như thế nào?

Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỂ CHẾ KINH TẾ QUỐC TẾ
Khái niệm thể chế, thể chế kinh tế và vai trò
Khái niệm “thể chế”, “thể chế kinh tế”

Lý luận về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng rất phong phú và được
phát triển dựa trên nhiều tư tưởng nhiều học thuyết, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác
nhau và cho đến nay vẫn đang được hoàn thiện.
Có nhiều cách định nghĩa về thể chế. Một trong những định nghĩa đầu tiên về
thể chế là do Thorstein Veblen đưa ra vào năm 1914. Theo Thorstein Veblen, thể chế
là tính quy chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong những tình
huống cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự
tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự kiểm soát hoặc do quyền lực bên ngoài
khống chế.
Norh (1991, 1997) thể hiện rõ ràng và cụ thể hơn quan niệm về thể chế. Thể
chế bao gồm những ràng buộc phi chính thức (điều thừa nhận, cấm đoán theo phong
tục, tập quán, truyền thống và đạo lý), những quy tắc chính thức (hiến pháp, luật,
quyền sở hữu) và hiệu lực thực thi chúng.
Có thể nói, những quan niệm trên đây ít nhiều đều hàm nghĩa rộng hơn định
nghĩa được nêu trong cuốn “Từ điển Việt Nam” (Hoàng Phê chủ biên 1992), theo đó,
thể chế là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân
theo (nói tổng quát)”.
Dù có những khác biệt nhất định, song nhìn chung các quan niệm về thể chế
bao hàm ba khía cạnh quan trọng nhất là “luật chơi” (chính thức và phi chính thức”,
“cách chơi” (cơ chế/chế tài thực thi) và “người chơi” (con người, tổ chức gắn với
hành vi của chúng).
Thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ
thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế
bao gồm các yếu tố chủ yếu: các đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc,.. về kinh tế gắn
với các chế tài xử lý vi phạm; các tổ chức kinh tế; cơ chế vận hành nền kinh tế.
Thể chế KTQT là hệ thống những quy định có tính pháp lý (bắt buộc) nhằm
điều chỉnh các chủ thể tham gia tổ chức KTQT, các hành vi sản xuất kinh doanh và
các quan hệ KTQT, bao gồm các yếu tố chủ yếu: đạo luật, luật lệ, quy định, quy tắc,..
về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, cơ chế vận hành nền
kinh tế.

Vai trò của thể chế KTQT đối với sự phát triển KT mỗi nước
Một là, định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, hoạt động của nền
kinh
tế.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Thể chế kinh tế quốc tế là những luật lệ, qui tắc nên vai trò hàng đầu của nó là định
hướng, hướng dẫn hành vi và tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức hoạt động của
nền kinh tế, tác động lớn đến sự lựa chọn và việc quyết định sản xuất cái gì, đầu tư
như thế nào vào lĩnh vực nào, ở đâu... của các chủ thể kinh tế. Ngoài ra thể chế có tác
dụng hướng dẫn trong mối quan hệ qua lại của con người để khi làm bất cứ việc gì,
mỗi người sẽ biết được cách thức thực hiện những việc đó như thế nào.
Hai là, thể chế kinh tế tạo ra nền tảng kinh tế xã hội của một nền kinh tế như: chế độ
sỡ hữu, các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của nền
kinh
tế.
Ba là, thể chế kinh tế đóng vai trò chủ thể quản lý kinh tế, và các công cụ quản lý nền
kinh
tế
thị
trường
định
hướng
XHCN.
Nhà nước với tư cách là một thể chế kinh tế, trong quá trình tổ chức quản lý vĩ mô
nền kinh tế, đóng vai trò chủ thể quản lý kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN.
Hệ thống pháp luật, các công cụ kế hoạch hoá, tài chính, tiền tệ trong nền KTTT luôn

có vai trò hết sức quan trọng việc tạo ra khung khổ pháp lý, tác động đến điều tiết,
định
hướng
nền
kinh
tế.
Bốn là, thể chế kinh tế hình thành góp phần đồng bộ hoá hệ thống thị trường, từng
bước hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền KTTT nước ta.
Theo quan niệm hiện nay hệ thống thị trường đồng bộ bao gồm hai vấn đề: Thứ nhất,
phải có đẩy đủ các loại thị trường sản phẩm và thị trường yếu tố hay thị trường đầu
vào
hay
thị
trường
đầu
ra.
Thứ hai, bảo đảm cho các loại thị trường này phát triển cân đối cả về qui mô, trình độ.
Tính đồng hộ của hệ thống thị trường có vai trò hết sức to lớn đối với quá trình phát
triển hệ thống thị trường và nền kinh tế. Nếu thiếu một trong các loại thị trường thì
một mặt, các chủ thể sản xuất kinh doanh khó có được những cơ hội và điều kiện
thuận lợi, bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các nguồn lực cho sự phát triển;
mặt khác, tính đồng hộ, tính ràng buộc và tính cân đối giữa chúng bị vi phạm sẽ cản
trở, thậm chí làm phá vỡ các chiến lược kinh doanh đã định.
Trong nền KTTT, giữa các thị trường có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau, dựa vào
nhau và tác động lẫn nhau. Thị trường đầu ra của ngành này, doanh nghiệp này có khi
lại là thị trường đầu vào của ngành khác, doanh nghiệp khác. Do đó, nếu một thị
trường nào đó không phát triển đầy đủ hoặc trì trệ sẽ có ảnh hưởng tới sự phát triển và
phát huy vai trò, chức năng của các thị trường khác, ảnh hưởng đến hiệu quả tổng thể
của
hệ

thống
thị
trường.
Mỗi thể chế KTQT có một vai trò nhất định trong quá trình điều tiết hoạt động của
KTQT trong giới hạn của nó và có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống KTQT.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Hệ thống luật lệ, các chế định KTQT và các công cụ khác: kế hoạch hoá, tài
chính, tiền tệ luôn có vai trò hết sức quan trọng việc tạo ra khung khổ pháp lý, tác
động đến điều tiết, định hướng nền kinh tế.
II.MỘT SỐ THỂ CHẾ KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
1.1.Khái quát chung
WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organnization). Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 1/1/1995 với mục tiêu
thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh bạch.
Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp định chung
về Thương mại và thuế quan – GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương mại hàng hoá) và
là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm các lĩnh vực thương mại
hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư).
1.2.Mục tiêu
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới,
thực hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947
là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc làm và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của
thế giới. Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:

-Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ
cho sự phát triển, ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
-Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh
chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại
đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế, bảo đảm cho
các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng
những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu
phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập
sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
-Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên,
bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
1.3.Chức năng
WTO thực hiện 5 chức năng sau:
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

-Thống nhất quản lý việc thực hiện các hiệp định và thỏa thuận thương mại đa
phương và nhiều bên; giám sát, tạo thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước
thành viên thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ.
-Là khuôn khổ thể chế để tiến hành các vòng đàm phán thương mại đa phương
trong khuôn khổ WTO, theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng WTO.
-Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc
thực hiện và giải thích Hiệp định WTO và các hiệp định thương mại đa phương và
nhiều bên.
-Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm
thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO,
Hiệp định thành lập WTO (Phụ lục 3) đã quy định một cơ chế kiểm điểm chính sách
thương mại áp dụng chung đối với tất cả các thành viên.

-Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và Ngân hàng Thế giới trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về
những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
1.4.Cơ cấu tổ chức
Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của
WTO, ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các
ủy ban đặc thù.
Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai
năm một lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên
này có thể là một nước hoặcmột liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu
Âu). Hội nghị Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước
thương mại đa phương của WTO..
Cấp thứ hai: Đại hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại hội đồng,
Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy
tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao
gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên.
Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng
khác nhau của WTO.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được
nhóm họp thường xuyên. Đại hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc
tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh
hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc
của WTO.

Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các
phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ
trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc
tương đương).
Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc
rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách
thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra
khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể
được tiến hành cách quãng hơn.
Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại hội đồng. Có ba Hội
đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ
và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Một
hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại hội đồng, các hội
đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng
này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại hội
đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận
thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm
Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc
phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt
động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.
Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc
phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động
liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.
Hội đồng Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí
tuệ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía
cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS), cũng như việc
phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị



Tiểu luận Triết học

Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên
môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy
ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban
đặc thù.
Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan
Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập
Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện
thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các
lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
1.5.Các nguyên tắc
WTO hoạt động dựa trên một bộ các luật lệ và quy tắc tương đối phức tạp, bao
gồm trên 60 hiệp định, phụ lục, quyết định và giải thích khác nhau điều chỉnh hầu hết
các lĩnh vực thương mại quốc tế. Tuy vậy, tất cả các văn bản đó đều được xây dựng
trên cơ sở năm nguyên tắc cơ bản của WTO. Có các nguyên tắc chủ yếu:
Thương mại không có sự phân biệt đối xử: Quy định về chế độ Đãi ngộ tối
huệ quốc và Đãi ngộ quốc gia.
Chỉ bảo hộ bằng thuế quan: Bảo hộ các ngành công nghiệp nội địa không bị
ngăn cấm. Tuy nhiên, WTO đưa ra một nguyên tắc là các nước chỉ được thực hiện
bảo hộ chủ yếu thông qua thuế quan, chứ không được sử dụng các biện pháp thương
mại khác. Mục tiêu của nguyên tắc này để đảm bảo sự minh bạch của việc bảo hộ và
giảm thiểu những tác dụng bóp méo thương mại phát sinh.
Tạo dựng một nền tảng ổn định cho thương mại:

Các nước thành viên WTO còn có nghĩa vụ phải minh bạch hoá các quy định
thương mại của mình, phải thông báo mọi biện pháp đang áp dụng và ràng buộc
chúng (tức là cam kết sẽ không thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho thương mại, nếu
thay đổi phải được thông báo, tham vấn và bù trừ hợp lý). Tính dự báo được nhằm
giúp các nhà kinh doanh nắm rõ tình hình hiện tại cũng như xác định được cơ hội của
họ trong tương lai. Nguyên tắc này giúp cho môi trường kinh doanh có tính ổn định
và lành mạnh.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán:
- Đảm bảo thương mại giữa các quốc gia ngày càng tự do hơn thông qua quá
trình đàm phán hạ thấp các hàng rào thương mại để thúc đẩy buôn bán.
- Ngày 30/11-3/12 tại Seattle, các nước thành viên WTO đã kỳ vọng sẽ có thể
đưa ra một vòng đàm phán mới có tên là Vòng đàm phán Thiên niên kỷ nhằm mục
tiêu tự do hoá thương mại một cách toàn diện và sâu rộng hơn nữa.
Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng:
Đưa ra hệ thống các nguyên tắc nhằm thúc đẩy cạnh tranh tự do, công bằng và
không bị bóp méo. Tất cả các Hiệp định của WTO như về nông nghiệp, dịch vụ,
quyền sở hữu trí tuệ... đều nhằm mục tiêu tạo một môi trường cạnh tranh ngày càng
bình đẳng hơn giữa các quốc gia.
Hạn chế số lượng hàng nhập khẩu:
Các nước sẽ loại bỏ tất cả hạn chế số lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy
nhiên, WTO cũng cho phép các nước thành viên được áp dụng các hạn chế nhập khẩu
trong một số trường hợp ngoại lệ (Nước nhập khẩu gặp khó khăn về cán cân thanh
toán; Có căng thẳng về ngoại hối (do nhu cầu nhập khẩu vì mục tiêu phát triển tăng
mạnh, hoặc do các nước này thiết lập hay mở rộng hoạt động sản xuất trong nước).
Nguyên tắc "khước từ" và khả năng áp dụng các hành động khẩn cấp:

Khi tình hình kinh tế hay thương mại của một nước gặp khó khăn nhất thời,
WTO cho phép các nước thành viên được tạm thời miễn không thực hiện những nghĩa
vụ nhất định.
WTO cũng cho phép các chính phủ được áp dụng các biện pháp tự vệ khẩn cấp
trong những trường hợp quy định. Các thành viên có thể áp dụng các hạn chế nhập
khẩu hay tạm ngừng các nhân nhượng thuế quan đối với những sản phẩm cụ thể khi
nhập khẩu các sản phẩm này tăng mạnh, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng cho các nhà sản xuất trong nước.
Các thoả thuận thương mại khu vực:
Mục tiêu nhằm mục tiêu đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Các liên kết như vậy
được chấp nhận là một ngoại lệ của nguyên tắc Đãi ngộ Tối huệ quốc (MFN) theo
những tiêu chuẩn nghiêm ngặt, nhằm đảm bảo các thoả thuận này tạo thuận lợi cho
thương mại giữa các nước liên quan song không làm tăng các hàng rào cản trở thương
mại với các nước ngoài liên kết.
Điều kiện đặc biệt dành cho các nước đang phát triển:
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Với 2/3 số thành viên của mình là các nước đang phát triển và các nền kinh tế
chuyển đổi, một trong những nguyên tắc cơ bản của WTO là khuyến khích phát triển,
dành những điều kiện đối xử đặc biệt và khác biệt cho các quốc gia này, với mục tiêu
đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của họ vào hệ thống thương mại đa phương. Thực
hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển
đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong việc thực thi các hiệp định, đồng thời
chú ý đến trợ giúp kỹ thuật cho các nước này.
1.6.Các quy định của WTO
WTO là tổ chức quốc tế duy nhất điều chỉnh các quy tắc về thương mại giữa
các quốc gia. Cốt lõi của WTO là các hiệp định do các chính phủ thành viên đàm

phán và ký kết. Các hiệp định này tạo ra nền tảng pháp lý cho việc tiến hành hoạt
động thương mại quốc tế, với mục tiêu thúc đẩy giao lưu thương mại hàng hoá, dịch
vụ và hợp tác thương mại ngày càng sâu rộng và hiệu quả hơn. Hệ thống WTO hiện
nay bao gòm những hiệp định độc lập như:
Các hiệp định đa phương về thương mại hàng hoá bao gồm Hiệp định GATT
1994 và các hiệp định đi kèm với nó;
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS);
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ
(TRIPS)
2.Ngân hàng thế giới (WB)
2.1. Hoàn cảnh ra đời
Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập vào năm 1944, trụ sở chính đặt tại
Washington, D.C. WB hiện có hơn 9000 nhân viên làm việc tại hơn 100 văn phòng
đại diện trên toàn thế giới.
WB là một tổ chức quốc tế gồm có 5 cơ quan hoạt động tương đối độc lập với
nhau gồm: (i) Hiệp hội Phát triển Quốc Tế (IDA); (ii) Ngân hàng Quốc tế về Tái Thiết
và Phát triển (IBRD); (iii) Công ty Tài chính Quốc Tế (IFC); (iv) Cơ quan Bảo lãnh
Đầu tư Đa biên (MIGA); và (v) Trung tâm Quốc tế về xử lý tranh chấp Đầu tư
(ICSID). Tuy nhiên, nói đến WB là nói đến hai tổ chức IBRD và IDA. Mỗi tổ chức
đều có vai trò riêng biệt trong cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức
sống của người dân các nước đang phát triển.
2.2. Mục đích và nguyên tắc hoạt động
* Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) là tổ chức trực thuộc nhóm WB, được
thành lập năm 1960. IDA chuyên cung cấp các khoản hỗ trợ tài chính cho các quốc
gia nghèo nhất thế giới với mục tiêu nhằm xóa đói giảm nghèo thông qua việc cung
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học


cấp các khoản cho vay không có lãi suất (còn gọi là khoản tín dụng) cũng như các
khoản viện trợ không hoàn lại cho các chương trình/dự án để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, xóa bỏ bất bình đẳng cũng như cải thiện đời sống.
IDA được tài trợ từ nguồn đóng góp của các quốc gia giàu có trên thế giới và
nguồn IBRD và IFC. Ba năm một lần, WB, các nhà tài trợ và một số các quốc gia đi
vay sẽ nhóm họp để quyết định bổ sung nguồn vốn cho IDA. Kể từ khi thành lập tới
nay, IDA đã tổ chức 16 phiên họp để kêu gọi các nhà tài trợ góp vốn bổ sung cho hoạt
động của IDA.
Tiêu chuẩn để được vay IDA tùy thuộc vào mức độ đói nghèo tương đối của
quốc gia đó, được xác định theo tỷ lệ Tổng thu nhập Quốc dân (GNI) theo đầu người
dưới ngưỡng quy định của WB và được cập nhật hàng năm (hiện nay ngưỡng này là
1.135 USD).
*Ngân hàng Quốc Tế về Tái Thiết và Phát triển (IBRD) là một tổ chức trực
thuộc WB, được thành lập năm 1945. Mục tiêu hoạt động của IBRD nhằm xóa đói và
duy trì sự phát triển bền vững cho các nước đang phát triển có thu nhập đầu người
tương đối cao thông qua các khoản vay, bảo lãnh và các dịch vụ nghiên cứu và tư vấn.
Lãi suất của các khoản vay được tính theo LIBOR và được điều chỉnh 6 tháng một
lần. Thời hạn vay từ 15- 20 năm, có 5 năm ân hạn.
*Công ty Tài chính quốc tế (IFC) là tổ chức được thành lập năm 1956. Mục
tiêu hoạt động của IFC là hỗ trợ khu vực tư nhân bằng cách cung cấp các khoản vay
dài hạn, đầu tư cổ phần, bảo lãnh, quản lý rủi ro và các dịch vụ tư vấn. Lãi suất tính
theo lãi suất thị trường, thay đổi theo từng nước và từng dự án. Thời hạn vay từ 3- 13
năm, có 8 năm ân hạn.
* Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa biên (MIGA) là tổ chức được thành lập năm
1988. Mục tiêu hoạt động của MIGA nhằm giúp các nước đang phát triển thu hút đầu
tư nước ngoài bằng việc cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài những bảo lãnh đầu
tư đối với “ rủi ro phi thị trường”. Ngoài ra, MIGA còn cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
kỹ thuật để phổ biến thông tin về cơ hội đầu tư…
* Trung tâm Quốc Tế về xử lý tranh chấp Đầu tư (ICSID) là đơn vị được
thành lập năm 1966. Mục tiêu hoạt động của ICSID nhằm thúc đẩy nguồn đầu tư quốc

tế ngày càng tăng bằng cách cung cấp phương tiện cho việc hòa giải và trọng tài về
những tranh chấp giữa các Chính phủ và các nhà đầu tư, đồng thời tiến hành nghiên
cứu, xuất bản ấn phẩm trong lĩnh vực luật đầu tư nước ngoài của các nước.
2.3.Các hoạt động chính của WB
Tạo quỹ: IBRD tạo những nguồn vốn vay cho các nước đang phát triển thông
qua việc bán cổ phiếu được xếp hạng AAA trên thị trường tài chính thế giới. Trong
khi IBRD đạt được một phần nhỏ lợi nhuận từ những nguồn cho vay này, nguồn thu
lớn hơn của tổ chức này đến từ việc cho vay những nguồn vốn mà nó sở hữu. Nguồn
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

vốn này bao gồm những khoản dự trữ được tích trữ qua nhiều năm và những nguồn
đóng góp của 185 cổ đông (là các quốc gia thành viên) của WB. Nguồn thu của IBRD
cũng được dùng để chi trả cho chi phí vận hành của WB và hỗ trợ hoạt động của IDA
cũng như chương trình xóa nợ cho các nước nghèo.
Cung cấp các nguồn vốn vay: Thông qua IBRD và IDA, WB đưa ra hai loại
vốn cho vay và tín dụng: (1) những hoạt động đầu tư và (2) hoạt động liên quan đến
chính sách phát triển. Các quốc gia sử dụng nguồn vốn và tín dụng loại một để đầu tư
vào hàng hóa, lao động và dịch vụ nhằm ủng hộ cho các dự án phát triển kinh tế và xã
hội trong nhiều khối ngành khác nhau. Loại vốn vay và tín dụng thứ hai được sử dụng
để cung cấp những nguồn tài chính được giải ngân nhanh nhằm hỗ trợ cho chính sách
nào đó của một quốc gia và những chương trình cải cách bộ máy hành chính. Đơn vay
vốn của các nước thành viên sẽ được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo những dự án mà
WB cho vay đầu tư phải bền vững về mặt kinh tế, xã hội, và môi trường. Trong quá
trình đàm phán, WB và nước vay vốn phải thỏa thuận về mục đích phát triển, đầu ra
của dự án, những chỉ số cho thấy tốc độ và chất lượng thực hiện dự án, kế hoạch thực
hiện dự án cũng như quy trình giải ngân nguồn vốn. Những nguồn tín dụng dài hạn
thường không có lãi suất, nhưng có một khoản thu nhỏ cho chi phí dịch vụ, tương

đương khoảng 0,75% nguồn vốn được cho vay.
Quản lý các quỹ tín thác (trust funds) và cung cấp các khoản viện trợ không
hoàn lại: Các nhà tài trợ chính phủ và tư nhân gửi tiền vào quỹ tín thác được cất giữ
tại WB. Những nguồn vốn này được sử dụng cho nhiều mục đích phát triển khác
nhau. WB cũng huy động những nguồn vốn từ bên ngoài để cung cấp cho những hoạt
động phi lợi nhuận của IDA và những khoản viện trợ không hoàn lại, cũng như những
nguồn vốn cho các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc biệt
của các quốc gia đang phát triển. Những nguồn vốn hỗ trợ không hoàn lại của IDA
thường được dùng cho các mục đích: giảm hoặc xóa nợ cho các quốc gia nghèo
không có khả năng trả nợ; cải thiện vệ sinh và nguồn nước; ủng hộ cho những chương
trình tiêm chủng; chống lại HIV/AIDS; ủng hộ cho các tổ chức dân sự; tạo ra những
sáng kiến để cắt giảm khí thải và hiệu ứng nhà kính.
Cung cấp dịch vụ tư vấn: WB cũng đóng vai trò cung cấp những dịch vụ phân
tích tình hình, tư vấn và cung cấp thông tin cho các nước thành viên nhằm giúp các
nước này phát triển kinh tế – xã hội.
Xây dựng năng lực: WB có vai trò nâng cao năng lực của các đối tác, nguồn
nhân lực ở các nước đang phát triển, và nhân viên của chính tổ chức này để giúp họ
có được những kiến thức và kỹ năng cần thiết để cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, cải thiện
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

hiệu suất của chính phủ và cung cấp dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì
các chương trình xóa đói giảm nghèo
3.Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
3.1.Khái quát chung
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) được thành lập đồng thời với Ngân hàng Tái thiết
và Phát triển Quốc tế (Ngân hàng Thế giới) tại Hội nghị quốc tế Bretton Wood tổ
chức vào tháng 7/1944, đi vào hoạt động ngày 27/12/1945. IMF được mô tả như

"Một tổ chức của 188 quốc gia“ thành viên với mục tiêu thúc đẩy hợp tác tiền tệ toàn
cầu, bảo đảm sự ổn định tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
thương mại thế giới, kích thích việc làm và phát triển kinh tế bền vững, giảm đói
nghèo trên toàn thế giới.
IMF cũng đưa ra những tư vấn chính sách, và giúp đỡ về mặt tài chính cho các
nước thành viên trong những giai đoạn khó khăn về kinh tế, đồng thời làm việc với
các nước đang phát triển để giúp các nước này đạt được sự ổn định về kinh tế vĩ mô
và giảm đói nghèo.
Nguồn vốn của IMF là do các nước đóng góp theo cổ phần. Vốn cổ phần được
tính bằng quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Right SDR) - đơn vị tính toán tiền
tệ của IMF
Các nước thành viên có cổ phần lớn trong IMF là Mỹ (17,46%), Đức (6,11%),
Nhật Bản (6,26%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%). Mỹ có 42,1 tỷ SDR (khoảng 64 tỷ
USD) và thành viên nhỏ nhất là Tuvalu với 1,8 triệu SDR (khoảng 2,7 triệu USD).
Các nước có tỉ lệ góp vốn ít tại IMF rất khó tham gia tranh cử chức Tổng giám đốc
điều hành cũng như can thiệp vào hoạt động của tổ chức này.
3.2.Những hoạt động chính của IMF
IMF hỗ trợ các nước thành viên thông qua những hoạt động sau:
• Đưa ra những lời khuyên về chính sách cho các chính phủ và ngân hàng trung
ương dựa trên sự phân tích về xu hướng phát triển kinh tế, và những kinh
nghiệm thực tế xuyên quốc gia;
• Nghiên cứu, thống kê, dự báo, và phân tích kinh tế thông qua việc theo dõi các
nền kinh tế và thị trường riêng lẻ, khu vực và toàn cầu;
• Đưa ra các nguồn vốn cho vay để giúp các quốc gia vợt qua các giai đoạn kinh
tế khó khăn;
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học


• Đưa ra những nguồn vốn không lãi suất và có thời gian đáo hạn dài để giúp các
nước phát triển chống lại đói nghèo;
• Trợ giúp kĩ thuật và đào tạo để giúp các nước phát triển cải thiện khả năng điều
hành nền kinh tế của mình.
3.3.Cơ cấu quản trị
Cơ cấu quản trị của IMF bao gồm những bộ phận chính như sau:
• Hội đồng thống đốc: là cơ quan quyết định tối cao, bao gồm một thống đốc và
một thống đốc thay thế đến từ các quốc gia thành viên. Thống đốc được chỉ
định bởi quốc gia thành viên và thông thường là bộ trưởng tài chính hoặc thống
đốc ngân hàng trung ương.
• Các ủy ban Bộ trưởng: Hội đồng thống đốc được tham vấn bởi hai Ủy ban Bộ
trưởng: Ủy ban Tiền tệ và Tài chính quốc tế( IMFC) và Ủy ban Phát triển.
• Ban Giám đốc điều hành: có 24 thành viên chịu trách nhiệm quản lý các công
việc hàng ngày của IMF. 24 thành viên của Ban Giám đốc Điều hành này thay
mặt cho 186 quốc gia thành viên. Ban Giám đốc Điều hành bàn luận và giải
quyết tất cả các vấn đề từ việc xem xét tình trạng kinh tế của các nước thành
viên được chuẩn bị bởi nhân viên của IMF cho đến các vấn đề về chính sách
kinh tế có liên quan đến nền kinh tế toàn cầu
3.4.Sự phát triển và cải tổ của IMF
-Đến nay, mục đích chính của IMF vẫn là đảm bảo sự ổn định tài chính toàn
cầu. Cụ thể, IMF tiếp tục:
• Cung cấp diễn đàn cho hợp tác giải quyết những vấn đề về tiền tệ quốc tế;
• Tạo

điều kiện cho sự phát triển thương mại thế giới, từ đó thúc đẩy việc tạo việc
làm, phát triển kinh tế và giảm đói nghèo;
• Thúc đẩy sự ổn định về tỷ giá hối đoái và phát triển một hệ thống thanh toán mở;
• Cho

các quốc gia vay ngoại hối khi gặp những vấn đề về cán cân thanh toán


-IMF đã cải tổ cách thức hoạt động theo những hướng sau:
• Đẩy mạnh hoạt động của các phương tiện và cách thức cho vay của IMF;
• Tăng cường việc theo dõi các nền kinh tế riêng lẻ, khu vực và toàn cầu và giúp
giải quyết những bất cân bằng của nền kinh tế thế giới;

Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

• Phân tích sự phát triển của thị trường tài chính, đánh giá những vấn đề dễ gây
bất ổn của các hệ thống ngân hàng;
• Giúp cắt giảm đói nghèo;
Cải tổ quản lý trong IMF và giúp cho IMF có tránh nhiệm hơn và trong sạch
hơn trong hoạt động của mình.


Bên cạnh những thành công, IMF cũng đã phải chịu những lời chỉ trích đáng
kể:
• Chỉ trích về những liên quan đến điều kiện tài chính nghiêm ngặt thường gắn
với các khoản vay của mình. Những điều kiện mà IMF áp đặt gần đây còn bao gồm
các yếu tố liên quan đến môi trường, sự tham gia của phụ nữ, và các mối quan tâm về
vấn đề quản trị.
• Các nhà phê bình khẳng định rằng các quốc gia không vay tiền từ IMF đều bị
đối xử tương tự bởi các cơ quan cho vay tiềm năng khác, khiến cho ảnh hưởng toàn
cầu của IMF càng được gia tăng.
• Họ cũng cho rằng IMF đã đã hoạt động sai lệch so với Hiến chương IMF trong
đó kêu gọi việc đưa ra các quyết định cho vay chỉ đơn thuần dựa trên các căn cứ về
kinh tế.

• Các nhà phê bình cũng cho rằng IMF dễ dãi khi cung cấp các khoản vay cho
một số nước (ví dụ như Nga), trong khi khó khăn hơn với các nước khác.
• Cũng như tất cả các tổ chức tài chính quốc tế khác, từ năm 2008 IMF đã nhanh
chóng chuyển ưu tiên sang đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và cung
cấp những nguồn vốn khổng lồ cho một số nước gặp khó khăn nhất, như Iceland hay
Ucraina. Một số nhà kinh tế thậm chí còn kêu gọi thành lập một hiệp định Bretton
Woods mới, trong đó IMF sẽ có một vai trò điều tiết mạnh mẽ hơn so với vai trò mà
tổ chức này nắm giữ kể từ khi cơ chế tỉ giá hối đoái cố định dựa trên hệ thống Bretton
Woods bị sụp đổ vào năm 1971.
4.Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)
4.1.Khái quát chung
Ngân hàng Phát triển châu Á (tiếng Anh: The Asian Development Bank; viết
tắt: ADB) là một thể chế tài chính đa phương cung cấp các khoảng tín dụng và hỗ trợ
kỹ thuật nhằm giúp các nước châu Á xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội.
ADB được thành lập vào năm 1966, chủ tịch là người Nhật Bản.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

ADB là một thể chế phát triển tài chính đa phương với 66 thành viên bao gồm
47 nước trong khu vực và 19 nước ở các nơi khác trên khắp toàn cầu.
ADB được xây dựng như một bản sao của World Bank, với nguồn vốn thành
lập xuất phát từ Chính phủ các nước Mỹ, Nhật và Tây Âu. Nguồn tài trợ chính cho
các khoản cho vay của ADB là từ việc phát hành trái phiếu trên thị trường châu Âu.
Hầu như trong suốt lịch sử, ADB vẫn hoạt động trên cơ sở các dự án, đặc biệt là
trong những lĩnh vực như đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp và cấp vốn
vay cho các ngành công nghiệp cơ bản ở các nước thành viên.
Trên lý thuyết, ADB là người cho vay của các Chính phủ và các tổ chức của
Chính phủ, song nó còn tham gia vào quá trình nâng cao tính thanh khoản và tối ưu

hoá hoạt động trong các khu vực tư nhân ở các nước thành viên trong khu vực.
4.2.Cơ cấu tổ chức
Cơ quan ra quyết định cao nhất của ADB là Ban Thống đốc do mỗi quốc gia
thành viên đóng góp một đại diện. Đến lượt nó ban Thống đốc lại tự bầu ra trong số
họ 12 thành viên của Ban Giám đốc và các cấp phó của họ. 8 trong số 12 thành viên
này là đại diện của các quốc gia trong khu vực (châu Á - Thái Bình Dương) và số còn
lại là từ các quốc gia ngoài khu vực.
Ban Thống đốc còn bầu ra chủ tịch Ngân hàng, là người đứng đầu Ban Giám
đốc và điều hành ADB. Mỗi chủ tịch giữ cương vị của mình trong một nhiệm kì kéo
dài 5 năm và có thể được tái đắc cử. Theo truyền thống và vì Nhật Bản là một trong
những cổ đông lớn nhất của ADB, cho nên chủ tịch của ADB đã luôn là người Nhật.
Chủ tịch đương nhiệm của ADB là Haruhiko Kuroda.
Trụ sở của ADB đặt tại Manila (Philippine), và có văn phòng đại diện trên khắp
thế giới. Hiện ADB có khoảng 2400 nhân viên, đến từ 53 trên tổng số 66 quốc gia
thành viên, và hơn một nửa số nhân viên của họ là người Philippin.
4.3.Chức năng
Chức năng của ADB là hỗ trợ sự tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng,
phát triển xã hội, quản lý kinh tế tốt.
Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững và công bằng: tăng trưởng kinh tế
không tự nhiên có tính bền vững và thường làm gia tăng mất công bằng. Để tăng
trưởng bền vững và công bằng, cần có sự can thiệp trong khi vẫn đảm bảo một sự
phát triển thân thiện với thị trường.

Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Phát triển xã hội: giúp đỡ các cá nhân, nhóm, cộng đồng để giảm thiểu những
rủi ro trong quá trình phát triển kinh tế.

Quản lý kinh tế tốt: thực hiện các chính sách kinh tế một cách có trách nhiệm,
có sự tham gia, có khả năng dự đoán, và minh bạch, chống tham nhũng.
4.4.Mục tiêu hoạt động
Để thực hiện được chức năng nói trên, ADB đề ra các mục tiêu cho hoạt động
của mình, bao gồm: bảo vệ môi trường, hỗ trợ giới và phát triển, phát triển khu vực tư
nhân, hỗ trợ hợp tác khu vực.
Bảo vệ môi trường: người nghèo ở thường bị buộc phải sống ở những khu vực
có điều kiện môi trường bất lợi. Muốn xóa nghèo thì phải bảo vệ môi trường.
Hỗ trợ giới: ở nhiều nước, phần lớn người nghèo là phụ nữ. Hỗ trợ phụ nữ phát
triển là một biện pháp xóa nghèo.
Hỗ trợ khu vực tư nhân: khuyến khích cải cách và hoàn thiện môi trường
chính sách để tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân, hỗ trợ sự hợp tác giữa khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân, cho vay và hỗ trợ kỹ thuật cho các xí nghiệp tư nhân và thể
chế tài chính tư nhân
Khuyến khích hợp tác và liên kết khu vực: khuyến khích sự hợp tác giữa
các chính phủ để phát triển cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, thúc đẩy thương
mại và đầu tư,...
III. VIỆT NAM VỚI CÁC THỂ CHẾ KINH TẾ QUỐC TẾ
1.Việt Nam và WTO
1.1.Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO
Từ đầu những năm 90 Việt Nam đã bắt đầu quá trình tham gia vào nền kinh tế
thế giới
- 1-1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO. Ban Công tác xem xét việc
gia nhập của Việt Nam được thành lập với Chủ tịch là ông Eirik Glenne, Đại sứ Na
Uy tại WTO (riêng từ 1998–2004, Chủ tịch là ông Seung Ho, Hàn Quốc)
- 8-1996: Việt Nam nộp “Bị vong lục về chính sách thương mại”
- 1996: Bắt đầu đàm phán Hiệp định Thương mại song phương với Hoa kỳ
(BTA)
- 1998 - 2000: Tiến hành 4 phiên họp đa phương với Ban Công tác về Minh
bạch hóa các chính sách thương mại vào tháng 7-1998, 12-1998, 7-1999, và 11-2000.

Kết thúc 4 phiên họp, Ban công tác của WTO đã công nhận Việt Nam cơ bản kết thúc
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

quá trình minh bạch hóa chính sách và chuyển sang giai đoạn đàm phán mở cửa thị
trường.
- 7-2000: ký kết chính thức BTA với Hoa Kỳ
- 12-2001: BTA có hiệu lực
- 4-2002: Tiến hành phiên họp đa phương thứ 5 với Ban Công tác. Việt Nam
đưa ra Bản chào đầu tiên về hàng hóa và dịch vụ. Bắt đầu tiến hành đàm phán song
phương.
- 2002 – 2006: Đàm phán song phương với một số thành viên có yêu cầu đàm
phán, với 2 mốc quan trọng:
- 10-2004: Kết thúc đàm phán song phương với EU - đối tác lớn nhất
- 5-2006: Kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ - đối tác cuối cùng trong
28 đối tác có yêu cầu đàm phán song phương.
-26-10-2006: Kết thúc phiên đàm phán đa phương cuối cùng, Ban Công tác
chính thức thông qua toàn bộ hồ sơ gia nhập WTO của Việt Nam. Tổng cộng đã có 14
phiên họp đa phương từ tháng 7-1998 đến tháng 10-2006.
- 7-11-2006: WTO triệu tập phiên họp đặc biệt của Đại Hội đồng tại Geneva để
chính thức kết nạp Việt Nam vào WTO. Ngày 7/11/2006, Bộ trưởng Thương mại
Trương Đình Tuyển và Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Pascal
Lamy đã ký vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam kết thúc 11 năm tiến hành hàng
loạt các cuộc đàm phán song phương, đa phương và tham vấn kể từ khi đệ đơn gia
nhập vào năm 1995.
-11-1-2007 WTO nhận được được quyết định phê chuẩn chính thức của Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam. Kể từ đây, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của
WTO.

Lí do gia nhập WTO của Việt Nam cũng như của phần lớn các nước đang phát
triển khác là để có động lực thúc đẩy xuất khẩu do phải cải thiện các điều kiện tham
gia vào thị trường quốc tế. Cùng với việc mở rộng doanh số hàng nông sản và dệt
may, Việt Nam cũng hi vọng thu hút thêm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một lợi
ích quan trọng nữa đối với Việt Nam, nhất là sau một số vụ kiện bán phá giá tại Hoa
Kỳ (cá da trơn, tôm) và EU (xe đạp), chính là việc tiếp cận với cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO. Sau cùng, việc gia nhập cũng sẽ tạo ra động lực mạnh hơn cho những
cải cách trong nước tiếp theo về định hướng thị trường
1.2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

*Cơ hội
Một là: khi gia nhập WTO, Việt Nam được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch
vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các
ngành dịch vụ, không bị phân biệt đối xử.
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải
thiện.
Ba là: Gia nhập WTO, Việt Nam có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo
vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp.
Bốn là: Việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy
tiến trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của Việt Nam đồng bộ
hơn, có hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm Đổi

mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện
cho Việt Nam triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại.
*Thách thức
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều "đối thủ" hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn.
Hai là: Trên thế giới sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc
gia, sự "phân phối" lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được hưởng lợi
ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ
phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu nghèo sẽ mạnh
hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải
quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát
triển".
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị trường chưa
nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
1.3.Kinh tế Việt Nam sau 8 năm gia nhập WTO
Từ ngày 11.1.2007, việc trở thành thành viên WTO đã giúp Việt Nam mở rộng
thị trường xuất khẩu, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, góp phần đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao 7,13%.

Xếp hạng của WTO về xuất, nhập khẩu của Việt Nam tăng so với thời điểm gia
nhập WTO, cụ thể: xuất khẩu hàng hóa năm 2007 xếp thứ 50 thì năm 2014 xếp thứ
34; nhập khẩu hàng hóa năm 2007 xếp thứ 41 thì năm 2014 xếp thứ 32. Xuất khẩu,
nhập khẩu dịch vụ năm 2007 xếp thứ 59 thì năm 2013 xếp thứ 54. Kim ngạch xuất
khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đều tăng mạnh. Xuất khẩu hàng hóa năm 2014 là
150,19 tỷ USD gấp 3,09 lần so với năm 2007; mức bình quân năm giai đoạn 20072014 là 91,78 tỷ USD gấp 3,66 lần so với mức bình quân năm giai đoạn 2001-2006.
Nhập khẩu hàng hóa năm 2014 là 148,05 tỷ USD gấp 2,36 lần so với năm 2007; mức
bình quân năm giai đoạn 2007-2014 là 99,85 tỷ USD gấp 3,42 lần so với mức bình
quân năm giai đoạn 2001-2006.
Sau khi gia nhập WTO, quan hệ kinh tế đối ngoại được tăng cường. Theo báo
cáo của Chính phủ, đến nay Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 230 nước, vùng
lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu được đa dạng hóa, mở rộng từ ASEAN sang các nước
khác ở Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ và bước đầu phát triển sang thị trường Châu Phi.
Một số nước, vùng lãnh thổ là thị trường xuất khẩu hàng hóa quan trọng của Việt
Nam, gồm ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Châu Âu. Đây cũng là những
thị trường Việt Nam đã và đang đàm phán ký kết các FTA. Trong giai đoạn 20072014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vào các thị trường trọng điểm, đặc biệt là các thị
trường có FTA đều đạt mức tăng trưởng cao. Xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ,
ASEAN, EU, Trung Quốc tăng mạnh.
Việc mở rộng thị trường nhập khẩu đã tạo cơ hội cho người tiêu dùng, nhà sản
xuất trong nước được tiếp cận với nhiều chủng loại hàng hóa đa dạng hơn, từ nhiều
thị trường khác nhau, tiếp cận với nguyên liệu, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng và giá
cạnh tranh hơn. Trong giai đoạn 2007-2014, châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu chủ
yếu của các doanh nghiệp Việt Nam, sau đó đến các thị trường ở Châu Âu, Châu Mỹ,
Châu Đại Dương và Châu Phi.
Tuy nhiên, khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với
những yêu cầu, tiêu chuẩn cao về chất lượng hàng hóa, chịu sức ép phải tuân thủ các
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học


điều khoản quy định về vệ sinh, môi trường, lao động và quy trình công nghệ… của
các đối tác. Đây vừa là cơ hội để tự nâng cao năng lực, vừa là thách thức vì đa số
doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, thiếu công nghệ, vốn và kinh
nghiệm, quản trị và quy trình sản xuất chưa hiện đại.
Thị trường lao động ngày càng phát triển gắn với hoạt động đầu tư, sản xuất,
kinh doanh. Các hoạt động thông tin, dự báo thị trường lao động được triển khai đồng
bộ; cập nhật thường xuyên tình hình thị trường lao động trên cổng thông tin điện tử
việc làm; dự báo cung-cầu lao động ở các địa phương. Hệ thống các Trung tâm dịch
vụ việc làm ngày càng nhiều, các địa phương đã tổ chức các sàn giao dịch vệ tinh, lưu
động và các ngày hội tư vấn, giới thiệu việc làm. Trong giai đoạn 2007-2014, cả nước
tạo việc làm cho 12,613 triệu lao động. Trong đó, năm 2007: 1,68 triệu, năm 2008:
1,615 triệu, năm 2009: 1,51 triệu, năm 2010: 1,610 triệu, năm 2011: 1,538, năm 2012:
1,52 triệu; năm 2013: 1,54 triệu, năm 2014: 1,6 triệu.
Thị trường lao động làm việc nước ngoài được củng cố và phát triển, một số thị
trường trọng điểm như Đài Loan, Nhật Bản; một số địa phương có số lao động nước
ngoài nhiều như Nghệ An, Thanh Hóa, Hải Dương, Hà Tĩnh, Bắc Giang, Phú Thọ. Từ
năm 2007 đến nay, cả nước có trên 694.000 lao động làm việc ở nước ngoài, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, đóng góp tích cực vào gia tăng dự trữ ngoại hối qua con
đường kiều hối.
Tuy nhiên, lĩnh vực lao động, việc làm có một số hạn chế nhất định. Thị trường
lao động phát triển chưa đồng bộ, cung-cầu lao động diễn ra tình trạng mất cân đối
cục bộ từng địa phương, nhất là các khu công nghiệp phía nam. Nguồn lao động làm
việc ở nước ngoài hạn chế cả về chất lượng và tay nghề, ngoại ngữ và ý thức tổ chức
kỷ luật. Nhiều doanh nghiệp vi phạm các quy định của pháp luật lao động, tạo nguy
cơ tiềm ẩn tranh chấp lao động và đình công (70% số cuộc đình công xảy ra trong
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã
hội diễn ra ở nhiều doanh nghiệp, ở tất cả các địa phương. Dạy nghề cho lao động
nông thôn để chuyển dịch sang khu vực công nghiệp và dịch vụ còn chậm, chưa phù
hợp với đặc điểm, yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội và đặc điểm lao động,việc làm

của địa phương, hiệu quả còn thấp. Tình trạng mất cân đối cơ cấu ngành nghề đào tạo,
giữa các vùng miền chậm được khắc phục.
2.Việt Nam và Ngân hàng thế giới WB
2.1.Khái quát quá trình Việt Nam gia nhập WB

Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam đã gia nhập WB. Ngày
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính
quyền Sài Gòn cũ. Cổ phần của Việt nam tại WB được phân bổ như sau:
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,07%;
+ IDA với tổng số phiếu bầu là 61.168, chiếm 0,3%;
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%;
+ MIGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 629, chiếm 0,29%;
Trong WB, Việt Nam thuộc Nhóm nước Đông Nam Á gồm 11 nước là
Brunây, Fiji, Inđônêxia, Lào, Malaysia, Myanma, Nêpan, Singapore, Thái lan, Tông
ga và Việt Nam
Sau một thời gian dài gián đoạn (tư 1978-1993), Việt Nam chính thức nối lại
quan hệ với WB vào tháng 10/1993. Từ đó đến nay, mối quan hệ Việt Nam – WB ngày
càng được tăng cường và phát triển mạnh mẽ. Trong thời gian này, nhiều Đoàn cán bộ
cấp cao của WB đã sang thăm và làm việc tại Việt Nam để trao đổi với Chính phủ về
tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và tìm hiểu nhu cầu hỗ trợ giúp của
Chính phủ. Ban Giám đốc Điều hành của WB cũng cam kết sẽ tiếp tục cung cấp những
hỗ trợ cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của Chính phủ, góp phần hỗ trợ Việt nam thực
hiện thành công Chương trình Xoá đói Giảm nghèo và Phát triển Kinh tế Xã hội. Kể từ
năm 1993 đến nay, mức cam kết cho Việt Nam ngày càng tăng. Hiện nay, Việt Nam là
một trong những nước vay ưu đãi lớn nhất từ IDA.

Bên cạnh nguồn vốn vay ưu đãi IDA, Việt Nam bắt đầu triển khai vay vốn từ
nguồn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) từ năm 2009. Như vậy, kể từ
năm 2009, Việt Nam đã trở thành nước vay hỗn hợp từ WB (tức là vừa vay từ nguồn
IBRD và từ nguồn IDA).
Vừa qua, WB đã thông qua Nghị quyết về điều chỉnh thời hạn vay IDA của các
nước vay hỗn hợp, trong đó có Việt Nam, theo đó, thời hạn vay sẽ giảm từ 35 năm với
10 năm ân hạn, không có lãi suất, phí dịch vụ 0,75%/năm tính trên số vốn đã rút và
phí cam kết tối đa là 0,5%/năm tính trên số vốn chưa rút xuống còn 25 năm với 5 năm
ân hạn, lãi suất 1,25% (phí dịch vụ và phí cam kết vẫn giữ nguyên).
Văn phòng đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức
mở Văn phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm nhiều cán bộ giữ
chức vụ Giám đốc Văn phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997),
ông Andrew Steer (1997-2002), ông Klaus Rohland (2002 – 2007), ông Ajay Chibber
(2007 – 2009) và hiện nay là Bà Victoria Kwakwa.
2.2.Một số hoạt động cuả WB tại Việt Nam
* Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS)
Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CPS) giai đoạn 2012 – 2016 là Chiến lược hỗ trợ
đầu tiên của WB dành cho Việt Nam kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành quốc
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

gia có thu nhập trung bình thấp. Đây là Chiến lược được WB xây dựng để hỗ trợ
Chính phủ Việt Nam thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 –
2015. Nội dung CPS lần này của WB tập trung chủ yếu vào hỗ trợ Chính phủ thực
hiện các nội dung bao gồm: (i) tăng khả năng cạnh tranhcủa Việt Nam; (ii) tăng
tính bền vững của quá trình phát triển; và (iii) mở rộng điều kiện tiếp cận các cơ
hội kinh tế và xã hội. Đây là những nội dung mà Chính phủ Việt Nam cho rằng là phù
hợp với các nội dung đột phá của Kế hoạch Phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2015 của

Việt Nam (Tăng cường nền tảng thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng và con người).
* Tài trợ cho các chương trình/dự án:
Tính đến tháng 2 năm 2012, các khoản cam kết tài chính của Ngân hàng Thế
giới cho Việt Nam (bao gồm cả IBRD và IDA) trị giá gần 15 tỷ USD cho 111 dự
án.Các khoản tín dụng này tập trung vàolĩnh vực cơ sở hạ tầng, bao gồm giao thông
và phát triển đô thị, phát triển nông thôn, năng lượng, quản lý tài nguyên nước, cải
cách hành chính công, tài chính, giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội, và môi trường.
Chỉ tính riêng trong tài khoá năm 2011 (tính từ tháng 7/2010 đến 30/6/2011),
WB tài trợ cho Việt Nam tổng số tiền là 2.348 tỷ USD cho 13 chương trình/dự án
(trong đó: vay từ nguồn IBRD là 1,081 IBRD; vay từ nguồn IDA là 1,267).
Đối với tài khoá 2012 (bắt đầu từ 01/7/2011 đến 30-6/2012), WB đã cam kết tài
trợ cho Việt Nam tổng số tiền 2,197 tỷ USD (trong đó: 1,597 tỷ USD từ nguồn IDA; và
600 triệu USD từ nguồn IBRD) (trong Tài khoá 2012 này, Việt Nam vẫn tiếp tục là một
trong những nước được phân bổ nhiều nguồn vốn vay từ IDA). Trong tổng số vốn cam
kết này, tính đến tháng 11/2011, ta đã đàm phán với WB 02 dự án với tổng trị giá 307
triệu USD. Dự kiến, số vốn còn lại sẽ được đàm phán với WB trong thời gian từ nay
đến tháng 6/2012.
* Hỗ trợ kỹ thuật và các báo cáo:
Các hỗ trợ kỹ thuật của WB dành cho Việt Nam tập trung vào các lĩnh vực như:
hỗ trợ chuẩn bị và xây dựng các dự án do WB tài trợ, phát triển thể chế nhằm xây dựng
và nâng cao năng lực quản lý điều hành của một số ngành và cơ quan liên quan đến dự
án, xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao khuôn khổ chính sách, pháp lý cho
các dự án hạ tầng cơ sở...
Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt Nam phối hợp với các
Bộ/ngành soạn thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến
lược Đối tác Quốc gia (CPS). Đặc biệt, trong thời gian qua WB đã phối hợp với các
quan hữu quan của Việt Nam hoàn thành dự thảo Chiến lược Đối tác Quốc gia, làm
cơ sở cho các hoạt động hợp tác cho giai đoạn (2011-2015). Theo dự kiến văn bản
này sẽ được Ban Lãnh đạo WB thông qua vào ngày 15/12/2011.
Ngoài ra, vừa qua, WB đã cam kết sẽ phối phối hợp với IMF để hỗ trợ Việt

Nam thực hiện Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP) để giúp Việt Nam
đánh giá tổng thể khu vực tài chính, từ đó có kế hoạch tăng cường năng lực nhằm đáp
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

ứng với nhu cầu của sự phát triển kinh tế. Trong thời gian tới, WB/IMF sẽ phối hợp
với Việt Nam tiến hành các công việc cần thiết để xây dựng Chương trình và chuẩn bị
cho quá trình thực hiện (dự kiến triển khai vào cuối năm 2012).
* Tư vấn chính sách:
Trong thời gian qua WB còn hỗ trợ Việt Nam trong việc đưa ra tư vấn về chính
sách giúp Việt Nam hoàn thiện khuôn khổ thể chế trên mọi lĩnh vực và giúp Việt Nam
ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
* Điều phối các nhà tài trợ:
Hàng năm, Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (CG) do WB đồng chủ
tọa được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và
điều phối viện trợ giữa các nhà tài trợ cho Việt Nam. Đây là một diễn đàn giữa Chính
phủ Việt Nam và đại diện của khoảng 50 các nhà tài trợ song phương và đa phương
cho Việt nam. Các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và quốc tế, các đại diện của Diễn
đàn doanh nghiệp Việt Nam tham gia Hội nghị với tư cách quan sát viên. Hội nghị
CG được tổ chức 2 lần/năm: Hội nghị chính thức thường được tổ chức vào tháng 12
hàng năm tại Hà nội. Hội nghị không chính thức giữa kỳ được tổ chức vào tháng 5
hoặc tháng 6 hàng năm.
* Hài hoà hoá thủ tục:
WB là một trong những nhà tài trợ đi tiên phong trong việc thực hiện Cam kết
Hà Nội bằng cách tăng cường tài trợ thông qua các phương thức tiếp cận chương
trình, ngành, quốc gia. Cách tiếp cận chương trình có những đặc tính sau: (i) Vai trò
lãnh đạo của nước tiếp nhận, (ii) Chương trình tổng hợp và khung ngân sách duy nhất,
(iii) Quá trình phối hợp tài trợ và hài hoà thủ tục và (iv) Nỗ lực sử dụng nhiều hơn

quy trình và quy định của Chính phủ trong toàn bộ chu trình. Các phương thức cung
cấp hỗ trợ của WB ở Việt Nam trong tương lai sẽ bao gồm dự án, chương trình, hỗ trợ
ngân sách chung và hỗ trợ ngân sách có mục tiêu nhằm khuyến khích nâng cao hiệu
quả và hiệu lực của việc cung cấp vốn vay.
Trong thời gian qua, WB cũng tích cực phối hợp với Chính phủ và 5 Ngân hàng
trong việc rà soát, đánh giá và triển khai các sáng kiến hài hoà, đơn giản hoá thủ tục
nhằm hướng tới việc đẩy nhanh giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn của các dự án
ODA.
* Các chương trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp của WB cho Việt Nam:
Trong thời gian qua, WB đã tài trợ cho Việt Nam một số các chương trình hỗ trợ
ngân sách lớn như Chương trình Tín dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC) và Chương trình
Cải cách Đầu tư công (PIR). Cụ thể:
- Về Chương trình PRSC: là chương trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp hàng năm
của WB cho Việt Nam. Chương trình này được bắt đầu thực hiện từ năm 2011 và tập
trung vào các hành động cải cách chính sách trên diện rộng đối với toàn bộ nền kinh
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị


Tiểu luận Triết học

tế. Cho tới nay, WB đã hỗ trợ cho Việt Nam 10 Chương trình PRSC với tổng vốn vay
ưu đãi gần 2 tỷ USD; tổng số vốn đồng tài trợ từ các nhà tài trợ là hơn 1 tỷ USD.
Toàn bộ số vốn này đã được giải ngân và chuyển vào ngân sách nhà nước để thực
hiện đầu tư theo quy trình thủ tục trong nước. Chương trình PRSC sẽ kết thúc sau khi
hoàn tất Chương trình PRSC 10 (vào cuối năm 2011).
- Về Chương trình Hậu PRSC (Chương trình EMCC): Ngày 27/12/2010, Văn
phòng Chính phủ đã có công văn số 9392/VPCP-QHQT về việc đồng ý về chủ trương
các Bộ, ngành phối hợp với WB để thiết kế và xây dựng Chương trình Hậu PRSC
theo phương án “Mô hình Chương trình Chính sách phát triển đa ngành với phạm vi
hẹp hơn” để triển khai sau khi kết thúc Chương trình PRSC 10. Trong thời gian qua,

NHNN đã phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để thảo luận với WB về các nội dung
liên quan đến Chương trình (gồm: mục tiêu, thiết kế Chương trình, cơ chế tổ chức
thực hiện...).
- Về Chương trình Cải cách Đầu tư công (PIR): Chương trình PIR gồm 02
khoản vay với tổng trị giá 850 triệu USD có mục tiêu hỗ trợ Chính phủ cải thiện chất
lượng và hiệu quả hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư công ở Việt Nam, qua đó góp
phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình dự án vay vốn các nhà tài trợ.
Khoản vay này còn đặc biệt quan trọng vì đây là khoản vay khẩn cấp được WB cung
cấp trong bối cảnh khung hoảng tài chính toàn cầu nhằm giúp Việt Nam đối phó với
khủng hoảng và chống suy giảm kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã hoàn thành các điều
kiện của Chương trình và rút toàn bộ số vốn trị giá 850 triệu USD.
Ngoài các chương trình lớn nói trên, WB còn hỗ trợ Việt Nam nhiều chương
trình hỗ trợ ngân sách trực tiếp khác nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện các Chương
trình Mục tiêu Quốc gia như: Chương trình 135 giai đoạn 2, Chương trình Mục tiêu
Quốc gia Giáo dục cho mọi người, Chương trình cải cách ngành điện.....
Nhìn chung, các khoản vay này đã hỗ trợ việc thực hiện cải kinh tế Việt Nam;
đồng thời góp phần giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ của ngân sách nhà nước cũng
như tăng dự trữ ngoại hối của nhà nước.
* Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính (FSAP)
Nhằm hỗ trợ các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia hội viên của
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tăng cường sự ổn định và
phát triển của khu vực tài chính của mình, từ đó góp phần vào sự ổn định và phát triển
của khu vực tài chính trên toàn cầu, từ năm 1999, WB và IMF đã khởi xướng và phối
hợp với các nước hội viên thực hiện Chương trình Đánh giá Khu vực Tài chính
(FSAP). Đây là dịp để các quốc gia tiến hành rà soát tổng thể khu vực tài chính của
mình nhằm tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu để đưa ra định hướng điều chỉnh chính
sách phù hợp; đồng thời đưa trên những đánh giá này, xây dựng nhu cầu tăng cường
năng lực nhằm đảm bảo xây dựng được một hệ thống tài chính đủ mạnh, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nguyễn Thị Nga, chuyên ngành Kinh tế chính trị



×