Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Tư tưởng học đi đôi với hành của hồ chí minh và sự vận dụng tư tưởng này ở một số trường đại học việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 175 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ VĂN MƯỜI

TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA
HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG NÀY Ở MỘT SỐ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: CNDVBC & CNDVLS
: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hồ Việt Hạnh

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả cam đoan luận án này là do bản thân
tự thực hiện và không sao chép các công trình
nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của
riêng mình. Các thông tin thứ cấp sử dụng trong
luận án là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác
thực và nguyên bản của luận án.


Tác giả luận án

Lê Văn Mười


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

7

1.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục…………….........

7

1.2. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành, lý luận
gắn liền với thực tiễn…………………………………………………..................

10

1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng, giải pháp nâng cao
hiệu quả vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh ở một số trường
Đại học Việt Nam……………………………………………………………………..

12

1.4. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án……………….


24

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA HỒ CHÍ MINH: CƠ
SỞ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU …………..

27

2.1. Cơ sở hình thành tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh……………......

27

2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành …………………...……...

42

Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA HỒ CHÍ
MINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA …………………...

64

3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh ở một số
trường đại học Việt Nam hiện nay……………………………………………………...

64

3.2. Một số vấn đề đặt ra………………………………………………………………..

103


Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỌC ĐI ĐÔI VỚI HÀNH CỦA HỒ
CHÍ MINH Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VIỆT NAM …………

116

4.1. Phương hướng……………………………………………………………………...

116

4.2. Giải pháp…………………………………………………………………………...

122

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….

156

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ…………………

159

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….......

160


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nước ta đã gặt hái được nhiều thành công trên mọi phương diện của đời
sống xã hội; đời sống người dân ngày càng được cải thiện, uy tín quốc gia ngày
càng nâng cao. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể những thành công và kết quả đó
chưa ngang tầm với tiềm năng chúng ta đang có. Trong số những vấn đề cấp
bách hiện nay phải kể đến vấn đề giáo dục.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa
XI (tháng 10-2012), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (11-2013),
Đảng ta đã nêu ra những phương hướng cơ bản về đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục: giáo dục là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
của toàn dân; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; giáo dục phải có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần
quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam;
cần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục (từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến
mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực
hiện, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của
các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và
bản thân người học, đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học); trong quá trình đổi
mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tích
cực, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới, kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc; đổi mới giáo dục phải bảo đảm tính hệ
thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải
pháp đổi mới giáo dục phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình,
bước đi phù hợp; đổi mới giáo dục phải theo nhu cầu phát triển của xã hội, theo

1



hướng nâng cao chất lượng, theo hướng hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và
điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Tiếp tục ở Đại hội Đảng
lần thứ XII, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, xác định đây là một kế sách, quốc sách
hàng đầu, tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý
nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Trong số các nhiệm vụ được đề cập tới tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII (tháng 5/2017) là hoàn thiện thể chế về phát
triển và ứng dụng khoa học - công nghệ, về giáo dục - đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao để tranh thủ những thành tựu
của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi mới mô hình tăng trưởng,
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Để đổi mới căn bản về giáo dục ở nước ta hiện nay theo chủ trương của
Đảng, chúng ta cần nhận thức sâu sắc và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục. Hồ Chí Minh khẳng định giáo dục là một trong những phương tiện
quan trọng nhất để nâng cao năng lực và phẩm chất của con người, mà trước
hết là nâng cao lòng yêu nước và hoàn thiện nhân cách. Giáo dục là một mặt
trận quan trọng, không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến
kinh tế - văn hóa. Hồ Chí Minh xem dốt nát là giặc vì nó cản trở việc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, phá hoại hạnh phúc của nhân dân. Trong chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của cách mạng, Người đặc biệt quan tâm tới giáo dục,
công việc và cuộc sống của các thầy giáo, cô giáo. Hồ Chí Minh để lại cho
chúng ta một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về giáo dục và đào tạo, về
vai trò, vị trí của giáo dục; mục đích của giáo dục; nhiệm vụ của giáo dục; nội
dung, phương pháp của giáo dục. Di sản đồ sộ đó có thể coi là triết lý Hồ Chí
Minh về giáo dục. Trong tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh, tư tưởng học đi


2


đôi với hành chiếm một vị trí quan trọng. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu” 121, tr.7, “học phải đi đôi với hành”, “lý luận phải gắn với
thực tiễn”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người viết: “Một người học
xong đại học, có thể gọi là có tri thức. Song y không biết cày ruộng, không biết
làm công, không biết đánh giặc, không biết làm việc khác. Nói tóm lại: công
việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa” 122, tr.275,
điều này có thể hiểu một sinh viên sau tốt nghiệp đại học không chỉ ôm đồm mớ
kiến thức khô khan tham gia vào thị trường lao động mà bản thân anh ta phải học
và tự trang bị những tri thức, kỹ năng cần thiết để sẵn sàng tham gia vào thị
trường lao động. Để làm được điều đó, theo Người lý luận phải đem ra thực
hành, thực hành phải nhằm theo lý luận, lý luận cốt là để áp dụng vào thực tế.
Chỉ học thuộc lòng để lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Hồ Chí Minh phê
phán những người có học đại học nhưng xa rời thực tiễn, xa rời những đòi hỏi
cấp bách của xã hội ở những năm sau cách mạng tháng 8 năm 1945 và hiện nay
nhưng nội dung này vẫn còn nguyên tính thời sự. Bởi vì, chất lượng giáo dục
nước ta hiện nay còn thấp, số lượng sinh viên ra trường thất nghiệp nhiều, điều
này có một phần nguyên nhân ở sự xa rời tư tưởng học đi đôi với hành mà Hồ
Chí Minh nói ở trên.
Chính vì thế, đi sâu tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực của quan điểm
Hồ Chí Minh về “học đi đôi với hành” có ý nghĩa chiến lược trong định hướng
lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn giáo dục, đào tạo ở các trường học nói
chung, một số trường Đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay nói riêng.
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, trong đó có tư tưởng học đi
đôi với hành, là việc làm có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết trong đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục ở nước ta hiện nay. Với lý do đó tôi chọn đề tài “Tư
tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng này ở
một số trường đại học Việt Nam hiện nay” làm luận án Tiến sĩ của mình.


3


2. Mục đích, nhiệm vụ
2.1. Mục đích
Luận án phân tích cơ sở hình thành, nội dung tư tưởng của Hồ Chí Minh
về học đi đôi với hành, đánh giá thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành trong công
tác giáo dục, nhằm mục đích đào tạo những cá nhân thành đạt, công dân có trách
nhiệm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế ở một số
trường Đại học khối kỹ thuật Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
Thứ hai: Phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ
Chí Minh ở một số trường đại học khối kỹ thuật hiện nay và một số vấn đề đặt ra
nhằm đào tạo ra lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Thứ ba: Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi với hành ở một số trường
Đại học khối kỹ thuật Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh và thực trạng vận
dụng tư tưởng này ở một số trường đại học thuộc khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện
nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ
Chí Minh và vận dụng vào một số trường Đại học ở Việt Nam hiện nay
- Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu ở một số trường đại học

thuộc khối kỹ thuật (Đại học Giao thông vận tải, Đại học Kiến trúc Hà Nội, Đại
học Thủy Lợi, Đại học Công nghiệp Hà Nội) ở Việt Nam chủ yếu từ năm 1996
đến nay.

4


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm, đường lối, chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để phân tích, lý giải, làm rõ các vấn đề, trong đó có kết hợp các phương
pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp
điều tra, so sánh… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đã đặt ra.
5. Những đóng góp về mặt khoa học của luận án
- Phân tích một cách hệ thống tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí
Minh.

- Làm rõ thêm mặt tích cực và mặt hạn chế của việc vận dụng tư tưởng
học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh và chỉ ra một số mâu thuẫn trong công
tác giáo dục – đào tạo ở một số trường đại học khối kỹ thuật ở Việt Nam hiện
nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư
tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh ở một số trường Đại học khối kỹ
thuật Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Luận án góp phần phân tích một cách hệ thống về tư tưởng học đi đôi với
hành của Hồ Chí Minh; cung cấp cơ sở khoa học cho việc đổi mới giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo trong
việc đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục ở các trường đại học
Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo, giảng dạy và tuyên truyền cho các
giảng viên, nhà quản lý giáo dục và sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng ở
Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương 11 tiết.

6


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Hiện đã có rất nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục và vận dụng tư tưởng này trong chỉ đạo trực tiếp hoạt động ở các trường đại
học. Tiêu biểu có các công trình sau.
Cuốn “Hồ Chủ Tịch bàn về giáo dục” (1962), Nxb Giáo dục. Đây là tài
liệu đã thống kê được khá sớm và tương đối đầy đủ về những bài viết ngắn, những

bài nói chuyện, các bức thư của Người liên quan đến vấn đề giáo dục nói chung.
Cuốn “Hồ Chủ tịch nhà giáo dục vĩ đại” (1990) của Nguyễn Lân, Nxb
Khoa học xã hội. Tác giả đã tập hợp những chỉ thị, những lá thư, những phát biểu
của Hồ Chí Minh về giáo dục. Nội dung cuốn sách trình bày và phân tích những ý
kiến lớn của Hồ Chí Minh về giáo dục. Theo tác giả, những ý kiến ấy của Hồ Chí
Minh về giáo dục là cương lĩnh cho toàn ngành giáo dục, là cơ sở lý luận và thực
tiễn của nền giáo dục dân tộc, dân chủ, khoa học, tiến bộ, một thứ cẩm nang cho
mỗi người làm giáo dục của chúng ta. Người luôn theo dõi, khuyến khích, uốn nắn
những hoạt động giáo dục, vạch ra những con đường xây dựng nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa.
Cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện” của PGS,TS Thành Duy, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001. Cuốn sách đã viết về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh – một trong những
biện pháp để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Cuốn“Phát triển giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI
theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (2002) do Nguyễn Thị Nga chủ biên, Nxb Chính trị
quốc gia. Tác giả phân tích khái quát tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục
trên những khía cạnh như mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục. Tác giả khẳng
định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục không chỉ là ánh sáng soi đường, kim
chỉ nam cho chiến lược phát triển con người, phát triển giáo dục ở Việt Nam mấy

7


chục năm qua, mà còn là định hướng cơ bản đối với việc đổi mới, chấn hưng và
phát triển nền giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” (2005) của nhóm tác giả
Đào Thanh Hải và Minh Tiến, Nxb Lao Động. Công trình này thống kê các bài viết
của Hồ Chí Minh liên quan tới vấn đề giáo dục. Cuốn sách được chia làm ba phần.
Phần thứ nhất là những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của giáo dục và

đào tạo nước ta. Phần thứ hai là những tư tưởng của Hồ Chí Minh về phát triển của
nền giáo dục của chế độ mới. Phần thứ ba là những tư tưởng của Hồ Chí Minh về
tầm quan trọng của giáo dục- đào tạo đối với sự phát triển của đất nước. Theo tác
giả, những bài viết của Người là nhằm chỉ đạo trực tiếp các hoạt động giáo dục của
nước ta (trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược) và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc.
Cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” của TS Lê Văn Yên. Nxb Lao
động, 2006. Cuốn sách gồm 3 phần: Phần 1, Tư tưởng Hồ Chí Minh – Tài sản quý
giá của Đảng và dân tộc; Phần 2, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
nền giáo dục Việt Nam; Phần 3, Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả tập hợp khá
đầy đủ các bài viết quan trọng của các nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước,
các nhà tư tưởng, nhà giáo dục, chuyên gia – một tập tư liệu quý để giúp nghiên
cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới giáo dục
nước ta hiện nay. Trong đó, trực tiếp bàn về phương pháp giáo dục có bài “Hoàn
cảnh, điều kiện hình thành tư tưởng và phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh”
của GS Đinh Xuân Lâm; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục” của
TS Vũ Văn Gầu – TS Nguyễn Anh Quốc.
Cuốn: “Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục” của PGS,TS Nguyễn Khánh Bật chủ
biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007. Cuốn sách gồm 5 phần tập hợp những thư, điện
của Hồ Chí Minh gửi ngành giáo dục; những bài nói, bài viết của Người về giáo
dục; biên niên hoạt động của Người về giáo dục.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên (2008) của Đoàn Nam
Đàn, Nxb Chính trị Quốc gia. Nội dung của cuốn sách nói về nguồn gốc, quá trình

8


hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên và vận dụng, phát triển tư
tưởng này trong giáo dục thanh niên ở nước ta hiện nay. Theo tác giả, Hồ Chí Minh

luôn coi việc bồi dưỡng thế hệ cho cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết; Hồ Chí Minh luôn yêu cầu Đảng phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Cuốn: “Hồ Chí Minh về giáo dục – toàn thư” của Nghiêm Đình Vỳ, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội, 2008. Cuốn sách đã tập hợp những bài nói, bài viết của
chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến mọi lĩnh vực của công tác giáo dục, bao gồm:
Giáo dục trong nhà trường cho thế hệ trẻ - Từ xác định mục tiêu giáo dục, nội dung
và phương pháp giáo dục đến những quan điểm lớn về xây dựng một nền giáo dục
cách mạng, tiên tiến; giáo dục mọi công dân trên các lĩnh vực công tác, trong tổ
chức xã hội, đoàn thể khác nhau.
Cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện” của
Nguyễn Hữu Công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Cuốn sách dành một nội
dung đề cập về quan điểm giáo dục, đào tạo toàn diện của Hồ Chí Minh, với ý nghĩa
là một trong những con đường phát triển con người toàn diện.
Cuốn “Quan điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục” (2011),
Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật. Tác giả cho rằng, Hồ Chí Minh luôn luôn nhất
quán phương châm “cách mạng là giáo dục và giáo dục là cách mạng”, giáo dục
phải thấm nhuần tinh thần dân chủ.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục” do GS,TS Phan Ngọc Liên và
TS Bùi Thu Hà biên soạn, tuyển chọn, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2012. Cuốn
sách tuyển chọn những bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh về giáo dục và phân tích,
làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển và nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về giáo dục.
Cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng
viên đại học hiện nay” do Ngô Hà chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà
Nội (2013). Tác giả phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của người thầy.
Cuốn sách được chia ra làm ba nội dung. Trong Chương I “Khái lược tư tưởng Hồ

9



Chí Minh về người thầy giáo”, tác giả phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò,
đạo đức của thầy giáo; về phương pháp giảng dạy của người thầy và đặc biệt về
trọng dụng tri thức – nhân tài. Trong Chương II, tác giả phân tích về đội ngũ giảng
viên đại học trong những năm đầu thế kỷ XXI, thành tựu và những hạn chế mà đội
ngũ giảng viên đại học đóng góp. Bên cạnh đó tác giả đi vào nghiên cứu sự tác động
của xã hội và điều kiện thu nhập của giảng viên tới công tác trồng người. Trong
Chương III, tác giả phân tích sự vận dụng tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh về người
thầy trong việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học trong giai đoạn hiện nay.

1.2. Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về học đi đôi
với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn
Bài Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm
khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều (2006) của tác giả Trần Văn Phòng,
Tạp chí Khoa học xã hội, số 5 - 2006. Tác giả dẫn ra nhiều cách diễn giải khác nhau
của Hồ Chí Minh như: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực
hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với
thực tế”. Theo tác giả, dù nói “đi đôi”, “gắn liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi
nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một
nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng
dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông”.
Cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo” do PGS,TS Phạm
Ngọc Anh và TS Nguyễn Thị Kim Dung đồng chủ biên. Nxb Lao động xã hội, 2011
Cuốn sách tuyển chọn 31 bài viết, đã làm rõ hơn những quan điểm cơ bản của Hồ
Chí minh về giáo dục và đào tạo, như vị trí, vai trò, nội dung, phương châm,
phương pháp giáo dục. Có một số bài phân tích khá sâu sắc nguyên tắc học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn, tấm gương tự học, học ngoại ngữ, học suốt đời
của Hồ Chí Minh.

Bài“Kiên trì thực hiện triết lý giáo dục Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”

(2013)

của

tác

giả

Vũ

Hằng,

Tạp

chí

Cộng

sản

điện

tử

(tapchicongsan.org.vn, 19-11-2013). Theo tác giả, trong lịch sử giáo dục Việt Nam,

10



ở mỗi giai đoạn bao giờ cũng có triết lý giáo dục riêng phù hợp với truyền thống
văn hóa của dân tộc, được diễn giải một cách tự nhiên, giản dị bởi những câu thành
ngữ, tục ngữ như: “Không thầy đố mày làm nên”, “học thầy không tày học bạn”,
“Học một biết mười”, “Ăn vóc học hay”, “Học đi đôi với hành”, “Tiên học lễ, hậu
học văn”… Qua đó, quan niệm giáo dục của dân ta về đối tượng, phương pháp giáo
dục trong đó có phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế được
thể hiện khá rõ nét và có bản sắc văn hóa, tính khoa học.
Cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo Đại
học hiện nay” của Hoàng Anh, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2013.
Cuốn sách trình bày về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục trong từng thời kỳ gắn với cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người cũng như của đất nước… Đặc biệt, tác giả đã phân tích nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, trong đó có một phần bàn luận rất sâu
sắc về nguyên tắc học đi đôi với hành trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo tác giả,
nguyên lý này vừa có tính khoa học vừa có giá trị thực tiễn. Học là quá trình nhận
thức chân lý khoa học, hành là rèn luyện để hình thành các kỹ năng lao động và hoạt
động xã hội, tức là biến kiến thức đã tiếp thu được thành năng lực hoạt động của
từng cá nhân. Theo Người, mục đích giáo dục của mọi thời đại không chỉ giúp học
sinh nắm vững kiến thức mà còn biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn, hình thành kỹ
năng, kỹ xảo hoạt động; học để biết, học để làm.
Bài viết: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề “học đi đôi với
hành” trong dạy và học” của Nguyễn Đăng Bình đăng trên Website Quản trị ngày
22/10/2015. Tác giả phân tích rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về “học” và “hành”,
thực chất của “học” và “hành” trong thực tế như thế nào. Tác giả khẳng định tư
tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh đã chỉ cho chúng ta thấy rằng
việc “hành” là mục tiêu, động lực của “học và hành”vừa là môi trường trải nghiệm
để học tập hiệu quả nhất, vừa là kết tinh, là biểu hiện bên ngoài của việc học. Dạy –
học không phải là một quá trình truyền đạt, tiếp thu tri thức một cách thụ động, một

chiều mà ở đó diễn ra sự tương tác hai chiều trong dạy – học và học – dạy. “Học đi

11


đôi với hành” còn là nguyên lý, phương pháp trong dạy và học, Người nhắc nhở
phải hết sức tránh “giáo điều”, “máy móc”.
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng, giải pháp

nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh
ở một số trường Đại học Việt Nam hiện nay
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thực
trạng, giải pháp phát triển giáo dục Việt Nam, trong đó có thực trạng và giải pháp
vận dụng tư tưởng học đi đôi với hành của Hồ Chí Minh vào giáo dục
Tác giả Trần Hồng Quân trong cuốn "Một số vấn đề đổi mới trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo" (1995), Nxb Giáo dục Hà Nội, đã đề cập đến những nội dung
cũng như một số giải pháp nhằm đổi mới phương thức quản lý giáo dục nói chung
từ quản lý nhà trường, nhà giáo, người học. Tác giả nhấn mạnh rằng, xây dựng hệ
thống chính sách và chế độ đối với nhà giáo là sự coi trọng của Đảng và Nhà nước
đối với giáo dục, điều đó góp phần tạo ra động lực để thực hiện mục tiêu giáo dục
đặt ra.
Trong cuốn "Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay" (1993)
do Hoàng Chí Bảo chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Đứng trên quan điểm
đổi mới của Đảng và với phương pháp tiếp cận từ "con người thực tiễn", các tác giả
đã kiến giải những vấn đề lý luận chung về chính sách xã hội, tính chất và đặc thù
của mối quan hệ của nó với các chính sách kinh tế, văn hóa, đồng thời phân tích và
luận chứng chính sách xã hội đối với các nhóm xã hội lớn ở nước ta. Trên cơ sở đó
các tác giả đã đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm xây dựng chính sách xã
hội hợp lý vì con người và phát triển nhân tố con người. Trong đó có những kiến
giải về giáo dục như: phát triển nền giáo dục và đào tạo phải gắn bó hài hoà với xu

thế phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát triển nền giáo dục và đào
tạo phải theo hướng đa dạng về hình thức, mềm dẻo và linh hoạt trong cơ chế, phát
triển nền giáo dục và đào tạo phải công khai, dân chủ, bình đẳng và công bằng.
Phạm Minh Hạc đã viết nhiều tài liệu về giáo dục và xã hội hóa giáo dục,
nhiều bài phát biểu chỉ đạo phong trào xã hội hóa giáo dục. Trong cuốn "Xã hội hóa

12


công tác giáo dục" (xuất bản năm 1997), tác giả trích một số lời dạy, phát biểu của
lãnh đạo Đảng, Nhà nước và văn bản pháp quy; trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn
của công tác xã hội hoá giáo dục; kinh nghiệm thực hiện xã hội hoá công tác giáo
dục ở một số địa phương. Tác giả khẳng định: "Xã hội hóa công tác giáo dục là một
tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường lối giáo dục, một con đường giáo dục
mới của nước ta". Trong cuốn sách "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế
kỷ”, tác giả một lần nữa đã khẳng định: "Sự nghiệp giáo dục không chỉ là công việc
của Nhà nước, mà của toàn xã hội; mọi người cùng làm giáo dục, Nhà nước và xã
hội, trung ương và địa phương cùng làm giáo dục, tạo nên một cao trào học tập
trong toàn dân".
Cuốn "Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" (2001), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Các tác giả trình bày khái
quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành khoa học xã hội trên thế giới và ở
Việt Nam; chỉ ra một số kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con người
và nguồn nhân lực; đưa ra một số đề xuất và kiến nghị về chiến lược và chính sách
nhằm phát triển toàn diện nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện
nay.
Cuốn "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam" của Đỗ Minh
Cương, Nguyễn Thị Doan (2001), Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. Các tác giả đã
cung cấp cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phát triển nguồn nhân lực giáo dục
đại học của các quốc gia trên thế giới; khái quát về thực tiễn phát triển của giáo dục

đại học Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc và nhận diện các nhân tố truyền
thống của nó; phân tích và đánh giá thực trạng của nguồn nhân lực giáo dục đại học
nước ta hiện nay; chỉ ra những nguyên nhân yếu kém; nhận định về cơ hội và thách
thức của giáo dục đại học của nước ta trong vài thập kỷ đầu của thế kỷ XXI; đề xuất
một số giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong phần thực trạng của
nguồn nhân lực giáo dục đại học, các tác giả phân tích những yếu kém còn tồn tại
trong nguồn nhân lực và công tác quản lý, phát triển nguồn nhân lực của nước ta.
Theo các tác giả, nguồn nhân lực của nước ta đang phải đối mặt với một vấn đề nan
giải; nhu cầu học tập của xã hội và quy mô đào tạo tăng nhanh trong khi số lượng
giáo viên và năng lực của đội ngũ giáo viên có giới hạn và khả năng tăng chậm.

13


Cuốn "Giáo dục đại học chất lượng và đánh giá " (2002), Đại học Quốc gia
Hà Nội, Trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách tập hợp nhiều bài viết về giáo dục đại
học của những nhà nghiên cứu giáo dục, nhà giáo lâu năm trong giáo dục đại học.
Cuốn sách gồm 3 phần: Phần 1 đánh giá hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa
học của giảng viên; Phần 2 đánh giá hoạt động học tập của sinh viên và học viên
cao học; Phần 3 đánh giá chương trình đào tạo và chương trình giảng dạy. Qua 3
phần của cuốn sách, các tác giả đã cho thấy đôi nét về thực trạng chất lượng giảng
dạy và chất lượng nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học.
Cuốn "Từ chiến lược phát triển giáo dục, đến chính sách phát triển nguồn
nhân lực (2002), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách là tuyển tập các công trình
nghiên cứu và bài báo khoa học của nhiều tác giả. Các tác giả cung cấp những
thông tin về chiến lược, chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; phân tích
các vấn đề phương pháp luận về chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân
lực, thực tiễn về chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam,

kinh nghiệm quốc tế, chiến lược và chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Bài viết "Đổi mới cách làm - điều cốt yếu để thực hiện thắng lợi chiến lược
phát triển giáo dục 2001 - 2010" của tác giả Đặng Ưng Vận (in trong cuốn "Chiến
lược phát triển giáo dục trong thế kỷ XXI kinh nghiệm của các quốc gia", Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội, (2002)). Tác giả bài viết khẳng định rằng, chủ trương xã
hội hóa đã có tác động tích cực đến sự nghiệp giáo dục; 5 năm thực hiện nghị quyết
90 và 3 năm thực hiện Nghị định 73 đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt, thu được
những kết quả quan trọng. Chúng ta đã mở rộng quy mô, đa dạng hóa loại hình,
nâng cao dân trí, tăng thêm cơ hội được học tập cho nhân dân, góp phần thực hiện
công bằng xã hội, tạo công ăn việc làm ổn định cho hàng chục vạn người. Huy động
được nhiều nguồn tài chính đa dạng đầu tư cho giáo dục. Ngoài ra, tác giả còn chỉ ra
hạn chế trong công tác xã hội hóa giáo dục ở nước ta trong giai đoạn này là: nhận
thức chưa đầy đủ, tâm lý ỷ lại trông chờ ở Nhà nước, công tác quản lý, chỉ đạo thực
hiện xã hội hóa của các cấp quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển.

14


Đề tài "Chuyển giao dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước ở Việt
Nam" (2002),do Lê Chi Mai làm chủ nhiệm đề tài, Học viện Hành chính Quốc
gia. Các tác giả đưa ra những lý luận cơ bản về dịch vụ công và vai trò của nhà
nước trong việc cung cấp các dịch vụ công cho xã hội; bên cạnh đó các tác giả
chỉ ra xu hướng chuyển giao dịch vụ công từ khu vực công sang khu vực ngoài
nhà nước trên thế giới hiện nay; khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng chuyển
giao việc cung ứng các dịch vụ công cho các cơ sở ngoài nhà nước và việc quản
lý nhà nước đối với những cơ sở này trên ba lĩnh vực trong đó giáo dục là một
trong những lĩnh vực mà đề tài đề cập tới. Từ đó, các tác giả đề xuất các kiến
nghị nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với chuyển giao dịch vụ công cho
các cơ sở ngoài nhà nước ở nước ta.
Cuốn sách Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa (của Nguyễn Văn Sơn, 2002, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội). Cuốn sách trình bày những vấn đề cơ bản về trí thức giáo dục đại học Việt
Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cung cấp thêm cơ sở cho việc
đổi mới, phát triển nền giáo dục đại học nước nhà đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ mới.
Cuốn "Về giáo dục" (2003, của tác giả Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội). Tác giả đề cập đến kinh nghiệm phát triển giáo dục; xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học; một số vấn đề đặt ra đối với ngành giáo dục nước ta khi
bước vào thế kỷ XXI.
Cuốn “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” (2004, do Chu Văn Thanh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội)
tập hợp một số chuyên luận, khảo cứu tham gia các hội thảo về chủ đề dịch vụ công
và xã hội hóa dịch vụ công. Trong đó có những chuyên khảo về tình hình thực hiện
và các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục ở nước ta.
Cuốn Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai vấn đề và giải pháp (Đặng
Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng đồng chủ biên, 2004, Nxb Chính trị quốc gia HàNội).
Các tác giả đã phân tích những thời cơ và thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa,
kinh tế tri thức, phác họa bức tranh toàn cảnh về tình hình giáo dục và đào tạo của

15


nước ta (thời kỳ phong kiến đến giai đoạn thực dân Pháp đô hộ, sau Cách mạng
Tháng tám năm 1945 đến hiện nay); từ đó đề xuất những vấn đề đặt ra và các giải
pháp cần thực hiện trong thời gian tới để không ngừng phát triển nền giáo dục, đào
tạo nước nhà.
Cuốn sách Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Lê Du Phong chủ biên, 2006, Nhà xuất bản Lý
luận chính trị, Hà Nội). Các tác giả đã đưa ra khái niệm nguồn nhân lực, phân tích
tầm quan trọng nguồn nhân lực với tư cách là động lực của sự phát triển; phân tích

một số vấn đề về thực trạng phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trước yêu cầu phát triển mới.
Cuốn sách“Đảng cộng sản Việt Nam, những tìm tòi và đổi mới trên con
đường lên chủ nghĩa xã hội (1986-2006)” (2007, Doãn Hùng, Nguyễn Ngọc Hà,
Đoàn Minh Tuấn làm chủ biên, Nxb Lý luận chính trị). Cuốn sách lý giải về các vấn
đề được tổng kết sau 20 năm đổi mới. Trong chuyên đề “Đường lối phát triển giáo
dục và đào tạo của Đảng trong thời kỳ đổi mới, các tác giả Trần Thị Thu Hương và
Lê Thị Tình phân tích những yêu cầu trong công tác chỉ đạo đổi mới giáo dục khi
Đảng được thành lập cũng như trong quá trình chỉ đạo thực tiễn của cách mạng Việt
Nam, đặc biệt phân tích quá trình phát triển đường lối giáo dục và đào tạo của Đảng
trong thời kỳ đổi mới. Theo các tác giả, để đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước,
cần tiếp tục hoàn thiện đường lối phát triển giáo dục – đào tạo theo phương châm
đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Luận án của tác giả Nguyễn Anh Thái: "Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính
đối với các trường Đại học ở Việt Nam” (2008), Tác giả phân tích nội dung cơ chế
chính sách để quản lý tài chính đối với các trường đại học nói chung. Theo tác giả,
cần hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính dành cho các trường đại học; tạo nguồn tài
chính đa dạng cho đào tạo, xây dựng cơ chế kiểm soát, học bổng, hoàn thiện mô
hình tổ chức quản lý.
Đề tài cấp Bộ của nhóm tác giả do Mai Ngọc Cường làm chủ nhiệm (năm
2007) "Điều tra thực trạng và khuyến nghị giải pháp thực hiện tự chủ về tài chính ở
các trường Đại học ở Việt Nam". Theo nhóm tác giả, tự chủ về tài chính là một

16


trong những phương cách để tăng cường quản lý tài chính và chia sẻ gánh nặng với
Nhà nước về trách nhiệm của các đối tượng khác nhau trong xã hội về sự phát triển
của sự nghiệp giáo dục. Tuy nhiên, để tự chủ như thế nào, xây dựng quy trình quản
lý ra sao, tiêu chí để đánh giá một trường công lập có khả năng tự chủ hay không thì

trong đề tài không đề cập tới.
Cuốn"Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỷ” XXI (Nguyễn Hữu Châu
chủ biên, 2007, Nxb Giáo dục Hà Nội). Cuốn sách đã cung cấp nhữngthông tin, tư
liệu về giáo dục, đào tạo Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Cuốn
sách bao gồm 6 chương. Chương 1 trình bày một số vấn đề chung của giáo dục Việt
Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI hiện ra qua những lĩnh vực hệ thống giáo
dục quốc dân Việt Nam, mạng lưới trường lớp các cấp học và trình độ đào tạo, quy
mô học sinh, sinh viên, đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, tài chính cho giáo
dục… Các chương tiếp theo cuốn sách đề cập cụ thể đến từng cấp học, đồng thời
cuốn sách đề ra những phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo trong những thập
kỷ tới.
Cuốn sách "Kinh nghiệm một số nước về phát triển giáo dục và đào tạo,
khoa học công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức" (2008, Viện Khoa học giáo
dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Đây là công trình tập hợp các
chuyên khảo của nhiều tác giả. Cuốn sách đã phân tích những chính sách phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ của một số nước như Hoa Kỳ, Đức, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Singapo, Trung Quốc. Nội dung của từng chuyên đề đã nhấn mạnh
vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, chiến lược phát
triển, định hướng sự phát triển của nền giáo dục của mỗi quốc gia.
Cuốn sách "Những vấn đề giáo dục hiện nay - Quan điểm và giải pháp”
(Nxb Tri thức Hà Nội, 2008). Các tác giả phân tích các vấn đề mấu chốt và cấp
bách của giáo dục. Phần thứ nhất trích dẫn các phát biểu của Einstein về giáo dục và
đặc biệt ý kiến của đồng chí Võ Nguyên Giáp về đổi mới có tính cách mạng nền
giáo dục và đào tạo nước nhà. Phần II trình bày quan điểm và đề xuất giải pháp
nhằm phát triển nền giáo dục ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI.

17


Cuốn "Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế

giới”(2008, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội). Công trình giới thiệu những chân
dung và tư tưởng của những nhà giáo dục, những nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà
cải cách và nhà sư phạm. Họ là những con người cống hiến cho sự nghiệp đào tạo
nguồn nhân lực, đào tạo những lớp công dân của đất nước mình và trên thế giới.
Lê Thanh Bình trong cuốn "Một số vấn đề về quản lý Nhà nước kinh tế, văn
hóa, giáo dục trên thế giới và Việt Nam" (2010, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội), đã
nghiên cứu, so sánh, đối chiếu các chính sách về quản lý nhà nước, về cải cách hành
chính, về kinh tế, văn hóa, giáo dục của các nước trên thế giới; đồng thời phân tích
những chính sách được áp dụng thành công ở các nước có hoàn cảnh kinh tế - xã
hội tương đồng với Việt Nam; đề xuất những giải pháp nhằm bổ sung, hoàn thiện
các chính sách của Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
Các cuốn: Cải cách giáo dục ở các nước phát triển, Cải cách giáo dục ở
Nhật Bản và Ausxtraylia; Cải cách giáo dục ở các nước phát triển: Cải cách giáo
dục ở Mỹ (gồm 4 quyển); Cải cách giáo dục ở Pháp - Đức, Cải cách giáo dục ở
Anh (2010, của Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh đồng chủ biên, Nxb Giáo dục Việt Nam).
Các tác giả đã trình bày những tư tưởng và quan điểm chủ đạo, những vấn đề cốt
lõi, những con đường, những công việc của Nhật Bản và Astraylia, Mỹ, Anh, Pháp,
Đức đã tiến hành và thay đổi nền giáo dục của họ theo hướng hiện đại hóa, làm cho
giáo dục trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, điều kiện đảm bảo phát
triển bền vững đất nước, tạo ra năng lực cạnh tranh lành mạnh với các quốc gia
trong thời kỳ hội nhập.
Cuốn sách "Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010" (2010, Nxb Giáo dục, Hà Nội).
Công trình đã tái hiện được lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam trải qua bốn nghìn
năm lịch sử. Các tác giả cuốn sách phân lịch sử phát triển giáo dục Việt Nam thành
các thời kỳ lớn là: thời tiền sử, thời trước Bắc thuộc, thời Bắc thuộc, thời độc lập
trung đại, cận đại, thời thuộc Pháp và thời độc lập sau 1945. Đặc biệt cuốn sách tập
trung vào giai đoạn phát triển giáo dục Việt Nam trong những năm 1945 - 2010 với

18



những cuộc cải cách giáo dục lớn, những quan điểm, chủ trương, và kết quả của các
cuộc cách mạng giáo dục.
Cuốn "Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam" (2011, Nhà xuất bản Giáo
dục) tập hợp một cách có hệ thống những triết lý giáo dục của một số nhà giáo dục
nổi tiếng trên thế giới ở các thời kỳ văn minh của nhân loại khác nhau.
Cuốn “Xây dựng con người xây dựng xã hội học tập” (2011, của Phạm Tất
Dong, Đào Hoàng Nam, Nxb Dân trí) đã trình bày một số vấn đề xây dựng xã hội
học tập ở nước ta, đặc biệt đã làm sáng tỏ mô hình học tập ban đầu, phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta đầu thế kỷ XXI. Trong đó, các tác giả đã phân
tích rõ vai trò của tri thức trong xã hội hiện đại và nhu cầu cần có nguồn nhân lực
chất lượng cao, có đủ năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ trong tương lai.
Theo các tác giả, thế giới ngày càng coi trọng giáo dục suốt đời và giáo dục không
chính quy. Các tác giả cũng đã nêu ra một số mô hình giáo dục không chính quy ở
một số quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Cuốn "Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng" (2011, của Hoàng Tụy, Nxb Tri
thức) đã trình bày thực trạng giáo dục Việt Nam và những đề xuất nhằm khắc phục
những bất cập trong giáo dục một cách quyết liệt. Điển hình ông có hai bản kiến
nghị về cải cách giáo dục năm 2004 và năm 2009. Trong lời mở đầu, ông đã viết:
"Hơn lúc nào hết trong lịch sử, khắp nơi trên thế giới người ta đều hết sức coi trọng
giáo dục. Hơn nữa ngành này đã thay đổi sâu sắc trong mấy thập kỷ qua. Ngày càng
rõ chúng ta không chỉ tụt hậu mà còn nguy hiểm hơn là chúng ta đang đi lạc khá xa
con đường chung của thế giới".
Cuốn "Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập" (2011, của
Nguyễn Văn Tuấn, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) đã đề cập đến những
vấn đề chung về giáo dục đại học, học vị tiến sĩ, thi cử và tiêu chuẩn cho chức danh
giáo sư. Theo tác giả, hệ thống giáo dục đại học của chúng ta đang trong tiến trình
hội nhập; chúng ta muốn có một vài đại học có chất lượng cao, đứng sánh vai các
trường đại học hàng đầu trong khu vực và trên thế giới; trong quá trình đó giáo dục

đại học chúng ta không thể đứng ngoài những chuẩn mực về quy trình, chất lượng
đào tạo và nghiên cứu khoa học đã được các nước tiên tiến thừa nhận từ lâu.

19


Cuốn sách “Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam”
(2001, của tác giả Trần Văn Tùng, Nxb Thế giới) phân tích quá trình hình thành và
phát triển nền kinh tế tri thức, vai trò đối với sự phát triển; các con đường tiếp cận
trí thức, các chiến lược khoa học - công nghệ của một số quốc gia công nghiệp
và các nước thuộc khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, các chính sách của từng
quốc gia với đặc điểm khác nhau. Tác giả khẳng định rằng, vai trò của phát triển
giáo dục - đào tạo là một vấn đề quan trọng đối với nước nghèo như Việt Nam.
Trong đó tác giả khẳng định: "muốn phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện đại,
tiên tiến thì ngân sách đầu tư cho giáo dục phải đạt mức cao hơn”. Ngoài ra, tác
giả cũng khẳng định: “Trong 10 năm tới có lẽ nên củng cố các trường dân lập,
nếu có cho phép mở thêm, phải xem xét tới những điều kiện. Đa dạng các hình
thức đào tạo là cần thiết bởi vì có một số trường công lập do quan liêu, kinh phí
hạn hẹp, hạn chế nguyện vọng sinh viên muốn theo học ngành nghề mà họ yêu
thích. Muốn nâng cao chất lượng trong hệ thống các trường cần phải tạo ra cơ
chế thị trường cạnh tranh trong giáo dục”.
Cuốn “Tiến tới một xã hội học tập ở Việt Nam" (2006, do Nguyễn Ngọc Phú
chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội) là tập hợp tuyển chọn những báo cáo khoa
học trong hội thảo “Xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam”. Các tác giả làm rõ khái
niệm và các điều kiện cơ bản xây dựng xã hội học tập, trong đó đề cập đến mối liên
hệ giữa xã hội hóa giáo dục với xây dựng xã hội học tập. Theo các tác giả, xã hội
hóa giáo dục nhằm xây dựng một xã hội mà trong đó mọi người dân đều được
hưởng sự công bằng, bình đẳng, công khai, dân chủ thực sự trong học tập thông qua
xã hội hóa giáo dục để xây dựng một xã hội học tập, học tập suốt đời. Mục tiêu
quan trọng và cuối cùng của xã hội hóa giáo dục chính là xây dựng một nền giáo

dục – đào tạo thực sự của dân, do dân và vì dân. Xây dựng xã hội học tập, học tập
suốt đời phải là một trong những chiến lược then chốt của giáo dục nước ta.
Cuốn "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam” (2014,
Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật) là tập hợp những bài viết, bài nói của các đồng
chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các cơ quan trung ương, địa phương, của các nhà quản lý, các nhà khoa học nhằm góp phần vào công
cuộc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Cuốn sách gồm 3 phần.

20


Phần I: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam. Phần II: Đổi mới và phát
triển dạy nghề ở Việt Nam. Phần III: Đổi mới và phát triển các trường ngoài công
lập ở Việt Nam. Các tác giả đã đánh giá những thành tựu, hạn chế của nền giáo dục
Việt Nam và đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế. Trong đó, các tác giả cũng đặc biệt chú ý đến giải pháp đẩy mạnh xã hội
hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng
xã hội học tập. Theo các tác giả, xã hội hóa giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là một
trong những giải pháp chủ yếu để phát triển giáo dục, đào tạo.
Bài "Mấy suy nghĩ về định hướng đổi mới giáo dục đại học trong giai đoạn
2011-2020" (của Nguyễn Khắc Bình, Tạp chí Tâm lý học, số 6, 2012) đã trình bày
và phân tích thực trạng giáo dục đại học ở nước ta hiện nay, làm rõ những thành tựu
cũng như hạn chế; đưa ra những định hướng nhằm đổi mới giáo dục đại học trong
giai đoạn 2011 - 2020. Tác giả khẳng định: "Xã hội hóa giáo dục hiện nay có nhiều
thành tựu, song vẫn có những điều bất cập. Nhà nước hiện mới chỉ huy động được
một phần nguồn lực của xã hội cho giáo dục đại học, chưa huy động được nhiều
nguồn lực nước ngoài cho giáo dục đại học, thiếu yếu tố giám sát của xã hội".
Cuốn “Định hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam” (2015, của Phạm Văn Linh, Nxb Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nội). Cuốn sách nghiên cứu những kinh nghiệm của các

nước trong thực hiện cải cách giáo dục, những xu hướng lớn, các mô hình hay trong
việc chuyển đổi từ nền giáo dục với triết lý truyền thống sang nền giáo dục theo xu
hướng hiện đại của thế kỷ XXI; phân tích nội dung, một số quan điểm về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo; làm rõ định hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” đối với giáo dục Việt Nam; phân tích
thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục Việt Nam, nguyên nhân, hạn chế; đề
xuất các khâu đột phá để thực hiện thành công “đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục”. Sách chia làm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chương 2: Thực trạng giáo dục Việt
Nam, trước yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện. Chương 3: Định hướng chiến lược
và giải pháp đột phá phát triển giáo dục Việt Nam trong thời gian tới.

21


Các bài viết:"Một số giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt
Nam " (Tạp chí Giáo dục số 243, kì 1-8/2010); "Đào tạo cán bộ quản lí giáo dục
trong phát triển giáo dục Việt Nam hiện đại và hội nhập quốc tế" (của tác giả Vũ
Ngọc Hải, Tạp chí Khoa học giáo dục số 57, tháng 6- 2010); "Phát triển giáo dục
đào tạo theo tinh thần xã hội hóa" (của tác giả Nguyễn Duy Bắc, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 3, năm 2002); "Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục" (Tạp chí
Công tác Khoa giáo, số 4, năm 2003)… Các bài viết này trình bày nội dung cơ bản
của vấn đề xã hội hóa giáo dục và các nguyên tắc phải đảm bảo trong xã hội hóa
giáo dục - đào tạo; nêu lên những thành tích nổi bật và những vấn đề đặt ra sau
những năm thực hiện chủ trương xã hội giáo dục ở Việt Nam; chỉ ra các khía cạnh
thể hiện vai trò hướng dẫn, tổ chức của cộng đồng trong chủ trương xã hội hóa của
Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu hệ thống giáo dục ở một số
quốc gia, rút ra được những bài học và kinh nghiệm phát triển hệ thống giáo dục,
đặc biệt là giáo dục đại học. Đó là các công trình sau.

Cuốn “Dân chủ và giáo dục” (2010, của John Dewey, Nxb Tri thức). Theo
John Dewey, giáo dục phải gắn liền lý thuyết với thực tiễn. Đây là quan điểm không
hoàn toàn mới, nhưng với John Dewey, nó dựa trên một quan niệm độc đáo. Nếu
như trước đây người ta quan niệm giáo dục là quá trình truyền đạt kiến thức và kinh
nghiệm, hoặc là quá trình rửa tội và thanh lọc tâm hồn, hoặc nữa, một quá trình khai
sáng nhằm giúp con người tự do sử dụng lý trí, thì với John Dewey “giáo dục chính
là bản thân sự sống”. Nhà trường không thể tách khỏi hoạt động thực tiễn, kiến thức
không thể được áp đặt từ bên ngoài, không thể có một thứ giáo dục cho tất cả mọi
người. Người thầy phải ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh và
luôn để người học là trung tâm.
Cuốn “Giáo dục đại học ở Thái Lan và lộ trình cải cách quốc gia” (của
GS.Krissanapong Kirikara,Trường Đại học Công nghệ Thonhuri của Nhà vua
Mongkut Bangkok, Thái Lan, Nhà xuất bản Giáo dục, 2005). Tác giả đã cung cấp
những thông tin giáo dục đại học ở Thái Lan gồm: quản lý giáo dục đại học, tài
chính trong giáo dục đại học, học sinh trung học và sổ đăng ký vào đại học; cải cách

22


×