Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

TIỂU LUẬN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.72 KB, 42 trang )

TIỂU LUẬN
THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM, HIỆN TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP

Hà Nội, tháng 12/2016


A.

LỜI MỞ ĐẦU

Thị trường vốn Việt Nam đã được hình thành và từng bước hoàn thiện gắn liền với tiến
trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Trong những năm gần đây, khu vực tài chính
đã phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đặc biệt là thị trường vốn. Sau khi trở
thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã quan tâm đến việc
tái cấu trúc thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Các chủ thể tham gia thị trường cũng được cải thiện về năng lực tài chính, quy mô,
quản trị rủi ro, để từng bước tham gia vào chuỗi kinh tế toàn cầu. Với độ mở của nền kinh tế
và thị trường vốn, đầu tư xã hội đã có sự bứt phá mạnh mẽ, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đã đưa Việt Nam lên nhóm các nước có quy mô đầu tư xã hội trên GDP cao nhất thế
giới.
Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển thị trường vốn các nước trên thế giới, thị trường
vốn Việt Nam vẫn còn non trẻ và nhiều bất cập, cần đẩy nhanh hoàn thiện để phát triển. Do đó
việc đánh giá đúng thực trạng các kết quả đạt được, các hạn chế của thị trường vốn Việt Nam
trong thời gian qua và đề ra mục tiêu, định hướng, giải pháp phát triển thị trường trong những
năm tới có ý nghĩa rất lớn để tiếp tục hoàn thiện thị trường vốn, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ những lí do trên, chúng em thấy rõ được vai trò quan trọng của thị trường vốn với
nến kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt nam nói riêng, cũng như nhận thức được
tính cấp thiết của việc nghiên cứu thực trạng thị trường vốn tại Việt Nam từ đó đưa ra các giải
pháp để khắc phục nhược điểm và hoàn thiện hơn nữa thị trường vốn.


Xuất phát từ những lý do trên, nhóm em đã lựa chọn đề tài: “Thị trường vốn Việt
Nam – Hiện trạng và giải pháp” làm chủ đề nghiên cứu của nhóm.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
-

Đánh giá thực trạng những kết quả đạt được và những hạn chế trong quá trình hình thành và
phát triển thị trường vốn Việt Nam trong những năm gần đây;

-

Xác định nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém của thị trường vốn Việt Nam hiện nay;

-

Đưa ra mục tiêu, định hướng và giải pháp thực hiện phát triển thị trường vốn Việt Nam trong
những năm tới;
Phương pháp nghiên cứu, thu thập dữ liệu:
Nhóm sử dụng phương pháp phân tích định tính dựa trên cơ sở nguồn dữ liệu thứ cấp
thu thập từ tài liệu tạp chí chuyên ngành và báo cáo thống kê chuyên ngành ngân hàng.
Cấu trúc bài viết:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết gồm 3 phần:
Phần 1: Tổng quan về thị trường vốn Việt Nam .
Phần 2: Thực trạng thị trường vốn Việt Nam.
Trang 2


Phần 3: Giải pháp phát triển thị trường vốn Việt Nam.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức hạn hẹp, bài tiểu luận của chúng em
không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiên
của các thầy cô để chúng em có thể hoàn thiện bài tiểu luận hơn nữa.

Em xin chân thành cảm ơn!

Trang 3


B.
PHẦNII.
1.

NỘI DUNG

Chương I. Tổng quan về thị trường vốn Việt Nam

I. Thị trường tài chính
Thị trường tài chính là một thị trường trong đó mọi người và các thể
chế có thể trao đổi các chứng khoán tài chính, các hàng hóa, và các món
giá trị có thể thay thế khác với chi phí giao dịch thấp và tại các giá cả
phản ánh cung và cầu. Các chứng khoán bao gồm cổ phiếu và trái phiếu,
và các hàng hóa bao gồm kim loại quý hoặc hàng hóa nông nghiệp.
Có cả các thị trường nói chung (trong đó nhiều hàng hóa được giao
dịch) và các thị trường chuyên ngành (trong đó chỉ có một hàng hóa được
giao dịch). Thị trường làm việc bằng cách đặt nhiều người mua và người
bán quan tâm, trong đó có các hộ gia đình, các doanh nghiệp và cơ quan
chính phủ, trong một "nơi", do đó làm cho họ tìm thấy nhau dễ dàng hơn.
Một nền kinh tế chủ yếu dựa vào các tương tác giữa người mua và người
bán để phân bổ nguồn lực được gọi là một nền kinh tế thị trường tương
phản với một nền kinh tế chỉ huy hay một nền kinh tế phi thị trường chẳng
hạn như một nền kinh tế quà tặng.
Thị trường tài chính là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, sự
xuất hiện và tồn tại của thị trường này xuất phát từ yêu cầu khách quan

của việc giải quyết mẫu thuận giữa nhu cầu và khả năng cung ứng vốn lớn
trong nền kinh tế phát triển. Trong nền kinh tế luôn tồn tại hai trạng thái
trái ngược nhau giữa một bên là nhu cầu và một bên là khả năng về vốn.
Mâu thuẫn này ban đầu được giải quyết thông qua hoạt động của ngân
hàng với vai trò trung gian trong quan hệ vay mượn giữa người có vốn và
người cần vốn. Khi kinh tế hàng hóa phát triển cao, nhiều hình thức huy
động vốn mới linh hoạt hơn nảy sinh và phát triển, góp phần tốt hơn vào
việc giải quyết cân đối giữa cung và cầu về các nguồn lực tài chính trong
xã hội, làm xuất hiện các công cụ huy động vốn như trái phiếu, cổ phiếu
của các doanh nghiệp, trái phiếu của chính phủ... - Đó là những loại giấy
tờ có giá trị, gọi chung là các loại chứng khoán. Và từ đó xuất hiện nhu
cầu mua bán, chuyển nhượng giữa các chủ sở hữu khác nhau các loại
chứng khoán. Điều này làm xuất hiện một loại thị trường để cân đối cung
cầu về vốn trong nền kinh tế là thị trường tài chính.
Do đó, cơ sở khách quan cho sự ra đời của thị trường tài chính là sự
giải quyết mẫu thuẫn giữa cung và cầu về vốn trong nền kinh tế thông qua
các công cụ tài chính đặc biệt là các loại chứng khoán, làm nảy sinh nhu
cầu mua bán, chuyển nhượng chứng khoán giữa các chủ thể khác nhau
trong nền kinh tế. Chính sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa và tiền tệ
mà đỉnh cao của nó là kinh tế thị trường làm nảy sinh một loại thị trường
mới là thị trường tài chính.
Trang 4


Thị trường tài chính hình thành và phát triển gắn liền với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã làm
xuất hiện những chủ thể cần nguồn tài chính và những người có khả năng
cung ứng nguồn tài chính. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển
thì các hoạt động về phát hành và mua bán lại các chứng khoán cũng phát
triển, hình thành một thị trường riêng nhằm làm cho cung cầu nguồn tài

chính gặp nhau dễ dàng và thuận lợi hơn, đó là thị trường tài chính.
1. Cấu trúc
1.1 Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn ( dưới 1 năm ) , nơi diễn
ra các hoạt động của cung và cầu về vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn bao
gồm cả giấy tờ có giá ngắn hạn, có kỳ hạn tức là mua bán những món nợ
ngắn hạn rủi ro thấp, tính thanh khoản cao. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ
yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng, vì các ngân hàng là chủ
thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng vốn ngắn hạn.
Thị trường tiền tệ là thị trường phi tập trung tại các phòng kinh doanh
của các ngân hàng và các công cụ kinh doanh đầu tư chuyên nghiệp thông
qua mạng lưới điện thoại, internet rộng lớn. Các nghiệp vụ trên thị trường
tiền tệ là nghiệp vụ chuyển giao vốn có khả năng thanh toán cao, ít xảy ra
rủi ro đối với người đầu tư.
Thị trường tiền tệ là nơi mua bán các loại chứng từ có giá ngắn hạn,
nơi đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của nền kinh tế.
1.2 Thị trường vốn
Là thị trường diễn ra việc mua bán các chứng khoán dài hạn như cổ
phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị
trường cho thuê tài chính, các khoản cho vay thế chấp và chứng
khoán.Thị Trường Vốn là một thị trường nơi các tài sản tài chính có kỳ
hạn dài hoặc vô thời hạn. Không giống như các công cụ của thị trường
tiền tệ, công cụ của thị trường vốn đáo hạn trong khoảng thời gian trên
một năm. Thị Trường Vốn là một sự sắp xếp theo thể chế để vay và cho
vay tiền trong một khoảng thời gian dài hơn, bao gồm các tổ chức tài
chính. Các tổ chức này đóng vai trò bên cho vay còn các đơn vị kinh
doanh và tập đoàn là các bên đi vay trên thị trường vốn. Thị trường này
bao hàm nhiều công cụ khác nhau có thể được sử dụng cho các giao dịch
tài chính. Nó cung cấp nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu tài chính cho Chính
phủ và các doanh nghiệp.

2. Chức năng, vai trò thị trường tài chính
2.1 Chức năng
❖ Chức năng dẫn nguồn tài chính từ những chủ thể có khả năng
cung ứng nguồn tài chính đến những chủ thể cần nguồn tài chính:
○ Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người
tiết kiệm đến người kinh doanh. Giúp cho việc chuyển vốn từ người
không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
Trang 5


Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền
vốn để đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh
doanh.
○ Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả
hơn, không chỉ đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền
để đầu tư. Người cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi
vay vốn phải tính toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn
trả cả vốn và lãi cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy
cho chính bản thân mình.
○ Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện các chính sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các
hình thức như phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
○ Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá,
bán cổ phiếu, trái phiếu, đổi tiền.
❖ Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản cho các chứng
khoán;
❖ Chức năng cung cấp thông tin kinh tế và đánh giá giá trị của
doanh nghiệp.



Trang 6


2.2 Vai trò
❖ Thị trường tài chính thu hút, huy động các nguồn tài chính trong và ngoài
nước, khuyến khích tiết kiệm và đầu tư;
❖ Thị trường tài chính góp phần thúc đẩy, nâng cao hiệu quả sử dụng tài
chính;
❖ Thị trường tài chính thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ của
nhà nước.
2.

II. Thị trường vốn
1. Khái niệm
1.1 Khái niệm vốn và phân loại.
Cùng với sự phát triển chung của kinh tế, vốn là một trong những khái
niệm không thể tách rời, chúng có lịch sử hình thành và phát triển cùng
với chiều dài của sự phát triển chung giữa các nhóm ngành và thường
xuyên được nhắc tới. Vậy vốn là gì?
Hiện nay có khá nhiều khái niệm về vốn, cụ thể cần chia vốn theo hai
hướng: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
· Theo nghĩa hẹp: Vốn là tiềm lực tài chính của mỗi cá nhân, tổ
chức, mỗi doanh nghiệp hay mỗi quốc gia.
Ví dụ: Bạn đang có 1 triệu trong tay đó là vốn, doanh nghiệp của bạn
đang có 1 tỷ đó là vốn, quốc gia bạn đang sinh sống có nguồn ngân sách 1
tỷ đô đó là vốn.
· Theo nghĩa rộng: Vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố
trí để sản xuất hàng hóa, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình và
các kiến thức kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp được tích lũy, sự khéo

léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của các cán bộ điều hành, cùng đội
ngũ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, uy tín của doanh nghiệp.
Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu
quả của vốn trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc xác định vốn
theo quan điểm này rất khó khan phức tạp nhất là khi nước ta trình độ
quản lý kinh tế còn chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh.
· Theo quan điểm của Mác: Vốn (tư bản) không phải là vật, là tư
liệu sản xuất, không phải là phạm trù vĩnh viễn. Tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động làm thuê. Để tiến hành sản
xuất, nhà tư bản ứng tiền ra mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là
tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác
nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Mác chia tư bản thành tư bản bất
biến và tư bản khả biến. Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới
hình thức tư liệu sản xuất( máy móc, thiết bị, nhà xưởng..) mà giá trị của
nó được chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm. Còn tư bản khả biến là bộ
phận tư bản tồn tại dưới hình thức lao động, trong quá trình sản xuất thay
đổi về lượng, tăng lên do sức lao động của hàng hóa tăng.
· Theo David Begg, Stenley Ficher, Rudiger Darubused: Vốn hiện
vật là giá trị của hàng hóa đã sản xuất được sử dụng để tạo ra hàng hóa và
Trang 7


dịch vụ khác. Ngoài ra còn có vốn tài chính. Bản thân vốn là một hàng
hóa nhưng được trực tiếp sử dụng vào sản xuất kinh doanh tiếp theo.
Quan điểm này đã cho thấy nguồn gốc hình thành vốn và trạng thái biểu
hiện của vốn, nhưng hạn chế cơ bản là chưa cho thấy mục đích của việc
sử dụng vốn.
❖ Phân loại vốn
1.1.1 Theo ý nghĩa của vốn, vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp xây dựng gồm:

Vốn pháp định: là vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do
pháp luật quy định.
Vốn điều lệ: là số vốn ghi trong điều lệ cho từng loại nghề của doanh
nghiệp khi thành lập, khi bố cáo thành lập do các chủ sở hữu góp.
Vốn huy động: là số vốn do doanh nghiệp ( nhà nước) huy động dưới
các hình thức phát hành trái phiếu, nhận vốn liên kết, vay các tổ chức cá
nhân để kinh doanh.
1.1.2 Theo tính chất hoạt động, vốn sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp xây dựng gồm:
-Vốn ở dạng hiện vật
-Vốn ở dạng tiền
-Vốn ở dạng khác (ngân phiếu, nhãn hiệu, thông tin…)
1.1.3 Theo tính chất hoạt động và nghĩa hẹp thì số vốn sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng bao gồm hai bộ phận chính:
vốn cố định và vốn lưu động
● Vốn cố định:
Để hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có vốn. Với
doanh nghiệp xây dựng, vốn dung vào sản xuất kinh doanh gọi là vốn sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng. Theo nghĩa rộng, vốn của
doanh nghiệp bao gồm tất cả các yếu tố phục vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nhờ vốn cố định, vốn lưu động, nhân lực, thông tin các bí
quyết công nghệ. Có thể nói , vốn là tài nguyên của doanh nghiệp. Vốn
trong doanh nghiệp được chia làm hai loại vốn cố định và vốn lưu động.
● · Khái niệm vốn cố định:
Là một bộ phận của vốn sản xuất, là số vốn ứng trước để mua sắm, xây
dựng các tài sản cố định nên quy mô vốn cố định lớn hay bé hoàn toàn
phụ thuộc vào quy mô của tài sản cố định. Ngược lại, quy mô của tài sản
cố định doanh nghiệp xây dựng lại phụ thuộc đặc thì loại hình sản xuất,
tính chất cảu dây truyền công nghệ và trình độ trang bị kỹ thuật của doanh
nghiệp. Trong ngành xây dựng, quy mô vốn cố định của các doanh nghiệp

rất khác nhau nên trong nền kinh tế thị trường và trong điều kiện khoa học
kỹ thuật phát triển thì doanh nghiệp nào có vốn cố định lớn thường có quy
mô và năng lực sản xuất lớn, kinh tế hiện đại. Với một nguồn vốn xây
dựng tìm ra cách sử dụng để đạt hiệu quả tối ưu là mục tiêu mà doanh
nghiệp nào cũng tìm cách đạt đến.
Trang 8


Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Vì vậy, đặc
điểm của vốn cố định phụ thuộc đặc điểm của tài sản cố định. Đó là vốn
cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Về số lượng ( số tài
sản cố định) không đổi, nhưng về mặt giá trị, vốn cố định được dịch
duyển dần vào trong giá thành sản phẩm mà vốn cố định đó sản xuất ra.
Thông qua hình thức khấu hao mòn tài sản cố định, giá trị dịch chuyển
dần đó tương ứng với mức độ hao mòn thực tế của tài sản cố định.

Trang 9


Phân loại vốn cố định
Cách phân loại và nhận biết vốn cố định cũng là cách phân loại và
nhận biết tài sản cố định vì vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của tài sản
cố định.
❖ Phân loại theo tính chất tài sản cố định:
➔ Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do doanh
nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phù hợp với tiêu
chuẩn ghi nhận tài sản cố định do Bộ tài chính quy định. Đó là loại tài sản tham
gia nhiều lần vào quy trình sản xuất chuyển một phần giá trị vào sản phẩm và
vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc,

thiết bị, phương tiện vận tải…
Doanh nghiệp có thể thuê tài sản cố định theo hai hình thức:
-Thuê ngắn hạn
-Thuê dài hạn
➔ Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất
nhưng xác định được giá trị của nó và doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản
xuất, kinh doanh, cung cấp dịch vụ thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư
thỏa mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình, tham gia vào nhiều chu kỳ
kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp tới đất sử dụng, chi phí về
quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả,...
❖ Phân loại theo chức năng, tác dụng của tài sản cố định:
➔ Tài sản cố định trực tiếp: sản xuất, thi công xây lắp ( nhà cửa, công trình,
phương tiện vận tải máy móc, thiết bị cơ giới,..)
➔ Tài sản cố định gián tiếp: tham gia vào quá trình thi công xây lắp: không
trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất mà chỉ có tác dụng phục vụ trong lĩnh
vực gián tiếp nhưng không thể thiếu.
1.1.3.1 Vốn lưu động
Là tiền ứng vào tài sản lưu động, là một bộ phận của vốn sản xuất của
doanh nghiệp xây dựng mà hình thái vật chất của nó chủ yếu thuộc đối
tượng lao động. Vốn lưu động của doanh nghiệp xây dựng là toàn bộ số
vốn mà doanh nghiệp phải ứng ra nhằm thỏa mãn nhu cầu dự trữ nguyên
vật liệu trong giai đoạn sản xuất và như cầu lưu thông. Trong quá trình
sản xuất kinh doanh, vốn lưu động luôn biến đổi từ hình thái tiền tệ sang
hình thái hiện vật rồi trở về hình thái tiền tệ thực hiện một vòng chu
chuyển.
Sau mỗi vòng chu chuyển, vốn lưu động sẽ được thu hồi toàn bộ dưới
hình thức tiền tệ.
Vòng chu chuyển của vốn lưu động là khoảng thời gian cần thiết để
vốn lưu động biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật rồi trở lại
hình thái tiền tệ. Sự biến đổi của vốn có tính chất tuần hoạn, như vậy gọi

là chu chuyển của vốn.
Vòng chu chuyển này gồm ba giai đoạn:


Trang 10


● Doanh nghiệp dung tiền để mua sắm nguyên, nhiên vật liệu,

phụ tùng thay thế…dự trữ trong kho cho quá trình sản xuất ( tiền tệ đến
hiện vật)
● Giai đoạn trực tiếp sản xuất. Doanh nghiệp xuất các nguyên
vật liệu trong kho dự trữ của đơn vị đẻ đưa vào sản xuất thi công xây lắp.
Quá trình sản xuất dưới tác động của người lao động thông qua tư liệu lao
động đã biến nguyên, nhiên vật liệu…thành các sản phẩm hoàn chỉnh.
Vốn lưu động trong giai đoạn này chính là giá trị các sản phẩm đã hoàn
chỉnh và một số sản phẩm đang chế tạo dễ dàng, các bán thành phẩm.
Thời gian vốn lưu động dừng lại trong giai đoạn sản xuất gọi là thời gian
sản xuất.
● Kết thúc quá trình sản xuất. Doanh nghiệp tiến hành bàn
giao, thanh toán khối lượng sản phẩm để thu tiền về. Trong giai đoạn này,
vốn lưu động từ hình thái hàng hóa về hình thái tiền tệ. Thời gian vốn lưu
động dừng lại trong lưu thông gọi là thời gian lưu thông. Tổng thời gian
dự trữ sản xuất, thời gian sản xuất, thời gian lưu thông gọi là chu kỳ của
vốn lưu động.
1.2 Khái niệm thị trường vốn
Là một bộ phận của thị trường tài chính
Là thị trường diễn ra việc mua bán các chứng khoán dài hạn như cổ
phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị
trường cho thuê tài chính, các khoản cho vay thế chấp và chứng

khoán.Thị Trường Vốn là một thị trường nơi các tài sản tài chính có kỳ
hạn dài hoặc vô thời hạn. Không giống như các công cụ của thị trường
tiền tệ, công cụ của thị trường vốn đáo hạn trong khoảng thời gian trên
một năm. Thị Trường Vốn là một sự sắp xếp theo thể chế để vay và cho
vay tiền trong một khoảng thời gian dài hơn, bao gồm các tổ chức tài
chính. Các tổ chức này đóng vai trò bên cho vay còn các đơn vị kinh
doanh và tập đoàn là các bên đi vay trên thị trường vốn. Thị trường này
bao hàm nhiều công cụ khác nhau có thể được sử dụng cho các giao dịch
tài chính. Nó cung cấp nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu tài chính cho Chính
phủ và các doanh nghiệp.
2. Cấu trúc thì trường vốn
2.1 Thị trường cho vay dài hạn
Là thị trường chuyên cho vay cac món nợ dài hạn, trong đó bên vay
vốn (bên thế chấp) dùng tài sản là bất động sản, động sản thuộc sỏ hữu
của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm nợ gốc, lãi và
tiền phạt lãi quá hạn) đối với bên cho vay (gọi là bên nhận thế chấp). Điều
này có nghĩa rằng một cơ chế pháp lý được đưa ra cho phép người cho
vay để chiếm hữu và bán tài sản bảo đảm ("tịch thu" hay "lấy lại") để trả
khoản vay trong trường hợp người vay không trả được cho mượn hoặc
không tuân thủ các điều khoản của nó.
2.2 Thị trường cho thuê tài chính
Trang 11










Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông
qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết
mua máy móc thiết bị, phương tiên vận chuyển và các động sản khác theo
yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên
thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
được hai bên thoả thuận. Hoạt động thuê tài chính thường chọn phân khúc
khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc siêu nhỏ hoặc những doanh
nghiệp không có đủ khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hoặc không
thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán.
2.3 Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là lĩnh vực phong phú, đa dạng và rất phức
tạp; là nơi mua bán các chứng khoán và thường được thực hiện chủ yếu
tại sở giao dịch chứng khoán, một phần ở các công ty môi giới (công ty
chứng khoán), và cả ở thị trường chợ đen. Thị trường chứng khoán là một
bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của nó nhằm huy động
những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn
lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát
triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
Về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt
động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán; qua đó
thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán.
Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường sơ cấp
Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trong thị
trường sơ cấp, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành qua
việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
Thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh, giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt

ngân sách thông qua việc phát hành trái phiếu, có thêm vốn để xây dung
cơ sở hạ tầng. Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu ding
bằng cách giúp họ chọn thời điểm cho việc mua sắm của mình tốt hơn.
Thị trường thứ cấp
Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thị
sơ cấp. Thị trường đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã
phát hành. Đây là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát
hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các
mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng
năm, hưởng chênh lệch giá. Khác với thị trường sơ cấp, tiền bán chứng
khoán trên thị trường thứ cấp thuộc về các nhà đầu tư và nhà kinh doanh
chứ không thuộc về các công ty phát hành chứng khoán.
Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
● Thị trường chứng khoán tập trung( Sàn giao dịch)
Trang 12


Là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực
hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor). Các
chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch thông thường là chứng khoán
của những công ty lớn, có danh tiếng, đã qua thử thách của thị trường,
được tổ chức một cách chặt chẽ. Phương thức giao dịch tại Sở giao dịch là
phương thức đấu giá, trong đó các lệnh mua, bán được ghép với nhau để
hình thành giá cả cạnh tranh tốt nhất.
● Thị trường chứng khoán bán tập trung(UPCOM)
Upcom (Unlisted Public Company Market) là tên gọi của thị trường
giao dịch chứng khoán của các công ty đại chúng (CTĐC) chưa niêm yết
được tổ chức tại SGDCK Hà Nội. Thị trường UpCom được xây dựng dựa
trên nhu cầu phát triển TTCK nói chung tại Việt Nam, có các ý kiến tư
vấn của chuyên gia nước ngoài, có khung pháp lý cho thị trường đầy đủ,

tạo một cơ chế hoạt động vừa linh hoạt, vừa chặt chẽ, đem lại quyền lợi
chính đáng cho doanh nghiệp, bảo vệ lợi ích nhà đầu tư.
● Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
Là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán không
diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống máy vi tính nối
mạng giữa các thành viên của thị trường. Các chứng khoán được giao
dịch trên thị trường phi tập trung là chứng khoán của các công ty vừa và
nhỏ. Phương thức giao dịch tại thị trường OTC là phương thức thoả thuận,
giá cả chứng khoán được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các thành
viên của thị trường.
❖ Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường
Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị
trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ
chứng khoán phái sinh.
● Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và
mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
● Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và
mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái
phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
● Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: Thị trường các
chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ
tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn...

3. Đặc điểm
- TT vốn diễn ra quá trình chuyển dịch từ tư bản sở hữu sang tư bản
kinh doanh.
- Đối tượng của TT vốn là quyền sử dụng các nguồn tài chính dài hạn
đầu tư dài hạn vào sản xuất kinh doanh..
Trang 13



- Công cụ của TT vốn là các khoản vay hay các chứng khoán có thời
hạn trên
một năm tính thanh khoản thấp hơn, nhiều rủi ro.
4. Vai trò
4.1 Kênh dẫn vốn dài hạn cho nền kinh tế
Thị trường vốn là một kênh thu hút vốn đầu tư gián tiếp từ các nhà đầu
tư nước ngoài muốn đa dạng hóa danh mục đầu tư của họ. Nguồn vốn đầu
tư từ nược ngoài cho phép các công ty trong nước huy động vốn với chi
phí rẻ hơn, đồng thời làm tăng tính thanh khoản cho thị trường vốn trong
nước.
4.2 Tạo tính thanh khoản cho tài sản
Thị Trường Vốn là nơi luôn luôn có sẵn các cách thức đầu tư cho việc
đầu tư dài hạn. Đây là một thị trường có tính thanh khoản. Cả người mua
và người bán có thể dễ dàng mua và bán chứng khoán vì chúng luôn có
sẵn.
4.3 Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh
tế vĩ mô
Thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng của chính phủ.
Thị trường vốn cho phép chính phủ, các cơ quan của chính phủ phát hành
các loại trái phiếu để vay nợ nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách hoặc các
hoạt động của chính phủ. Thị trường vốn sẽ là một kênh để chính phủ vay
nợ tài trợ cho thâm hụt ngân sách, thay vì tài trợ thông qua vay nợ ngân
hàng trung ương hoặc vay nợ từ nước ngoài. Hoạt động của thị trường trái
phiếu chính phủ cũng giúp cải thiện việc thực thi chính sách tiền tệ thông
qua việc đạt được các mục tiêu về kiểm soát tiền tệ hay kiểm soát làm
phát đồng thời cho phép thực hiện các công cụ gián tiếp của chính sách
tiền tệ. Sự tồn tại của thị trường vốn cho phép chính phủ có thể điều tiết
được các chi phí đầu tư cũng như chi thường xuyên để tránh các cú sốc về

chi tiêu, đồng thời giảm chi phí vay nợ của chính phủ và giảm các rủi ro
khác liên quan tới vay nợ như rủi ro về lãi suất, tỷ giá.
4.4 Huy động tiết kiệm và hình thành vốn
Thị Trường Vốn là một nguồn quan trọng để huy động tiền tiết kiệm
nhàn rỗi từ nền kinh tế. Nó huy động vốn từ người dân để đầu tư thêm vào
các kênh sản xuất của nền kinh tế. Theo đó, Thị Trường Vốn kích hoạt các
nguồn lực tài chính lý tưởng và đặt chúng vào các khoản đầu tư thích hợp.
Thị trường vốn đóng góp công sức trong việc hình thành vốn. Thông
qua việc huy động các nguồn lực lý tưởng, nó sẽ tạo ra các khoản tiết
kiệm; các khoản tiết kiệm được huy động luôn sẵn sàng để sử dụng cho
các phân khúc khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp,… Điều này giúp
gia tăng sự hình thành vốn.
4.5 Tăng tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế
Thị Trường Vốn tăng cường sản xuất và năng suất trong nền kinh tế
quốc gia. Vì thị trường này khiến các quỹ có thể được tiếp cận trong thời
gian dài, các yêu cầu tài chính của các nhà kinh doanh sẽ được đáp ứng.
Trang 14


Nó cũng giúp ích trong việc nghiên cứu và phát triển, từ đó tăng sản
lượng và năng suất trong nền kinh tế bằng cách tạo công ăn việc làm và
phát triển cơ sở hạ tầng.
4.6 Ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ
thị trường vốn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều hoà
và lưu thông tiền tệ, cụ thể, trong thị trường vốn, tiền tệ được luân chuyển
theo các quỷ và các dự án tài chính một cách có trật tự, được quản lý chặt
chẽ bởi các nhà đầu tư cũng như nhà thầu dự án, bên cạnh đó, dòng tiền đi
vào cũng như đi ra khỏi thị trường vốn trong thời gian dài và tuân theo
các hợp đồng dài hạn nên sẽ hạn chế được hiện tượng rút vốn đột ngộ
hoặc đầu tư ồ ạt gây sốc cung, từ đó giúp đồng tiền hoạt động hiệu quả

hơn, mang về lợi ích tối đa cho nhà đầu tư

Chương II: Thực trạng thị trường vốn việt nam
I, Thực trạng chung
Theo đánh giá của Bộ Tài Chính, Quy mô của thị trường vốn những
năm gần đây có bước phát triển khá mạnh. Tính đến tháng 9/2016 đã có
4398 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, hơn 600 loại trái phiếu chính
phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp được
phát hành với tổng dư nợ trên tỷ đồng. Tính đến quý II năm 2016 , 1873
công ty đã thực hiện niêm yết cổ phiếu và đăng ký giao dịch với tổng vốn
điều lệ là 469,7 nghìn tỷ đồng và giá trị vốn hóa thị trường 1.270.607 tỷ
đồng
Đến cuối tháng 6, vốn tự có của toàn hệ thống đạt 605,8 nghìn tỷ đồng,
tăng 27 nghìn tỷ đồng (tương đương tăng 4,81%) so với cuối năm 2015.
PHẦNIII.

Trang 15


Ngoài số lượng các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính, kế
toán, kiểm toán tham gia cung cấp dịch vụ trên thị trường thì số lượng các
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ cũng tăng mạnh. Số lượng các
nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào thị trường chứng khoán ngày
càng tăng nhưng những trở ngại cũng như những mặt yếu kém về cơ cấu
vẫn bộc lộ rõ.
Trước hết, về điều hành chưa có sự thống nhất. Các chính sách liên
quan đến thị trường vốn còn chưa nhất quán và phức tạp, bao gồm chính
sách tiền tệ, lãi suất, chính sách tham gia của các ngân hàng, tổ chức tín
dụng vào thị trường vốn, chính sách đầu tư gián tiếp, cải cách doanh
nghiệp và quản trị doanh nghiệp; quản lý nợ công ...

Thứ hai, theo như đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài
nước, thị trường vốn Việt Nam có quy mô khiêm tốn, chưa phát triển
tương xứng với nhu cầu tăng trưởng vốn của thị trường cộng thêm
“nghèo” về sản phẩm, công cụ tài chính làm cho việc cung ứng vốn dài
hạn còn gặp nhiều khó khăn, điều này đã gây sức ép cung ứng vốn cho thị
trường tiền tệ, tạo ra rủi ro lớn cho nghành kinh tế
Không chỉ yếu về quy mô, phân phối trong thị trường vốn còn nhiều
điểm bất cân bằng. Thị trường vốn Việt Nam đang thể hiện sự bất cân
xứng. Cụ thể, theo số liệu của TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia ngân hàng,
tại thời điểm cuối tháng 6/2015, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng
chiếm 75% tổng tài sản hệ thống tài chính Việt Nam, khối chứng khoán
chiếm 23% và bảo hiểm chiếm 2%.

Thứ ba, thị trường tự do đang thiếu sự kiểm soát của nhà nước và
chiếm thị phần khá lớn. Cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp nhà nước đã cổ
phần hóa có quy mô lớn, bất cân đối, lại hoạt động trong những lĩnh vực
nhạy cảm như ngân hàng, truyền thông, điện lực, hàng hải. Các doanh
nghiệp này tự do giao dịch trên thị trường không chính thức, không công
khai minh bạch, tác động tiêu cực tới thị trường có tổ chức và gây ra bất
ổn cho cả hệ thống tài chính.
Thứ tư, sự tham gia ồ ạt của nhiều nhà đầu tư theo phong trào trong khi
nguồn cung lại hạn chế đã làm mất cân đối và cung cầu chứng khoán, đẩy
giá chứng khoán t vượt qua giá trị thực của doanh nghiệp, gây ra tình
trạng nóng trên cả thị trừng vốn.
Thứ năm, hoạt động tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng vẫn ở hình
thức truyền thống, không cải tiến. Một khối lượng lớn tải sản còn đang ở
dạng cầm cố, thế chấp vay vốn mà chưa được chứng khoán hóa. Do vậy,
khả năng huy động, thoát vốn và sự liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị
trường vốn còn nhiều hạn chế.
Trang 16



Thứ sáu, thị trường vốn tín dụng chính thống còn chịu nhiều ảnh
hưởng của tín dụng “đen” hay còn gọi là tín dụng ngầm. Thực tế cho thấy
rằng thời điểm nào ngân hàng hoạt động tốt thì tín dụng “đen” bị kiềm
chế và ngược lại. Những năm gần đây, một loạt các vụ vỡ nợ lên tới hàng
trăm tỉ đã xảy ra, điển hình có thể nhắc đến như vụ Tạ Việt Quang lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt khoảng 300 tỷ đồng xảy ra tại Đan Phượng
(Hà Nội); vụ Nguyễn Thị Dậu chiếm đoạt khoảng 200 tỷ đồng ở Hà
Đông, vụ Nguyễn Thị Hoàng Hoa, TP. Hồ Chí Minh tuyên bố vỡ nợ rồi
chiếm đoạt đến gần 500 tỷ đồng. Thực tế “tín dụng đen” không chỉ tồn tại
ngoài xã hội mà luôn tìm cách len lỏi vào ngân hàng dưới nhiều hình
thức biến tướng khác nhau. Điều này không chỉ khó khăn cho công tác
đấu tranh chống nạn “tín dụng đen” mà còn gây rủi ro cho chính các
ngân hàng kinh doanh chính thống.
II, Thị trường cho vay thế chấp
1, Thực trạng về vay thế chấp ở nước ta
Việt nam là một nước đang phát triển với quy mô về hệ thống tài chính
còn nhiều hạn chế. Theo luật định, tại khoản 2, Điều 52 Luật các tổ chức
tín dụng năm 1997 quy định: “Tổ chức tín dụng cho vay trên cơ sở có bảo
đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên
thứ ba; không được cho vay trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính tổ
chức tín dụng cho vay”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ
chức tín dụng năm 2004 sửa đổi khoản 2 nêu trên như sau: “Tổ chức tín
dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc
không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo
lãnh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về quyết định của mình…”. Như
vậy, có thể kết luận rằng, trước ngày 01/10/2004, cho vay thế chấp chưa
được thừa nhận trong hệ thống pháp luật về tín dụng, ngân hàng ở nước
ta.

Về lý thuyết, theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004,
các tổ chức tín dụng, ngân hàng đã được trao quyền tự chủ, được quyết
định cho vay thế chấp từ ngày 01/10/2004. Nhưng trên thực tế, cho vay
thế chấp ở nước ta vẫn chưa trở thành hiện thực. Rất ít ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng dám quyết định cho vay thế chấp đối với
khách hàng (ngoại trừ việc cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
điều này đã vô hình chung kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nước cũng như nước ngoài không có đủ vốn kinh doanh, đồng thời
nó cũng hạn chế thu hút đầu tư mới cũng như tái đầu tư trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, tiêu biểu có thể kể đến như : bất động sản, các sản phẩm
công nghệ cao đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn... Có thể giải thích sự kém
phát triển trong lĩnh vực cho vay thế chấp theo các nguyên nhân sau:
Một là, thị trường vốn ở nước ta còn nhỏ bé về quy mô. Cạnh tranh
trong hoạt động tín dụng còn chưa gay gắt. Vì vậy, chỉ với hình thức cho
Trang 17


vay có tài sản thế chấp, các ngân hàng và tổ chức tín dụng đã yên tâm và
thu lợi nhuận khá cao. Từ đó, thiết lập các quan hệ để áp dụng hình thức
cho vay tín chấp chưa phải là nhu cầu cấp bách của các ngân hàng và tổ
chức tín dụng.
Hai là, sự tín nhiệm giữa người cho vay và người vay không thể hình
thành ngay trong một sớm, một chiều mà đó là kết quả của một quá trình
trao . Từ cuối năm 2004 đến nay là khoảng thời gian ngắn, chưa đủ để tạo
ra sự tín nhiệm ở mức độ cao có thể cho vay tín chấp.
Ba là, kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Song, khi
xẩy ra rủi ro trong kinh doanh, phần lớn những vụ thất thoát do không thu
hồi được vốn vay đều bị hình sự hóa. Người cho vay bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, bị đi tù và chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh, thậm chí
là tan cửa, nát nhà. Do đó, ít có tổng giám đốc ngân hàng dám mạnh dạn

duyệt cho vay tín chấp.
Bốn là, các doanh nghiệp – khách hàng chủ yếu của ngân hàng và các
tổ chức tín dụng cũng chưa thật chú ý đến việc bảo đảm tín nhiệm trong
kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Tình trạng sử dụng
tiền vay không đúng mục đích và nguy hiểm hơn cả là vay ngắn hạn để
đầu tư dài hạn, vay đảo nợ vẫn xẩy ra ở khá nhiều doanh nghiệp. Hơn
nữa, thông tin về tình hình kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp thiếu
minh bạch là nguyên nhân đặc biệt quan trọng dẫn đến các ngân hàng và
tổ chức tín dụng không đủ lòng tin khi cho vay tín chấp.
Theo báo cáo, hiện nay cho vay thế chấp chiếm khoảng 55% tổng dư
nợ, tổng dư nợ cho vay trực tiếp bất động sản vào khoảng 115 nghìn tỷ
đồng, chiếm khoảng 9,5% tổng dự nợ cho vay của các ngân hàng thương
mại.
Thêm vào đó, giá bất động sản Việt Nam sụt giảm cũng không đều.
Những bất động sản nhỏ lẻ trong nội thành chỉ giảm khoảng 20%, còn
những dự án lớn ở ngoại thành thì mức sụt giảm có thể lên tới 35% - 40%.
Đây là một sự khác biệt rõ ràng trong phân khúc thị trường bất động sản,
khó khăn hiện nay của thị trường bất động sản chính là ở những dự án lớn
đó, chứ không phải là những khoản vay tiêu dùng của dân cư, của doanh
nghiệp có thế chấp bằng bất động sản, bởi giá của những khoản vay thế
chấp này không giảm nhiều và thực tế thì nhu cầu về bất động sản của
người dân là vẫn rất cao.
Ngân hàng Nhà nước không có một văn bản nào cấm các ngân hàng
thương mại cho vay bất động sản. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại
đều có những giải pháp ứng phó khi giá bất động sản xuống thấp, mà biện
pháp đơn giản nhất là tạm ngừng cho vay, thậm chí một số ngân hàng
thương mại còn có cả nghị quyết là ngừng cho vay bất động sản, cho vay
tiêu dùng.
Đây là một điểm hạn chế của các ngân hàng, bởi trong khi Ngân
hàng Nhà nước chưa thay đổi lãi suất cơ bản là 14%( trong khi giới hạn

lãi suất cho vay là 21%) thì cho vay bất động sản, cho vay tiêu dùng với
Trang 18


giới hạn cho vay cao sẽ bù lại được khoản cho vay doanh nghiệp. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc sẽ tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp,
còn các ngân hàng sẽ mất đi cơ hội để tái cấu trúc lãi suất theo rủi ro.

III, Thị trường cho thuê tài chính
1, Tổng quan về thị trường
Thị trường cho thuê tài chính ra đời và phát triển ở Việt Nam gần 20
năm ( từ năm 1996 đến nay) với sự ra đời của các công ty cho thuê tài
chính chủ yếu nằm trong sự quản lý của các ngân hàng thương mại lớn ở
nước ta. Nhưng theo như kết quả của một vài bài nghiên cứu đã cho thấy
dịch vụ này không được nhiều doanh nghiệp quan tâm như mong đợi,
điều này đồng nghĩa với việc sự phát triển của các công ty cho thuê tài
chính cũng trở nên khó khăn và đối mặt với tương lai không mấy sáng
sủa.
Cụ thể, theo một cuộc khảo sát 1.000 doanh nghiệp thuộc các ngành
nghề khác nhau cho thấy hơn 70% số doanh nghiệp trả lời rằng họ biết rất
ít và chưa bao giờ tìm hiểu dịch vụ thuê tài chính từ các công ty cho thuê
tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về loại hình dịch vụ tài chính
này, thậm chí có doanh nghiệp còn hiểu cho thuê tài chính như hoạt động
trả góp và không hiểu đây là nghiệp vụ cấp tín dụng, cũng như tính ưu
việt lẫn hiệu quả của nó
Từ khi thị trường chính thức được khởi tạo bằng sự ra đời của công ty
cho thuê tài chính (CTTC) Quốc tế Việt Nam (VILC) vào năm 1996, thì
tính đến thời điểm giữa năm 2015, theo NHNN, cả nước có 11 công ty
CTTC với giấy phép hoạt động còn hiệu lực. Trong số này có 7 công ty là
công ty con của các NHTM, 3 công ty 100% vốn nước ngoài và 1 công ty

trực thuộc tập đoàn Vinashin, nhưng hiện chỉ có 5 công ty cho thuê tài
chính còn hoạt động. Đó là công ty con của các ngân hàng: VietinBank,
Vietcombank, BIDV, ACB và Sacombank.
Theo thống kê của Hiệp hội CTTC Việt Nam (VILEA), trong tổng số 8
thành viên của Hiệp hội thì tính đến hết năm 2014, 4/8 công ty CTTC
hoạt động có hiệu quả và không có lỗ luỹ kế là: VietinBank Leasing,
Vietcombank Leasing, ACB Leasing và Sacombank Leasing. Các công ty
CTTC trong diện tái cơ cấu gồm: Vinashin Leasing, Agribank Leasing I
và Agribank Leasing II.
Hầu hết các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện đang hoạt
động tại hai trung tâm phát triển nhất đất nước là TP. Hồ Chí Minh và Hà
Nội. Các công ty này thuộc khối công ty con của NHTM tận dụng hệ
thống, mạng lưới và uy tín của ngân hàng mẹ để mở rộng phạm vi thông
Trang 19


qua uỷ thác đến các chi nhánh ngân hàng; nhận hỗ trợ hoạt động về vốn,
chiến lược kinh doanh và đôi khi là cả nguồn nhân lực từ ngân hàng mẹ.
Dễ thấy, các công ty CTTC phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn vốn và sự
phát triển mạng lưới của ngân hàng mẹ, phần lớn các công ty CTTC hiện
nay chủ yếu có mức vốn điều lệ chỉ trên 200 tỷ đồng, cao nhất là công ty
CTTC Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank Leasing) đứng đầu
hệ thống với mức vốn điều lệ 800 tỷ đồng.

Tổng tài sản có

Vốn tự có

Tỷ lệ an
toàn vốn

tối thiểu

Tỷ lệ cấp
tín dụng
so với
nguồn
vốn huy
động

3.35%

237.86%

Chi tiêu

Công ty
cho thuê
tài chính

Số tuyệt
đối

Tốc đột
tang
trưởng

Số tuyệt
đối

Tốc độ

tang
trưởng

62.985

-3.8%

2.22

-16.97

Nguồn : NHNN
Xét trường hợp của BIDV, Tại Đại hội đồng cổ đông năm 2015 mới
đây, BIDV đã chốt kế hoạch thành lập công ty tài chính tiêu dùng. Một
trong những phương án mà HĐQT đưa ra là chuyển đổi hoạt động công ty
cho thuê tài chính hiện có thành công ty tài chính tiêu dùng BIDV. Theo
nguồn tin của phóng viên Báo Đầu tư, dù là ngân hàng lớn, song thương
hiệu BIDV cũng không giúp được Công ty Cho thuê tài chính BIDV
(BLC) tránh khỏi nhiều năm thua lỗ. Lợi nhuận năm 2014 chưa được cập
nhật, song năm 2012, BLC lỗ tới 219 tỷ đồng. Năm 2013, BLC lãi vỏn
vẹn 27 tỷ đồng, thấp nhất trong số các công ty cho thuê tài chính đang
hoạt động có lãi trên thị trường.
Tương tự, ACB cũng vừa trình cổ đông thông qua việc thành lập công
ty tài chính với vốn điều lệ khoảng 500 tỷ đồng. Dự kiến, sau khi được
cấp phép thành lập, ACB sẽ xin phép Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sáp
nhập ACB Leasing vào Công ty Tài chính ACB. Hiện ACB Leasing vẫn
làm ăn có lãi, song lợi nhuận hầu như không tăng (từ 71 tỷ đồng năm
2012, xuống còn 69 tỷ đồng năm 2013). Dự kiến, sau khi thành lập công
ty tài chính ACB và sáp nhập ACB Leasing, lợi nhuận năm đầu của Công
ty là 69,4 tỷ đồng.

Trang 20


Như vậy, trong khi các công ty tài chính tiêu dùng đang phất lên với
“đặc quyền” cho vay tiêu dùng (tới đây, các ngân hàng cho vay tiêu dùng
phải thông qua công ty tài chính), thì ở chiều ngược lại, các công ty cho
thuê tài chính lại ngày càng gặp nhiều khó khăn. Đa số các công ty cho
thuê tài chính còn lại đều chung số phận: thua lỗ, hầu như phải ngừng
hoạt động để tập trung thu hồi nợ xấu, hoặc âm thầm đóng cửa. Có thể kể
tên một số doanh nghiệp rơi vào tình trạng này, như Công ty Cho thuê tài
chính Công nghiệp Tàu thủy Vinashin, ANZ - V/TRAC, Kexim…
Xét trường hợp của Vietcombank, trong những năm trở lại đây,
Vietcombank Leasing liên tục có những bước bứt phá ngoạn mục, từ chỗ
kinh doanh thua lỗ 13 tỷ đồng, nợ xấu cao gần 20% năm 2007, đến hết
năm 2012, lợi nhuận trước thuế của công ty đã tới 63,9 tỷ đồng, nợ xấu
giảm xuống còn trên 4%, tổng tài sản 1.651 tỷ đồng, tổng dư nợ cho thuê
tài chính 1.346 tỷ đồng...Vietcombank Leasing đã có trên 400 khách hàng,
trong đó nhiều khách hàng có thương hiệu lớn, uy tín như: Tập đoàn Công
nghiệp Than- khoáng sản Việt Nam, Công ty thực phẩm Hữu Nghị, Công
ty thép Nhật Quang, Công ty nền móng và công trình ngầm- FECON,
Công ty CP tập đoàn Hoa Sen, Công ty đầu tư Thái Bình, Công ty
Hyundai Aluminum Vina 100% vốn Hàn Quốc... Đây là một trong số ít
các công ty CTTC ở nước ta có chiến lược hoạt động thành công và thu
về lợi nhuận cao. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính ở nước ta tiềm
ẩn rủi ro rất cao, vì hàng lang pháp lý còn lỏng lẻo. Hiện rất nhiều doanh
nghiệp sau khi thuê tài sản của các công ty cho thuê tài chính đã tẩu tán
tài sản hoặc chần chừ không muốn trả lại tài sản, chiếm giữ tài sản trái
phép hoặc trả lại trong tình trạng tài sản hư hỏng nặng. Chưa kể, huy động
vốn cũng đang là bài toán khó với các công ty cho thuê tài chính hiện nay.
Tổng dư nợ và tài sản có của loại hình này đang ngày càng giảm. Đặc

biệt, giá trị vốn tự do đang suy giảm trầm trọng, và có những công ty đã
âm vốn chủ sở hữu với số tiền khá lớn. điều này thể hiện rõ sự yếu kém
trong cách quản lý cũng như việc xem xét đầu tư không mấy hiệu quả vào
các dự án không mấy tiềm năng gây thất thoát lượng vốn lớn của nhà đầu

IV, Thị trường chứng khoán
1, định hướng phát triển
Nước ta là một nước đang phát triển có tiềm năng kinh tế lớn, thu hút
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, cùng với đó là sự phất lên mạnh mẽ
của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua, tuy nhiên, cơ hội
phát triển luôn đồng hành cùng với những thách thức.Vì vậy, mục tiêu của
thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong giai đoạn tới được đặt ra
như sau:
 Một là, phát triển TTCK đồng bộ, toàn diện, hoạt động hiệu quả,
vận hành an toàn, lành mạnh, vừa góp phần huy động vốn cho
đầu tư phát triển của xã hội vừa tạo ra những cơ hội đầu tư sinh
lợi, góp phần nâng cao mức sống và an sinh xã hội.
Trang 21


 Hai là, phát triển TTCK phải dựa trên chuẩn mực chung của thị
trường và các thông lệ quốc tế tốt nhất, phù hợp với điều kiện
thực tế và định hướng phát triển kinh tế – xã hội của đất nước,
tích cực hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
 Ba là, phát triển TTCK nhiều cấp độ, bảo đảm chứng khoán
được tổ chức giao dịch theo nguyên tắc thị trường, có sự quản
lý, giám sát của Nhà nước; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và
có chính sách khuyến khích các chủ thể tham gia thị trường
chứng khoán.
 Bốn là, đa dạng hóa các sản phẩm, nghiệp vụ của thị trường,

đảm bảo cho các tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán hoạt
động an toàn, hiệu quả dựa trên nền tảng quản trị rủi ro và phù
hợp với các chuẩn mực chung và thông lệ quốc tế. Từng bước
tái cơ cấu hệ thống các trung gian thị trường trên nguyên tắc
không gây xáo trộn lớn và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của các thành viên thị trường.
 Năm là, phát triển TTCK trong mối tương quan với việc phát
triển thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, nhằm tạo ra một hệ
thống thị trường tài chính thống nhất, đồng bộ có sự quản lý,
giám sát của nhà nước. Hoạt động quản lý, giám sát, điều hành
và phát triển của các cơ quan quản lý nhà nước phải thống nhất
về mục tiêu, mục đích, định hướng và giải pháp thực hiện.
 Sáu là, chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế, nâng cao
khả năng cạnh tranh, từng bước thu hẹp về khoảng cách phát
triển giữa TTCK Việt Nam so với các thị trường khác trong khu
vực và trên thế giới.
2, Tình hình thị trườngchứng khoán việt nam năm 2015
a, Tình hình thị trường chứng khoán việt nam năm 2015
Tính hết năm 2015, vốn hóa thị trường đạt hơn 1298,53 nghìn tỷ đồng.
Trong đó, vốn hóa trên sàn TP.HCM (HOSE) đạt 1.146,9 nghìn tỷ đồng,
vốn hóa trên sàn Hà nội(HNX) đạt hơn 151,6 nghìn tỷ đồng. Năm 2015,
tổng khối lượng giao dịch trên thị trường đạt gần 39,7 tỷ cổ phiếu, tương
ứng giá trị giao dịch đạt hơn 617 nghìn tỷ đồng, giảm 16,3% về khối
lượng và 15,8% về giá trị giao dịch của năm 2014.
Trên sàn HOSE, VN-Index tăng 4,13% so với cuối năm trước tổng
khối lượng giao dịch đạt hơn 28 tỷ cổ phiếu (giảm 7,6% so với năm
2014), tương ứng giá trị giao dịch đạt trên 482 nghìn tỷ đồng (giảm 9,6%
so với năm 2014).
giá trị giao dịch cũng giảm 32,3% xuống mức hơn 135 nghìn tỷ
đồng.Trên sàn HNX, chiều ngược lại được chứng kiến khi HN-Index

giảm 4,62% so với thời điểm cuối năm 2014 tổng khối lượng giao dịch
trong năm 2015 đạt trên 11,55 tỷ cổ phiếu (giảm mạnh 32% so với năm
2014), tổng
Trang 22


Diễn biến trên TTCK trong năm 2015 có thể chia làm 3 giai đoạn
chính: từ đầu năm đến giữa tháng 5, từ giữa tháng 5 đến cuối tháng 8 và
từ cuối tháng 8 tới tháng 12.
Gia đoạn đầu, thị trường đã có những phiên tăng điểm hết sức ấn
tượng, giúp VN-Index và HNX-Index liên tục tạo đỉnh trong đầu năm
2015. Dấu ấn rõ nét nhất đến từ các cổ phiếu ngành ngân hàng. Bên cạnh
đó, nhóm các cổ phiếu dầu khí, nổi bật là GAS và PVD, cũng tăng mạnh
sau đợt giảm sâu khi các thông tin về giá dầu thế giới đã trở nên bão hòa.
Tuy nhiên, khi bước sang tháng 3, xu hướng thị trường lại khá tiêu cực
khi thiếu vắng các thông tin hỗ trợ, đánh mất hoàn toàn những nỗ lực
phục hồi trước đó, khiến cho xu hướng giảm kéo dài đến giữa tháng 5,
kéo thị trường về lại mốc đầu năm.
Giai đoạn thứ hai, với sự dẫn dắt của nhóm cổ phiếu Ngân hàng, tiếp
đến là nhóm cổ phiếu Dầu khí, thị trường đã quay trở lại xu hướng tăng
điểm. Đà tăng được duy trì và nhanh chóng mở rộng ra toàn thị trường khi
các nhóm cổ phiếu dẫn dắt luân phiên nhau tăng điểm. VN-Index đạt mốc
cao nhất trong năm 2015 với 638,69 điểm vào ngày 14/7/2015. Bước sang
tháng 8, những tác động từ việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ đã
ảnh hưởng mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư, khiến thị trường hoàn toàn
sụp đổ khi VN-Index đánh mất hơn 10% so với mốc cao nhất đạt được
trong tháng 7 (tương ứng với hơn 65 điểm). Con số sụt giảm trên sàn Hà
Nội thậm chí còn nặng nề hơn khi HNX-Index mất gần 12% so với điểm
số cao nhất đạt được trong tháng 7 (tương ứng hơn 10 điểm).
Giai đoạn thứ ba, những tác động tích cực từ kết quả kinh doanh quý

III cùng với việc hiệp định TPP đã kết thúc đàm phán giúp thị trường dần
lấy lại được điểm số. Tuy nhiên, sự phục hồi của hai sàn vẫn còn khá thấp
so với mức cao nhất mà thị trường đạt được vào giữa tháng 7. Điểm sáng
nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2015 là việc khối
ngoại đẩy mạnh việc mua ròng 7/12 tháng trên cả HOSE và HNX, ngay
cả khi thị trường giảm điểm thì sức mua của khối ngoại vẫn là rất lớn.
Đây là dòng tiền có tác động không nhỏ đến xu hướng của thị trường.
3, Tình hình thị trường chứng khoán việt nam nửa đầu 2016
Trong 8 tháng đầu năm, mặc dù chịu nhiều tác động bởi tình hình
thế giới, TTCK Việt Nam vẫn đã hồi phục nhanh chóng và duy trì được
tốc độ tăng trưởng khá. Chỉ số VNIndex đã đạt mức đỉnh trong 8 năm trở
lại đây (kể từ tháng 3/2008), thanh khoản tăng mạnh, mức vốn hóa thị
trường đạt mức cao nhất trong 6 năm trở lại đây. TTCK Việt Nam được
đánh giá là 1 trong 05 thị trường thế giới có mức tăng trưởng cao nhất và
có mức sinh lời lớn nhất trong quý II/2016 tại khu vực Đông Nam Á. 8
tháng đầu năm 2016, TTCK đã đạt được những kết quả nhất định.
a, Về tình hình thị trường:
Tính đến ngày 23/8, chỉ số VN-Index đã tăng 13,8%, HNX-Index tăng
4% so với cuối năm 2015; Mức vốn hóa thị trường đạt 1.590 nghìn tỷ
đồng, tương đương 38% GDP (tăng 17% so với cuối năm 2015). Thanh
Trang 23


khoản thị trường tăng mạnh, giao dịch bình quân 1 phiên đạt gần 6.200 tỷ
đồng, tăng 25% so với năm trước; trong đó giao dịch trái phiếu Chính phủ
tăng 34%; giao dịch cổ phiếu tăng 16% so với năm trước.
b, Về tình hình huy động vốn, đấu giá:
Huy động vốn 7 tháng đầu năm đạt gần 254,5 nghìn tỷ đồng, ước tăng
81%. Đấu giá CPH cho 58 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) với tổng giá
trị đạt 5.291 tỷ đồng, tăng 75% so với cùng kỳ năm trước; 21 đợt đấu giá

thoái vốn Nhà nước với tổng giá trị 1.899 tỷ đồng, tăng 112%.
c, Về hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài:
Trong 6 tháng đầu năm nay, dòng vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt
Nam là 722 triệu USD, tăng 3,5 lần so với cùng kỳ năm 2015. Giá trị
danh mục của nhà đầu tư nước ngoài đạt trên 16 tỷ USD - mức cao nhất
từ trước đến nay.
d, Về thị trường trái phiếu:
Để phát triển thị trường TPDN, UBCKNN đang phối hợp xây dựng
khung pháp lý cho TPDN (2016-2017) và triển khai hoàn chỉnh hạ tầng
thị trường giao dịch, hỗ trợ thanh khoản, thông tin thị trường. Đối với thị
trường TPCP, UBCKNN cũng đang phối hợp NHNN triển khai đề án
chuyển chức năng thanh toán tiền trái phiếu Chính phủ từ ngân hàng
thương mại sang Ngân hàng Nhà nước.
e, Về thị trường Upcom:
Quy mô tăng nhanh, đã tăng gấp 10 lần so với 2009 (303 DN) do vậy
đã thực hiện phân bảng trên Upcom, rà soát lại theo hướng thắt chặt điều
kiện được đăng ký giao dịch trên Upcom.
f, Về công tác nâng hạng thị trường:
Hiện nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cũng đang triển khai các
giải pháp để nâng hạng thị trường. Về cơ bản đã tháo gỡ 1 số tiêu chí
quan trọng như: nới room; đơn giản hóa thủ tục đăng ký, mở tài khoản
cho nhà đầu tư nước ngoài, ...
g, Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam năm
2016
 Chính sách của Nhà nước
Thông tư 07/2016/TT-BTC (được Bộ Tài chính ban hành ngày
18/1/2016 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 210/2012/TTBTC theo hướng siết chặt hơn hoạt động của các Công ty Chứng khoán,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/3/2016), việc không cho phép các
Công ty Chứng khoán sử dụng tiền, tài sản của công ty hoặc khách hàng
để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho bên thứ ba có thể gây ảnh hưởng đến

dòng tiền cho vay hoạt động bên lề đối với các mã nằm ngoài hoặc cao
hơn tỷ lệ quy định trong danh mục cho vay của Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước (UBCKNN).
 Xu hướng biến động theo chiều tăng lên của lãi suất ngân hàng
Đây là xu hướng khó tránh khỏi trong năm 2016 do nhiều nguyên nhân
(áp lực phát hành trái phiếu Chính phủ và lạm phát quay trở lại, sự phục
Trang 24


hồi của giá dầu và đà đi lên của giá lượng thực, thực phẩm...) và đây
chính là thông tin tương đối tiêu cực đối với TTCK. Nguyên nhân: lãi suất
huy động tăng sẽ kéo dòng tiền từ TTCK chảy vào kênh tiền gửi tiết kiệm,
lãi suất cho vay tăng cũng khiến chi phí tài chính các DN chịu ảnh
hưởng…Nếu lãi suất cho vay tăng 1% thì TTCK sẽ mất hơn 20 điểm
nhưng với độ trễ trung bình là 3 tháng.
“Mặc dù về tổng thể TTCK Việt Nam giảm điểm nhẹ trong quý 1, tuy
nhiên xu hướng hồi phục đã quay trở lại kể từ nửa cuối tháng 1 cho đến
nay và nhịp tăng chỉ chững lại khi chỉ số VN-Index tiệm cận ngưỡng 580
điểm. Đây là vùng điểm trung bình của năm 2015 nên có ý nghĩa kháng
cự khá mạnh, khiến thị trường xảy ra các phiên điều chỉnh mạnh.
Mặc dù vậy, với cơ hội mở rộng đà hồi phục của giá dầu, sự trì hoãn
trong quyết định tăng lãi suất của FED và những tác động có độ trễ trong
xu hướng tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại, hoặc ở phạm vi hẹp
của Thông tư 07, thị trường được kỳ vọng sẽ tiếp tục có nhịp tăng điểm,
vượt đỉnh quý 1/2016 thành công, hướng tới vùng đích kỳ vọng kế tiếp
trên 600 điểm trong nửa đầu quý II trước khi có thể đảo chiều điều chỉnh
vào nửa sau của quý”.
 Giá dầu trong nước và quốc tế
Giá dầu thô có thể sẽ tiếp tục chi phối thị trường tài chính toàn cầu nói
chung và TTCK Việt Nam nói riêng trong các quý tiếp theo. Còn riêng

trong quý 2, giá dầu thô thế giới sẽ chịu ảnh hưởng bởi 2 yếu tố chính.
Về cung, đó là cuộc họp giữa các nước xuất khẩu dầu lớn trên thế giới
sẽ diễn ra tại Doha (Qatar) vào ngày 17/4 tới nhằm kiềm chế sản lượng để
giảm bớt tình trạng mất cân đối cung cầu.
Về cầu, sức tiêu thụ dầu trên thế giới được nhận định sẽ giảm bởi sự
sụt giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc do nước này chiếm tới 15%
quy mô toàn cầu. Dự đoán giá dầu sắp tới, nhiều khả năng giá dầu sẽ hồi
phục nhẹ lên vùng quanh 45 USD/bbl hoặc tiếp tục giằng co điều chỉnh
cho đến khi có thêm động thái mới của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
mỏ (OPEC).
 Chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ
Biên bản cuộc họp được công bố vào ngày 6/4/2016 của Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) cho thấy sẽ chỉ có 2 lần nâng lãi suất diễn ra trong
năm 2016. Và lần gần nhất nhiều khả năng sẽ diễn ra vào kỳ họp tháng 6
thay vì kỳ họp ngày 27/4 do FED lo ngại các mục tiêu kinh tế Mỹ có thể
ảnh hưởng, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hồi phục yếu. Bên cạnh đó,
đợt tăng lãi suất của FED trong tháng 12 vừa qua cũng đã tác động mạnh
đến TTCK toàn cầu cũng là yếu tố khiến FED phải cân nhắc kỹ lưỡng và
áp dụng chính sách tiền tệ ôn hòa để kịch bản trên không lặp lại. Với dự
đoán về chính sách tiền tệ ôn hòa của FED, BVSC cho rằng đồng USD
nhiều khả năng sẽ nằm trong xu hướng giảm vào giai đoạn đầu quý 2, qua
đó hỗ trợ cho giá hàng hóa và TTCK. Mặc dù vậy, xu hướng có thể bị đảo
ngược vào nửa sau của quý khi mà sự chú ý của thị trường tập trung vào
Trang 25


×