Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA, CÁ BASA VÀ BẢO HỘ THƯƠNG MẠI MỸ TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.61 KB, 20 trang )

Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

MỤC LỤC

Nhóm 15


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ
chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể nào đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá
trình phát triển kinh tế của mình. Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hóa. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ngày càng có
uy tín trên thị trường thế giới, thì đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của
nước ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra hàng
rào bảo hộ, ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu vào thị trường của nước họ.
Mặt hàng cá tra, cá basa là một ví dụ điển hình. Bài tiểu luận dưới đây xin đề một số
vấn đề cơ bản về bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào các thị trường tiềm năng –
cụ thể ở đây là Mỹ và bài học rút ra sau vấn đề.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

B. NỘI DUNG
Phần 1: Hoạt động xuất nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam sang Mỹ trước


vụ kiện bán phá giá (1999 – 2009)

1. Hoạt động xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ
Dựa trên những cơ hội của lệnh cấm vận nâng lên do Hoa Kỳ vào năm 1995 và
Hiệp định đã ký kết, các nhà xuất khẩu Việt đẩy mạnh thâm nhập vào thị trường Hoa
Kỳ, đặc biệt là đối với philê cá tra đông lạnh với những lợi thế của chi phí sản xuất
thấp (Ví dụ như lao động) và giống giá rẻ. Tăng trưởng của cá tra Việt Nam và ngành
công nghiệp sản xuất cá basa,(được thể hiện qua Bảng 1) dẫn đến sự gia tăng khối
lượng xuất khẩu cá tra philê đông lạnh vào thị trường Mỹ với mức tăng trưởng trung
bình hàng năm là 157% từ năm 1996 đến 2002.Theo chương trình hài hòa thuế quan
của Mỹ, nhập khẩu cá tra philê đông lạnh từ các nước có quan hệ thương mại bình
thường với Hoa Kỳ được hưởng mức thuế bằng không phần trăm. Tuy nhiên, cá philê
trọng chuyển từ các nước không có quan hệ thương mại bình thường phải chịu mức
thuế là 4,4 cent cho mỗi kg. Như vậy, tính đến ngày có hiệu lực của Hiệp định giữa VN
và Mỹ, thuế nhập khẩu là 4,4 cent / kg đã được áp dụng đối với cá tra, basa philê. Qua
đó, với giá xuất khẩu trung bình 3,13 USD / kg, mức thuế này khoảng 1,4 phần trăm
trên giá trị nhập khẩu. Tuy nhiên, từ tháng 12 năm 2001 trở đi,nó đã có không còn là
thuế quan trên sản phẩm.
Kim ngạch xuất khẩu cá da trơn phile của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt giá trị lớn
và có mức độ tăng tưởng rất cao qua các năm từ 1996-2002.
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002

Kim ngạch xuất khẩu (USD)

455.880
1.369.428
4.295.350
13.370.882
29.667.246
38.286.449
62.777.855

Tỉ lệ tăng trưởng (%)
200
214
211
122
29
64


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Lần đầu tiên trong lịch sử, cá tra và cá basa công nghiệp Việt mạnh làm rung
chuyển các ngành công nghiệp cá da trơn Mỹ, được minh họa bằng sự tăng trưởng của
thị phần nhập khẩu của Việt Nam sang Mỹ lên tới 17,34% vào năm 2002, từ 0,14% vào
năm 1996 như trong bảng 2.

Mặc dù Mỹ mở một rào cản thương mại đối với Việt Nam,nhưng điều này không
thể giúp Mỹ đạt được một tình hình thị trường tốt hơn. Ngược lại,thị trường cá tra fillet
đông lạnh của Mỹ trở nên tồi tệ, do chiến lược giá của các nhà xuất khẩu và nhà chế
biến Việt Nam giảm giá liên tục từ 4,65USD / kg trong 1996-2,99 USD / kg vào năm

2002. Giá Việt đã ở mức thấp nhất trong năm 2001. Đối phó với tình hình thị trường
suy giảm, Mỹ dựng lên một rào cản thương mại đối với Việt Nam bằng cách áp đặt
thuế chống bán phá giá. Điều này gây ra sự sụt giảm thị phần xuất khẩu cá basa Việt
Nam và cá tra trong năm 2002 từ 75% còn 67%. Thị phần cho nhu cầu trong nước
tăng từ 25% năm 2001 lên 33% vào năm 2002, do sự "Catfish chiến" giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ. Rõ ràng rằng một số nhà xuất khẩu và nhà sản xuất đã đa dạng hóa và nhắm
vào thị trường trong nước thông qua cao hơn các sản phẩm giá trị gia tăng. Dưới đây là
cơ cấu kim ngạch xuất khẩu cá philê đông lạnh của Việt Nam năm 2000 theo doanh
nghiệp.
Tên doanh nghiệp
Agifish (Cty CP)
Vĩnh Hoàn (Cty TNHH)
Catafex (DNNN)
Afiex (DNNN)
Cataco (DNNN)
Nam Việt (Cty TNHH)
Doanh nghiệp khác

Tỉ trọng
40%
25%
10%
9%
6%
5%
5%


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế


Nhóm 15

2. Hoạt động nhập khẩu cá tra, cá basa tại Mỹ và phần trăm kim ngạch nhập
khẩu đối với hàng của Việt Nam
Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA-ERS 2016), khối lượng cá
da trơn nhập khẩu vào Mỹ tăng "chóng mặt" trong những năm gần đây. Năm 1999
lượng cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ chỉ ở mức 3,451 triệu pao, sau 10 năm đã tăng gần
10 lần, đạt 30,105 triệu pao. Đến năm 2006 lượng cá da trơn nhập khẩu vào thị trường
này lại tăng hơn gấp đôi năm 2005, đạt 74,964 triệu pao và năm 2007 đạt 84,605 triệu
pao. Năm 2009, khối lượng cá da trơn nhập khẩu đã đạt mức đỉnh tính từ năm 1999 với
khối lượng 129,38 triệu pao. Lượng cá da trơn nhập khẩu nhiều nhất vào quí 4 với
38,358 triệu pao tiếp theo là quý 3 35,017 triệu pao, quý 2 với 30,717 triệu pao và ít
nhất là quý 1 với 25,288 triệu pao vào năm 2009.
Số liệu nhập khẩu cá da trơn ở Mỹ từ 1999-2009 ( Số liệu từ USDA-ERS)
Năm
1999
2000
2001

Loại
Catfish
Catfish
Catfish

Nguồn
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu

2002

2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009

Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish

Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu
Nhập khẩu

Đơn vị
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds

1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds

Khoảng
3451
8236
18079
10201
5430
9224
30105
74964
84605
102428
129380

Mặc dù, Mỹ nhập khẩu cá da trơn từ nhiều nước như Inđônêxia, Trung Quốc,
Mêhicô, Thái Lan, Việt Nam nhưng cá da trơn từ Việt Nam vẫn chiếm ưu thế hơn cả.
Năm 1998, khi gia nhập APEC, lượng xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường Hoa Kỳ chỉ
ít ỏi với hơn 200 tấn. Nhưng đến năm 2002, số lượng xuất khẩu cá tra, basa vào thị
trường Hoa Kỳ đã lên đến gần 20.000 tấn sau khi Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt Nam và ký
Hiệp định thương mại song phương vào tháng 12/2001.



Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Việc gia tăng nhanh chóng này ngoài lý do hàng rào thuế quan đối với sản phẩm
thủy sản gần như đã được bãi bỏ (khi thuế nhập khẩu chỉ là 0%) còn có lý do nguồn
cung cấp cá tra, basa tăng nhanh chóng sau khi Việt nam đã thành công trong việc ứng
dụng kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo trên cả hai đối tượng cá tra, cá basa và kỹ thuật
nuôi cá tra thịt trắng.
Tuy nhiên đến năm 2003, khi cá tra đông lạnh Việt Nam bị Hoa Kỳ áp thuế chống
phá giá, lượng cá da trơn nhập khẩu vào Mỹ lập tức giảm rõ rệt, sản lượng nhập khẩu
chỉ còn 5,43 triệu pao.

Hình I.2.1 Các quốc gia nhập khẩu cá tra cá basa và tỉ trọng qua các năm
Cũng theo số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ ( USDA-ERS 2016), sản lượng cá da
trơn nuôi chế biến tăng dần đều qua các năm từ 1999 đến 2003. Sản lượng đạt mức
đỉnh vào năm 2002 và 2003 với 630,601 triệu pao và 661,504 triệu pao. Tuy nhiên, giá
cá trả cho người nuôi lại đạt thấp nhất, lần lượt là 56,8 xen/pao và 58,1 xen/pao. Trong
khi đó, giá cá trung bình trả cho người nuôi đạt cao nhất là 78,4 xen/pao vào năm 1994
nhưng sản lượng cá da trơn nuôi chế biến lại ở mức thấp nhất.
Sản lượng cá trơn nuôi chế biến ở Mỹ từ 1999-2009 ( Số liệu từ USDA-ERS)
Năm
1999
2000
2001
2002
2003
2004

Loại

Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish

Nguồn
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ

Đơn vị
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds

Khoảng
596628
593603
597108
630601
661504
630450



Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế
2005
2006
2007
2008
2009

Catfish
Catfish
Catfish
Catfish
Catfish

Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ
Nuôi chế biến ở Mỹ

Nhóm 15
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds
1,000 Pounds

600670
566131

496246
509597
466100

Từ năm 2004 đến cuối năm 2009 sản lượng có dấu hiệu giảm dần, trong đó năm
2008 sản lượng cá da trơn nuôi chế biến tại Mỹ chỉ còn 509,597 triệu pao, thấp hơn so
với sản lượng của các năm từ 1999 đến 2006 . Đến năm 2009 thì sản lượng cá da trơn
nuôi chế biển chỉ còn 466,1 triệu pao.
Việc gia tăng nhập khẩu các loại cá da trơn và những lại cá như basa tra khiến cho
sản lượng cá da trơn nuôi chế biến tại các trang trại ở Mỹ bị giảm sút. Sức ảnh hưởng
của việc nhập khẩu là rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến thị trường cá da trơn trong toàn
nước Mỹ.Năm 2009 nhập khẩu đạt mức 129,38 triệu pao trong đó Việt Nam chiếm đến
66%, Thái Lan 11% và Trung Quốc là 18%.
Phần 2: Vụ Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ

1. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện:
Thông qua các vòng đàm phán GATT/WTO, các rào cản thuế quan đã bị cắt giảm
đáng kể trên toàn thế giới, nhưng biện pháp chống phá giá, như là một rào cản phi thuế
quan, đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng. Do được cho phép bởi WTO, công
cụ chống phá giá đang được sử dụng ngày càng nhiều ở các quốc gia trên thế giới
nhắm đến nhiều sản phẩm khác nhau. Kể từ năm 1980, để đối phó với sự cạnh tranh
gay gắt từ các sản phẩm nhập khẩu, các nhà sản xuất Mỹ liên tục tìm kiếm các biện
pháp bảo hộ thương mại. Với điều luật bổ sung Byrd cho phép người đi kiện của Mỹ
trong các vụ kiện bán phá giá được lãnh tiền bồi thường cho những tổn thất mà họ phải
gánh chịu, biện pháp chống phá giá ngày càng được sử dụng nhiều ở quốc gia này.
Nghề nuôi cá nheo là một trong những ngành sản xuất thủy sản lớn nhất của Mỹ
và sản phẩm cá phi lê đông lạnh là sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp chế biến cá


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế


Nhóm 15

da trơn Mỹ. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ vào năm
1996. Năm 1998, lượng cá lát catfish không xương đông lạnh của Việt Nam xuất sang
đây mới chỉ có 260 tấn. Nhưng đến cuối năm 2001, con số ấy đã vọt lên 7.746 tấn. Với
giá thành rẻ hơn từ 0,08 đến 1USD/pound và chất lượng không thua kém catfish Mỹ,
cá Việt Nam đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiêu thụ catfish của Mỹ, bằng chứng
là tổng giá trị catfish bán ra của Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ(CFA) giảm mạnh,
từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Dưới sự cạnh tranh
ngày càng mạnh mẽ từ các sản phẩm cá của Việt Nam, CFA đã phải hành động nhằm
đánh bật con cá của Việt Nam ra khỏi thị trường Mỹ. Họ cho rằng:
+ Cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô nhiễm, không đảm bảo chất
lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng. Phía CFA yêu cầu sản phẩm
cá da trơn không được gọi là catfish, vì như vậy là vô hình chung ăn theo uy tín
của cá nheo Mỹ, cái uy tín mà họ mất nhiều năm trời và đổ bao tiền của mới tạo
dựng được.
+ Phó chủ tịch điều hành CFA Hugh Warren quy chụp cho những lô cá xuất
khẩu của Việt Nam là những sản phẩm rẻ tiền, kém chất lượng mà người ta
không thể tìm thấy ở một xưởng sản xuất cỡ gia đình như các trại cá của Mỹ.
Ông này cho rằng, mặc dù sản phẩm rẻ tiền của Việt Nam đang chiếm tới 20%
thị phần và hấp dẫn những nhà hàng, khách sạn, nhưng “ những nhà hàng, khách
sạn này chỉ quan tâm tới giá cả chứ chẳng để ý đến chất lượng của sản phẩm”.
Phóng viên Timothy nhận xét một cách khách quan rằng, những người nuôI cá
catfish Mỹ không thể chạy đua về giá với sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam bởi
chi phí đầu vào (đặc biệt là về nhân công và thuế ) quá cao. Trước sức ép của cá
da trơn đến từ Việt Nam, giá catfish Mỹ đã rớt thê thảm, từ 0.74 USD/ pound
năm 2000 xuống còn 0.58 USD, thậm chí có lúc chỉ khoảng 0.2 USD/ pound.
Theo Phó chủ tịch Warren: “ Mức giá như vậy không đủ bù cho chi phí sản xuất.
ít nhất phải bán được 65-70 cent/ pound, may ra người nuôi cá mới có thể hoà

vốn”


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Bên Việt Nam cũng đưa ra rất nhiều dẫn chứng ủng hộ việc giá thành cá basa xuất
khẩu sang bên Mỹ không cao:
+ Nhờ "không ngừng cải tiến, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất giống, nuôi, phòng và chữa bệnh cũng như chế biến". Tại vùng Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL), cá tra, basa chủ yếu được nuôi trong lồng bè hoặc
đăng quầng trên sông. Cá cũng được nuôi trong ao, nhưng năng suất và chất
lượng không cao. Mỗi nhà bè nuôi cá, cũng đồng thời là nơi sinh hoạt của một
hộ gia đình với đầy đủ tiện nghi. Bè cũng là nơi chứa nguyên liệu và là nơi chế
biến thức ăn cho cá. Nhờ vậy, người nuôi cá không mất tiền thuê ao để nuôi cá,
không cần thuê nhà ở. Tuy nhiên, vốn đầu tư để đóng 1 lồng bè 50-60 tấn mất
khoảng 200 triệu đồng (5m x15m x5m) cũng khá lớn. Song bù lại có thể khấu
hao 6 -10 năm và chỉ cần lãi vài năm là hoàn vốn. Cá biệt có những bè lớn cho
sản l ượng 150-200 tấn, trị giá cả tỷ đồng. Từ 2 tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long
là An Giang và Đồng Tháp, nghề nuôi 2 loài cá da trơn này đã lan rộng sang các
tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre và cả Thành phố Hồ Chí Minh.
Điều đó cho thấy hiệu quả mang lại từ nghề nuôi cá tra, basa rất lớn.
+ Một lợi thế khác mà nghề nuôi cá nheo ở đồng bằng sông Mississippi khó có
thể sánh được là khí hậu ở ĐBSCL rất thích hợp cho sự sinh trưởng quanh năm
của cá không như ở Mỹ cá rất chậm lớn về mùa đông. Cá nheo Mỹ sau 18 tháng
nuôi mới đạt 1,5 pao (680 g). Cùng sử dụng thức ăn tự chế biến giàu đạm, cá tra
chỉ cần 8-10 tháng đạt 1 kg và cá basa là 12-14 tháng đạt 1,5 kg. Gần đây, các
doanh nghiệp Việt Nam đã liên tục đổi mới dây chuyền sản xuất không thua
kém gì Mỹ. Họ luôn tìm mọi cách tiết kiệm, hạ chi phí sản xuất.

+ Ngoài các sản phẩm philê cá đông lạnh, các doanh nghiệp liên tục đưa ra thị
trường các mặt hàng mới như chà bông (ruốc) cá, khô cá, xúc xích cá, cá kho tộ,
cá hun khói... Xương cá được chế biến thành dược liệu có giá trị kinh tế cao.
Bao tử cá và da cá được chế biến thành món đặc sản. Nhờ vậy đã giúp các nhà
chế biến giảm 5- 10% giá thành sản phẩm. Ngoài ra, với nguồn cung cấp


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

nguyên liệu quanh năm, nên các nhà chế biến phát huy tối đa công suất dây
chuyền sản xuất tới 300 ngày sản xuất/năm và khấu hao nhanh.
=>Những lý do thực tế trên đã chứng minh hết sức rõ ràng tại sao giá cá xuất khẩu
của Việt Nam lại rẻ hơn giá cá nheo của Mỹ. Mặc dù vậy, CFA vẫn kiên quyết khởi
kiện.
2. Từng bước hành động và điều tra từ phía Mỹ :
Ban đầu, vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Mỹ những thông tin thất thiệt,
bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa của Việt Nam. Đến tháng 2/2001, lúc này ở Mỹ khan
hiếm cá nheo, cá Việt Nam nhập khẩu tăng, cuộc chiến lại rộ lên.
Tháng 6/2001, Chủ tịch CFA gửi thư yêu cầu đến Tổng thống Bush đề nghị
Chính phủ Mỹ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về vấn đề cá catfish., đồng
thời thuê mướn luật sư, thu thập thông tin, đẩy mạnh tuyên truyền hạ thấp uy tín cá
Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, CFA tìm mọi cách thu hút nghị sỹ Quốc hội, nhất
là ở những bang có nghề nuôi cá nheo để cung cấp thông tin một chiều, tạo nên một
hình ảnh chung rất xấu cho sản phẩm cá Việt Nam cùng những nguy cơ mà người nuôi
cá nheo Mỹ có thể phải gánh chịu nếu không siết chặt các quy định nhập khẩu.
Sau khi bắt đầu cuộc công kích sản phẩm cá của Việt Nam nhưng không mang lại
mấy hiệu quả, CFA đã quyết định tấn công mạnh mẽ hơn bằng một loạt "đòn hiểm ác".
Mở đầu, một số Thượng và Hạ nghị sỹ đại diện cho những bang có nuôi cá nheo cùng

ký tên vào một bức thư gửi Đại diện thương mại Mỹ Robert Zoellick, cho rằng cá tra,
cá basa từ Việt Nam đang gây thiệt hại cho nghề nuôi cá nheo Mỹ, đề nghị chính phủ
Mỹ phải sớm ra tay can thiệp.
Ngày 11/7/2001, một số thượng nghị sỹ bang Mississippi và Arkansas lên tiếng
kêu gọi Quốc hội thông qua một dự luật về ghi nhãn đối với nguồn gốc xuất xứ của cá
nuôi nhập khẩu trong khi bán lẻ, song không được ủng hộ.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Ngày 5/10/2001, Hạ viện Mỹ thông qua dự luật HR. 2964 chỉ cho phép sử dụng
tên cá "catfish" cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae (họ cá Nheo Mỹ).
Ngày 25/10/2001, Thượng viện Mỹ tiếp tục biểu quyết miệng, thông qua 35 điều
luật bổ sung cho dự án số HR. 2330 về phân bổ ngân sách nông nghiệp năm tài chính
2002, không cho phép FDA sử dụng ngân sách được cấp để làm thủ tục cho phép nhập
khẩu các loài cá da trơn mang tên "catfish" trừ khi chúng thuộc họ cá nheo Mỹ.
Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật An ninh trang trại và Đầu tư nông thôn HR.
2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên "catfish" cho cá tra, cá basa Việt Nam, áp dụng
trong tất cả các khâu từ nhập khẩu, bán buôn, bán lẻ, nhà hàng, quảng cáo, thông tin...
trong vòng 5 năm và có khả năng sẽ kéo dài vĩnh viễn. CFA không chỉ dừng ở đó mà
lại vin tiếp vào điều khoản 10806 của Đạo luật An ninh nông trại và Đầu tư nông thôn
mới nhất xác lập "chủ quyền tuyệt đối" trên thương hiệu “catfish”. Trước tình hình này,
các doanh nghiệp của ta đã phải từ bỏ cái tên catfish để trở về với cái tên thuần Việt
nam là "cá tra", "cá basa”.
Sau khi giành chiến thắng về tên gọi catfish, Hiệp hội các nhà nuôi cá nheo Mỹ
(CFA) tiếp tục mở một cuộc tấn công khác: khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán
phá giá cá tra, cá basa.


3. Khởi kiện từ phía Mỹ
a)Các bên trong vụ kiện

- Bên Nguyên đơn:
• Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA).
• Đại diện cho bên nguyên đơn: Liên doanh Luật Akin Gump Strauss
Hauer & Field LLP, với nhóm luật sư: Valerie A. Slater; J. David Park
và Thea D. Rozman- Louis Thompson , Chủ tịch Hiệp hội các chủ trại
nuôi cá nheo Mỹ – CFA; Hugh Warren, Phó Chủ tịch CFA.
 8 nhà sản xuất catfish:
• Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish;
• Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish;


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

• Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish;
• Seymour Johnson, Công ty Marie Planting;
• Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish.
 4 công ty chế biến catfish:
• David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm;
• Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
• Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade; - Daniel W. Klett, đại
diện Hãng Capital Trade.
- Bên bị đơn:
• DN thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
(VASEP).
• Đại diện là: PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế

biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP;
• Ông Ngô Phước Hậu, Tổng giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản An Giang
(Agifish);
• Ông Nguyễn Hữu Chí, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Bộ Thương mại









Việt Nam;
Christine Ngo, Giám đốc Công ty Thực phẩm quốc tế H&N;
Matthew Fass, Chủ tịch Tập đoàn Maritime Products International;
Robin Rackowe, Chủ tịch tập đoàn International Marine Fisheries;
TS. Carl Ferraris, Học viện Khoa học California;
Roger Kratz, Công ty Captain's Table;
Diệp Hoài Nam, Luật sư của White & Case Vietnam;
Đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ là ông Nguyễn Hữu Chí, cùng
nhóm luật sư William J. Clinton, K. Minh Dang, Lyle Vander Schaaf và
Keir A. Whitson.

b) Diễn biến vụ kiện
16h00 ngày thứ 6, 28/6/2002, CFA đệ đơn kiện lên Uỷ ban hiệp thương Quốc tế
Mỹ (ITC) và Bộ Thương mại Mỹ (DOC). Theo đó, họ cáo buộc 53 doanh nghiệp Việt
Nam bán phá giá cá tra, basa Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ. Khối lượng đơn kiện được
chuẩn bị cực kỳ chi tiết và đồ sộ, gồm phân tích chi tiết tình hình thị trường cá nheo
Mỹ, thị phần cũng như ảnh hưởng của cá da trơn đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ, mà

theo CFA, họ gọi đó là sản phẩm “rẻ tiền”.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Ngày 29/6/2002, VASEP đã ra tuyên bố bác bỏ cáo buộc của CFA về việc các
doanh nghiệp của VASEP bán phá giá cá tra, cá basa sang thị trường Mỹ. VASEP
khẳng định rằng các thành viên của Hiệp hội đã tuân thủ nghiêm túc quy tắc thương
mại của Mỹ và luật pháp quốc tế.
Trong đơn kiện CFA đã đưa ra đề nghị cách tính biểu thuế chống bán phá giá như
sau: nếu Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường thì cách tính giá phải theo kiểu của
Mỹ và nếu Việt Nam bán phá giá thì mức thuế chống bán phá giá sẽ là 144%. Nếu Việt
Nam không được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường thì sẽ lấy mức giá cả của
Ấn Độ – nước mà CFA cho rằng có trình độ phát triển tương đương - để áp vào cách
tính giá cá basa của Việt Nam (nếu có bán phá giá, mức thuế áp dụng sẽ là 191%). Các
yếu tố để tính giá sẽ là: giá cá nuôi sống, giá phế liệu, bao bì, đóng gói, nhân công lao
động…
Phiên điều trần thứ nhất của vụ kiện phá giá đầu tiên trong thương mại giữa Việt
Nam và Mỹ đã diễn ra tại Washington D.C vào ngày 19/7/2002 và kết thúc vào ngày
20/7/2002 tại Washington DC. Tại đây, Việt Nam đã có những lý lẽ xác đáng để chứng
minh không bán phá giá cá da trơn vào Mỹ.
Đến ngày 8/8/2002, ITC đã bỏ phiếu và thống nhất kết luận là không thể xác định
việc nhập khẩu cá nheo, cá basa gây thiệt hại cho ngành nuôi cá trong nước mà chỉ “có
thể có nguy cơ bị đe dọa”.
Ngày 22/8/2002, ITC đã công bố quan điểm về vụ kiện. Theo đó, ITC không coi
catfish là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với cá basa và cá tra của Việt Nam và loại 500
chủ nông trại cá nheo Mỹ ra khỏi danh sách nguyên đơn...
Ngày 14/11/2002 bất chấp sự phản đối từ phía Việt Nam và VASEP nói riêng, Bộ

Thương mại Mỹ phê chuẩn kiến nghị của Phòng Chính sách, coi nền kinh tế Việt Nam
là phi thị trường, việc kết luận này dựa trên đánh giá theo các tiêu chí của Mỹ, đặt cơ
sở cho việc xem xét áp dụng mức thuế chống bán phá giá đối với mặt hàng cá tra, cá
basa của Việt Nam.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Ngày 29/11/2002, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ tiếp tục nộp đơn lên Bộ
Thương mại Mỹ (DOC) cho rằng đã xuất hiện “tình trạng khẩn cấp ” trong vụ kiện cá
basa. CFA đã đưa ra 5 luận điểm chống lại Việt Nam. Tuy nhiên DOC kết luận, sự tồn
tại của cái gọi là “trường hợp khẩn cấp” của CFA bị bác bỏ.
Ngày 17/3/2003, DOC trực tiếp điều tra thực trạng nuôi cá basa tại Việt Nam và
đề nghị Việt Nam thảo luận về thoả thuận đình chỉ vụ kiện và thay bằng việc áp dụng
hạn ngạch và giá xuất khẩu đối với việc xuất khẩu mặt hàng này.
Ngày 20/5/2003, Thoả thuận về đình chỉ vụ kiện bị đổ vỡ.
Ngày 14/6/2003, VASEP sang Washington dự phiên điều trần cuối cùng (ngày
17/6/2003) trước Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), cơ quan trọng tài của vụ
kiện.

4. Quyết định của tòa án
Sau hơn 7 tháng điều tra, qua rất nhiều khâu (thu thập bảng hỏi điều tra, xác định
nền kinh tế Việt Nam là thị trường hay phi thị trường, xác định quốc gia tham chiếu thứ
ba, thu thập chứng cứ liên quan...), cuối tháng 1/2003, DOC cũng công bố kết quả điều
tra sơ bộ là, các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra, basa tại Mỹ; đồng thời áp
dụng 3 mức thuế trừng phạt dao động trong khoảng 38 - 64%. Đến tháng 7/2003, kết
luận điều tra cuối cùng của cả ITC và DOC đều khẳng định, doanh nghiệp Việt Nam
bán phá giá và ấn định mức bán phá giá 36,84 - 63,88%.

Từ năm 2002 đến 2012, qua 6 lần xem xét hành chính hằng năm, cùng với nhiều
nỗ lực đấu tranh của VASEP và các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa Việt Nam, mức
thuế CBPG này đã dần giảm về 0 đối với phần lớn các doanh nghiệp bị đơn Việt Nam.
Tuy nhiên, niềm vui được hưởng thuế suất bằng 0 của các doanh nghiệp Việt
Nam chưa được bao lâu, thì ngày 14/3/2013, DOC thông báo quyết định cuối cùng lần
8 (POR 8) đối với cá tra fillet đông lạnh Việt Nam, giai đoạn 1/8/2010 - 31/7/2011.
Theo đó, thuế suất đánh vào mặt hàng cá tra fillet đông lạnh của doanh nghiệp Việt


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Nam tăng cao đột ngột so với kỳ POR 7, trái ngược mức thuế sơ bộ rất thấp hoặc bằng
0 được công bố ngày 12/9/2012.
Tháng 5/2014, DOC quyết định giảm thuế chống bán phá giá cá tra lần 9 (POR 9)
nhập khẩu từ Việt Nam giai đoạn 1/8/2011 - 31/7/2012, từ mức chịu thuế 0,99 USD/kg
xuống còn 0,42 USD/kg. Mức thuế chống bán phá giá riêng rẽ của công ty bị đơn bắt
buộc là Vĩnh Hoàn Corp được giảm còn 0 USD thay vì 0,03 USD/kg trước đó. Trong
khi đó, các công ty bị đơn tự nguyện đều tăng so với mức thuế cuối cùng đã công bố
hồi cuối tháng 3 vừa qua, từ 0,42 USD/kg lên mức 1,2 USD/kg.
Thuế chống bán phá giá cá tra, các basa lần thứ 10 (POR 10) do DOC đưa ra có
23 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra bị áp thuế chống bán phá giá là 0,97 USD/kg. Riêng
đối với Công ty TNHH thủy sản Biển Đông và Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn lần lượt bị
áp thuế suất 0% và 0,03% ở kỳ POR 10, tương tự như kỳ POR 9 và sẽ được giữ không
thay đổi cho đến năm 2017. Đối với mức thuế chung toàn quốc cho các doanh nghiệp
khác, là 2,39 USD/kg.
Ngày 29/03/2016, Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã công bố Quyết định cuối
cùng đợt rà soát hành chính thuế chống bán phá giá lần thứ 11 (POR11) cho giai đoạn
từ ngày 01/08/2013 đến 31/07/2014 đối với sản phẩm cá tra, basa nhập khẩu từ Việt

Nam. Doanh nghiệp bị đơn bắt buộc: mức thuế cuối cùng cho 2 doanh nghiệp bị đơn
bắt buộc là 0,41 USD/kg, và 0,97 USD/kg, doanh nghiệp bị đơn tự nguyện (gồm 14
doanh nghiệp) nhận mức thuế 0,69 USD/kg, mức thuế toàn quốc vẫn ở mức 2.39
USD/kg.
Đây là mức thuế khiến cho DN xuất khẩu cá tra Việt Nam rất khó trong việc
xuất khẩu sản phẩm cá tra vào thị trường Mỹ thời gian tới. Tuy nhiên theo VASEP, hiện
tại khoảng 27 DN ngành cá tra Việt Nam đang theo đuổi và tham gia xem xét hành
chính lần thứ 12 (POR 12) của DOC và dự kiến DOC sẽ có phán quyết sơ bộ vào tháng
9/2016.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

Phần 3: Bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện đối với các doanh nghiệp Việt Nam
và biện pháp phòng tránh và đối phó với các vụ kiện bán phá giá ở nước
ngoài

1. Bài học đối với doanh nghiệp
Trên thị trường thế giới, mặt hàng cá tra, cá basa Việt Nam đang càng càng được
mở rộng nhưng dường như các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn, bị động đối
với các rào cản thương mại dù đã rất nỗ lực. Từ đó có thể thấy vấn đề tiếp thị giữ vai
trò khá quan trọng. Doanh nghiệp cần thực hiện các chiến lược tiếp thị với các nước
bạn, ngay cả với những nhà bán lẻ ở thị trường các nước lớn, tạo mối quan hệ với họ
và qua đó làm nổi bật các giá trị ưu việt của mặt hàng cá Việt Nam, đồng thời dần xây
dựng và khẳng định thương hiệu vì một khi thương hiệu đã vững mạnh, các doanh
nghiệp sẽ tự tin trước các rào cản.
Trong vụ kiện này, các doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn rơi vào tình trạng bị
động và chưa có sự chuẩn bị về mặt pháp lý khi thâm nhập vào các thị trường nhất là

Mỹ - một thị trường rất phức tạp. Tình trạng bị động ở đây thể hiện ở chỗ ta không
kinh nghiệm về luật phát quốc tế và đội ngũ luật gia có kiến thức để có đủ khả năng thụ
lý những vụ kiện kiểu này. Đó là những điểm yếu của doanh nghiệp cần được bổ sung.
Qua vụ kiện, các doanh nghiệp Việt Nam cần hiểu rõ hơn rằng muốn thâm nhập
vào nền kinh tế thị trường thì cần phải biết luật chơi của nó, muốn chơi với Mỹ thì phải
biết luật Mỹ và chơi theo kiểu Mỹ. Cũng như vậy với các nước khác và khi vào WTO
ta phải biết luật chơi chung của thế giới. Đồng thời cũng phải có giải pháp để đối phó
khi bị chơi ép.
Mặt khác, các nhà sản xuất và chế biến cá basa của Việt Nam nên tìm kiếm các
thị trường khác để không phụ thuộc nhiều vào Mỹ. Dù biết rằng Mỹ là một thị trường
lớn mạnh và tiềm năng nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó và vụ kiện cá basa cũng
vậy, vụ kiện này dù đã làm cho cá tra, cá basa của chúng ta nổi tiếng khắp thế giới
nhưng cũng đã gây tổn hại không nhỏ về mặt kinh tế cho các hộ nuôi cá, các doanh


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Các doanh nghiệp nên tích cực tìm kiếm, xây dựng thị
trường mới ở Châu Âu hay ở các nước lớn trong khu vực như Nhật Bản, Hồng Kông,
các nước Trung Đông…và chính thức đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xây dựng một cơ chế thống nhất. Trước hết,
các doanh nghiệp phải đoàn kết, thực hiện nghiêm chỉnh những quy định và tiêu chuẩn
về chất lượng sản phẩm, quy trình và điều kiện sản xuất, an toàn, vệ sinh... Ngoài ra,
các doanh nghiệp cũng phải nhanh chóng đăng ký thương hiệu tại các thị trường nước
ngoài mà mình dự kiến thâm nhập, nhất là với những thị trường mà các vụ kiện xảy ra
thường xuyên như Mỹ, EU. Doanh nghiệp cần lưu trữ đầy đủ các bằng chứng sử dụng
thương hiệu trong hoạt động thương mại để khi gặp tình trạng tranh chấp thương hiệu
thì có thể sử dụng để giành quyền về mình


2. Biện pháp phòng tránh và đối phó với các vụ kiện bán phá giá ở nước ngoài
Dự báo và tổng hợp danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả
năng bị kiện phá giá trên cơ sở rà soát theo tình hình sản xuất, xuất khẩu từng ngành
hàng của Việt Nam. Đồng thời nghiên cứu cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia
để từ đó có sự phòng tránh cần thiết.
Phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với khối lượng lớn vào một nước để
phòng tránh tạo cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá bằng cách xây dựng chiến
lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường xuất khẩu của các doanh
nghiệp.
Phổ biến, hướng dẫn cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết về thị trường
xuất khẩu, về luật thương mại quốc tế, luật chống bán phá giá của các nước nhằm tránh
những sơ hở dẫn đến các vụ kiện.
Chính phủ cần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp trong kháng kiện: thành lập quỹ
trợ giúp theo đuổi các vụ kiện, cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết
về các thủ tục kháng kiện, giới thiệu các luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp
cho doanh nghiệp thắng kiện...Về phía các hiệp hội ngành hàng, cần phát huy vai trò là


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

tổ chức tập hợp và tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm
nâng cao năng lực kháng kiện của các doanh nghiệp.
Cần có biện pháp thương lượng để cam kết giá, đó là việc nhà sản xuất, xuất khẩu
cam kết sửa đổi mức giá bán (tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu với giá bị coi
là bán phá giá hàng hoá. Đây là một thoả thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất, xuất
khẩu và nước nhập khẩu. Khi một cam kết giá được chấp thuận, quá trình điều tra sẽ
chấm dứt.



Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

D.KẾT LUẬN
Trong thời gian tới, nền kinh tế thực sự hội nhập, chúng ta sẽ phải đối đầu với
nhiều vụ kiện bán phá giá và phải tham gia ngày càng nhiều hơn vào cơ chế giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực này. Thực tế cho thấy chúng ta đang tiếp tục
phải chịu các mức thuế chống phá giá bất hợp lý từ Mỹ. Theo thông tin mới nhất hiện
nay, áp đặt thuế cho một số doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa đã tăng lên 130%. Với
mức thuế này, người Mỹ sẽ phải ăn cá tra với giá khá đắt, vì vậy lượng tiêu dùng cá tra,
cá basa ở Mỹ sẽ giảm và xuất khẩu đối với mặt hàng này của ta có nguy cơ giảm sút
mạnh. Vì vậy, vấn đề là chúng sẽ thương lượng, thỏa thuận với Hoa Kỳ về giá nhập
khẩu vào thị trường Mỹ. Đồng thời các doanh nghiệp theo đó phải tìm hiểu đầy đủ
thông tin về thị trường, về luật…để không bỡ ngỡ và tự tin đối đầu khi gặp phải những
vụ kiện tương tự.


Tiểu luận Chính sách thương mại quốc tế

Nhóm 15

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO









Luật chống bán phá giá của Mỹ (United States – Anti-Dumping Act of 1916);
Báo Thương Mại các số 25, 29, tháng 10 năm 2003;
Báo Kinh tế Sài Gòn số 28/2003 (625) ngày 3/7/2003;
Báo Thương Mại Thuỷ sản, tháng 5-6/2003, tháng 8/2003 (Bộ Thuỷ sản);
Báo Kinh tế Việt Nam số 32 ngày 12/8/2003;
Báo Doanh nghiệp Thương mại số 179 ngày 1/5/2003;
Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 65 tháng 11/2002;



×