Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Bản sắc văn hoá của dân tộc thái den tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 102 trang )

LỜI CẢM ƠN
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Hoàng Thúc Lân
- Người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt trong suốt
quá trình thực hiện luận văn. Đồng thời, em gửi lời cảm ơn đến Đảng ủy, Ban
giám Hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Triết học, các thầy cô giáo Khoa Triết học, các
phòng ban đặc biệt Phòng Sau Đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Đảng
ủy, Ban giám Hiệu, phòng Đào tạo Trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận
lợi giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Cảm ơn cơ quan, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên, khích
lệ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua đề tôi trong suốt thời gian qua đề tôi có thể
hoàn thành tốt luận văn.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Hoàng Ánh Thêu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài “Bản sắc văn hóa của
dân tộc Thái Đen tỉnh Sơn La hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Hoàng Thúc Lân. Các kết quả nghiên cứu có tính
độc lập, không sao chép bất kỳ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất kỳ
đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú


thích rõ ràng, minh bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các
công trình nghiên cứu đã được công bố, các website.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan danh dự của tôi.
Sơn La, tháng 6 năm 2017


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
BCH: Ban chấp hành
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
KH – CN: Khoa học công nghệ
ODA: Official Development Assistance (nguồn viện trợ phát triển chính
thức)


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... 1
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................. 1
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 5
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 8
3. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 11
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu ....................................................... 11
4.1. Khách thể nghiên cứu ............................................................................. 11
4.2. Đối tượng nghiên cứu............................................................................. 11
5. Giả thuyết khoa học ................................................................................... 12
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 12
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu .................................................................... 12
8. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 12
9. Cấu trúc luận văn ....................................................................................... 13
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ................ 13
10.1. Những luận điểm cơ bản ...................................................................... 13
10.2. Đóng góp mới của tác giả .................................................................... 13
NỘI DUNG ......................................................................................................... 14



Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở
SƠN LA............................................................................................................... 14
1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 14
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản................................................................... 14
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn bản sắc văn hóa
của các dân tộc thiểu số
………………………………………………………………………
…………………………………………………………..22
1.2. Cơ sở thực tiễn....................................................................................... 23
1.2.1. Lịch sử hình thành dân tộc Thái và Thái Đen ở Sơn La ..................... 23
1.2.2. Thực chất bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La .............. 25
1.2.3.Những yếu tố ảnh hưởng đến sự vận động biến đổi bản sắc văn hóa
dân tộc Thái Đen ........................................................................................... 45
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 49
Chương 2. BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở SƠN
HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ............................................. 50
2.1. Thực trạng vận động biến đổi bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở
Sơn La hiện nay .............................................................................................. 50
2.1.1. Về văn hóa vật chất ............................................................................. 50
2.1.2. Về văn hóa tinh thần ......................................................................... 57
2.2. Nguyên nhân chủ yếu của sự biến đổi bản sắc văn hóa của dân tộc Thái
Đen ................................................................................................................... 70
2.2.1. Nguyên nhân nhận thức của dân tộc Thái Đen ................................... 70


2.2.2. Nguyên nhân kinh tế ............................................................................ 72
2.2.3. Nguyên nhân chính trị ......................................................................... 74
2.2.4. Nguyên nhân văn hóa .......................... Error! Bookmark not defined.

2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay ..................................................... 76
2.3.1. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc Thái Đen ở
Sơn La............................................................................................................ 78
2.3.2. Nhóm giải pháp về chính trị ................................................................ 81
2.3.3. Nhóm giải pháp về văn hóa – xã hội cho đồng bào dân tộc Thái Đen ở
Sơn La............................................................................................................ 87
Tiểu kết chương 2:............................................................................................ 93
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 96

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam là đa dạng bản sắc được tạo thành từ sự tổng hòa các giá
trị văn hóa của 54 dân tộc anh em. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử với truyền
thống đoàn kết, cộng đồng các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam, gắn bó với
nhau trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự do, độc lập và xây dựng, phát triển đất nước.


Các dân tộc Tây Bắc nói chung và đồng bào dân tộc Thái Đen sinh sống trên
địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng là những con dân Việt Nam cần cù chịu khó, gắn bó
hoà đồng; là những con người vị tha, yêu thương và đùm bọc nhau trong cuộc
sống. Đó cũng chính là những phẩm chất chung, tốt đẹp của người Việt Nam.
Dân tộc Thái là một trong 54 dân tộc có mặt, sinh sống trên đất nước Việt
Nam từ hơn 1000 năm trước trong các cuộc thiên di lịch sử. Dân tộc Thái ở Việt
Nam có số dân 1,3 triệu người đứng thứ 3 cả nước sau người Kinh và người Tày,
chủ yếu sống ở vùng núi phía Tây Bắc và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An… qua
quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt, dân tộc Thái đã tạo nên được những nét
đặc sắc về bản sắc văn hóa kiến trúc nhà ở, trang phục thổ cẩm, văn hóa ẩm thực,

phong tục tập quán riêng biệt, ngôn ngữ, chữ viết… đã làm nên một nền văn hóa
cho dân tộc Việt Nam thêm phong phú và đa dạng.
Ở điểm cực Tây của tổ quốc, Sơn La nằm ở nơi cao ráo, thoáng đãng, hội tụ
sông, suối, núi đồi, những cánh đồng lúa và phảng phất đâu đây là mùi hương hoa
cỏ dại từ những cánh rừng xanh bạt ngàn. Những ngôi nhà sàn thấp thoáng ven
những bờ suối những chùm hoa dại, hoa ngũ sắc và những chùm hoa bay bay theo
gió. Cảnh sắc nơi đây thật sự rất tuyệt vời. Phải chăng không khí trong lành, dịu
mát cùng với cảnh sắc tuyệt vời như vậy cũng làm cho con người nơi đây trở nên
phúc hậu?
Chủ tịch Hồ Chính Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống loài người mới phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày
về ăn mặc, ở và các phương tiện sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó chính
là văn hóa. Chính vì vậy, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu đời sống đối với mỗi
dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó của các dân tộc
trong lịch sử, xã hội. Qua đó tìm ra những đặc sắc tinh túy trong hệ thống giá trị
truyền thống văn hóa của dân tộc để tôn vinh và phát huy lên tầm cao mới để
không ngừng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ nay và mai sau”[39,
tr.431].


Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã nêu rõ: "Bản sắc dân tộc
của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa vun đắp
nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, trở thành những
nét đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí
tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình,
làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần
cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống". Trong
bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển nền kinh tế thị trường,
định hướng XHCN, toàn cầu hóa đã và đang tạo nên xu thế hội nhập quốc tế ngày

càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống. Hội nhập quốc tế tạo nên nhiều cơ
hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức, trong đó có thách thức về
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc. Làm thế nào để giữ gìn được
bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hội nhập quốc
tế, phát huy được bản sắc văn hóa dân tộc như một sức mạnh nội sinh để phát triển
là một vấn đề cần được nghiên cứu để có những định hướng đúng đắn cho con
đường phát triển của dân tộc. Nhiều dân tộc đã và đang bị xói mòn và mất dần
những giá trị bản sắc của mình, dân tộc Thái cũng đang phải đối mặt với nguy cơ
đó. Nếu như trước đây cứ vào dịp đầu năm mới (trong khoảng tháng Giêng), hầu
như thôn, bản người dân tộc Thái Sơn La sinh sống đều tổ chức hội ném còn, thì
nay lễ hội ném còn ngày càng ít dần, và số người tham gia cũng không còn đông
như xưa. Ném còn bây giờ chỉ còn được trình diễn ở một số lễ hội lớn của huyện,
còn các bản hầu như không tổ chức riêng như trước nữa. Không chỉ mai một lễ
hội, mà ngay cả tiếng nói, trang phục, kiến trúc, phong tục tập quán, lễ
hội… những thành tố cơ bản của văn hóa dân tộc, đồng thời là tiêu chí quan trọng
để xác định thành phần tộc người cũng đã bị mai một hoặc có nguy cơ mai
một…Chính vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên nền
tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại cần được đặc biệt chú trọng.
Có thể hiểu bản sắc văn hóa như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc, và
tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, tức là sức sống và


sự từng trải của dân tộc. Nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng và trường tồn trước
thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Vì thế việc nghiên cứu so sánh sự biến đổi của
bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Xuất phát từ những nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài: “Bản sắc văn hóa của
người Thái tỉnh Sơn La hiện nay” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu ở những phạm vi và góc độ

khác nhau nhau như: Dân tộc học, văn hóa học, triết học. Bàn về văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc phải kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
Nhóm thứ nhất, nghiên cứu dưới góc độ bản sắc văn hóa có những tác phẩm
tiêu biểu như:
Trong cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam” của Phan Ngọc, ( Nxb.Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 1998 ), tác giả đi vào phân tích và làm sáng tỏ khái niệm văn
hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và mối quan hệ giữa các không gian văn hóa. Từ
đó đi đến khẳng định: “Văn hóa nào cũng cần phải có sự giao tiếp để phát triển”
[36, tr.16]. Bàn về văn hóa, còn phải kể đến công trình nghiên cứu “Cơ sở văn
hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng (chủ biên ), (Nxb Giáo dục, 2008). Cuốn
sách giới thiệu đến về các quan niệm về văn hóa và các đặc điểm của văn hóa
Việt Nam trong quá trình tiếp biến văn hóa nhân loại. Qua đó, khẳng định sự giao
lưu văn hóa, cần phải có chính sách giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, cuốn“Văn hóa bản sắc văn hóa dân tộc” của tác giả Hồ Bá Thâm
(Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2012). Tác giả đã làm rõ bản chất, đặc trưng
của văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc và còn chỉ ra những thách thức khó khăn
trong điều kiện giữ gìn, phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay trước sự tác động
của kinh tế thị trường. Ngoài ra, khi nghiên cứu về “Văn hóa Việt Nam trên con
đường giải phóng, đổi mới hội nhập và phát triển” tác giả Đỗ Huy, (Nxb Thông
tin - Truyền thông, 2013). Được tác giả trình bày hành trình của quá trình giải
phóng, đổi mới và dự báo về bước phát triển mới của văn hóa Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập và đưa ra những giải pháp cụ thể


Nhóm thứ hai, nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số có:
Nghiên cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số có “Bản sắc văn hóa dân
tộc Mông và giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị của nó ở Việt Nam hiện nay”
của Hoàng Xuân Lương, Luận án tiến sĩ Triết học, (Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn, 2002). Tác giả đã tập trung vào khai thác những đặc điểm hình thành
và những đặc trưng của bản sắc dân tộc Mông và đưa ra cái nhìn mới về bản sắc

dân tộc Mông trước những tác động của kinh tế thị trường. Ngoài những nghiên
cứu về bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số phải kể đến “Nhân tố chủ quan với
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Phú Thọ hiện nay”
của Đinh Thị Hoa, Luận văn thạc sĩ Triết học (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2006). Luận văn đã phân tích rõ về khái niệm văn hóa và bản
sắc văn hóa dân tộc Mường qua các giá trị vật chất và giá trị tinh thần dước góc
độ triết học. Mặc dù, khai thác ở nhiều góc độ khác nhau, song các tác giả đều làm
rõ khái niệm văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và trong cuộc sống, sinh hoạt hàng
ngày của họ. Bên cạnh đó, khẳng định tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta và đề ra các giải pháp
nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhóm những công trình nghiên cứu về về
dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam và dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phúc. Bàn về bản sắc
văn hóa dân tộc Sán Dìu, phải kể đến cuốn “Người Sán Dìu ở Việt Nam” của Ma
Khánh Bằng (Nxb Khoa học xã hội, 1983). Cuốn sách được tác giả giới thiệu khái
quát về dân tộc Sán Dìu, các hoạt động kinh tế, sinh hoạt vật chất và một số tục lệ
trong đời sống hàng ngày. Trong cuốn“Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc”
của tác giả Lâm Quý, (Ban Dân tộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc
xuất bản năm 2009).Trong cuốn sách này, tác giả đã thể hiện theo tinh thần khảo
cứu dân tộc học về lịch sử dân cư, tập quán sản xuất, sinh hoạt xã hội, ngôn ngữ,
chữ viết, kiến trúc mỹ thuật âm nhạc dân gian, phong tục, lễ hội... nhằm giúp
người đọc có cách nhìn tổng quan về văn hóa các dân tộc ở Vĩnh Phúc với bản sắc
truyền thống riêng. Tác giả cũng đồng thời cảnh báo những nguy cơ làm phai nhạt
bản sắc các dân tộc thiểu số. Từ đó khuyến nghị một số vấn đề về giữ gìn, bảo tồn,


khai thác phát huy các giá trị văn hóa độc đáo của các dân tộc Sán Dìu, Cao Lan
và Dao ở Vĩnh Phúc. Bên cạnh đó, cuốn “Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người
của người Sán Dìu ở Việt Nam” của Diệp Trung Bình, (Nxb Văn hóa dân tộc,
2011). Tác giả làm rõ những đặc điểm văn hóa của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở

Việt Nam. Đưa ra những so sánh và những giá trị truyền thống và hiện đại, những
biến đổi lớn trong bản sắc văn hóa của người Sán Dìu ở nước ta hiện nay. Công
trình nghiên cứu về “Dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc” của Lâm Quang Hùng,
(Nxb Khoa học và Công nghệ, 2011). Tác giả đi khai thác những giá trị văn hóa
của đồng bào dân tộc Sán Dìu ở tỉnh Vĩnh Phúc qua một số giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể dưới góc độ dân tộc học. Tác giả hướng tới khẳng định tầm quan
trọng của việc bảo tồn các giá trị của dân tộc Sán Dìu ở Vĩnh Phúc trong thời kỳ
đổi mới.
Nhóm thứ ba, nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái có các công trình:
Lê Ngọc Thắng với công trình “Nghệ thuật trang phục Thái”, Nxb Văn hóa
Dân tộc, Hà Nội, 1990; Tác giả đã làm rõ sự biến đổi về trang phục dân tộc Thái
do quá trình giao lưu văn hóa với người Kinh, trang phục đang phát triển theo con
đường âu hóa mạnh. "Văn hóa thái Việt Nam", Cầm Trọng, Phan Hữu Đạt, Nxb
Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1995. Trong cuốn này tác giả đã giới thiệu khá đầy đủ
về những nét đặc sắc của văn hóa người dân tộc Thái. "Văn hóa và lịch sử dân tộc
Thái ở Việt Nam", Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1996. Tác giả đã nghiên cứu
mối quan hệ giữa Thái học Việt Nam và Thái học Quốc tế dựa trên cơ sở các công
trình nghiên cứu về các dân tộc Tày - Thái ở nước ta. "Bản Mường - một cấu trúc
xã hội truyền thống Thái, Báo cáo khoa học trình bày tại hội nghị quốc tế Thái
học lần thứ 4, Chiềng Mai - Thái Lan, (10-1996), Cầm Trọng, Đề tài khoa học
KX.03.97: "Nghiên cứu văn hóa bản dân tộc Thái, trên cơ sở đó đề xuất nội dung,
giải pháp xây dựng mô hình bản văn hóa", 1999, UBND tỉnh Sơn La. "Vài nét về
dân tộc Thái ở Sơn La”, Vì Trọng Liên, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002. "
Tác giả đã giới thiệu khái quát về lịch sử và những nét đặc trưng của văn hóa dân
tộc Thái; "Hoa Văn Thái" của Hoàng Lương, Nxb Lao động, Hà Nội, 2003 Tác
giả đã đi nghiên cứu những sắc màu, những hoa văn, hoạ tiết được các cô gái Thái


thổi hồn trên thổ cẩm. Và nhiều bài viết trên các tạp chí: Dân tộc học, nghiên cứu
lịch sử...

Nhìn chung: Các công trình, tác phẩm đều đã đi vào khai thác những đặc
điểm chung về bản sắc văn hóa; văn hóa các dân tộc thiểu số; văn hóa của dân tộc
Thái ở nước ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu
những giá trị văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc Thái (nói chung), dân tộc
Thái ở Sơn La (nói riêng) nhằm giới thiệu về dân tộc Thái; những nét đặc sắc - cái
hay, cái đẹp của văn hóa dân tộc Thái. Một số đề tài, công trình cũng đề cập tới
vấn đề bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen nhưng mới
chỉ đề cập một cách chung chung hoặc đi sâu tìm hiểu một số nét văn hóa cụ thể;
đã đề cập đến thực trạng và một số giải pháp cho sự phát triển văn hóa các dân tộc
ở Sơn La nhưng cũng chỉ là những giải pháp mang tính định hướng chung cho các
dân tộc thiểu số; chủ yếu nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái Đen ở góc độ văn
hóa, chưa đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ triết học, chưa
bàn nhiều tới vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn
La một cách khái quát.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ khái niệm thực trạng kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp cơ bản
nhằm kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Tây Bắc nói
chung, và dân tộc Thái Đen ở Sơn La nói riêng.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Người dân tộc Thái Đen tại tỉnh Sơn La.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen tỉnh Sơn La
xưa và nay trên góc độ triết học.


5. Giả thuyết khoa học
Nếu nghiên cứu thành công đề tài này sẽ góp phần bổ sung và làm sáng tỏ lý
luận về văn hóa, bản sắc văn hóa và vấn đề kế thừa nó; đồng thời góp phần khẳng

định vai trò, ý nghĩa của những giá trị văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La và
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau:
Một là, làm rõ bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen và tính tất yếu khách
quan của việc kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc Thái.
Hai là, đánh giá thực trạng biến đổi vấn đề kế thừa và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay (minh họa bằng các số liệu, thực tế...
khảo sát ở tỉnh Sơn La).
Ba là, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Văn hóa là một vấn đề rất rộng, văn hóa các dân tộc cũng rất đa dạng và
phong phú... Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của
dân tộc Thái Đen ở Sơn La mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống, ở khía
cạnh triết học những giá trị văn hóa tạo nên "Bản sắc văn hóa" của dân tộc Thái
Đen ở Sơn La nhằm kế thừa và phát huy nó trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu các thành tố tiêu biểu như: ở (nhà và ở), ăn, mặc (trang phục), lễ
hội, tang ma, cưới xin, sinh đẻ của người dân Thái Đen.
8. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác - Lênin, đặc biệt là nguyên lý về lý luận
nhận thức và lôgíc học, quan điểm của Đảng về bản sắc văn hóa dân tộc.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích và tổng hợp,
diễn dịch và quy nạp, lịch sử - lôgíc, hệ thống hoá, khái quát hoá, khảo sát - thống
kê, xử lý tài liệu, điều tra, điền dã… nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.


9. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn

được bố cục gồm 02 chương, 04 tiết.
10. Tóm tắt các luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
10.1. Những luận điểm cơ bản
Một là, bản sắc văn hóa là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng
động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác.
Hai là, dân tộc Thái sống ở rừng núi, thung lũng nên đã có nhiều thế kỷ sống
hòa vào trong sự cân bằng của môi trường tự nhiên, và tạo lập được hệ sinh thái
nhân văn của mình.
Ba là, với chính sách phát triển vùng dân tộc và miền núi của Đảng, chúng
ta cần phải bảo lưu, khai thác cả cái cũ và mới trong những vùng dân cư mới để
biến Sơn La thành vùng giàu mạnh của đất nước với một bản sắc văn hóa đa dạng
và độc đáo trong sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam.
10.2. Đóng góp mới của tác giả
Về mặt lý luận: luận văn cung cấp cách tiếp cận hệ thống lý luận khoa học
về quá trình hình thành và phát triển bản sắc văn hóa của người Thái Đen ở Sơn
La. Trên cơ sở đó, chỉ rõ tính triết học trong xu hướng vận động, biến đổi các giá
trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen ở Sơn La hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Luận văn đánh giá thực trạng vận động biến đổi bản sắc
văn hóa của người dân tộc Thái ở Sơn La hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp
cơ bản và rút ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao việc giữ gìn bản sắc văn hóa
của dân tộc Thái Đen tại tỉnh Sơn La hiện nay. Luận văn dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ sở nghiên cứu và đào tạo triết học và cung cấp những tư liệu cho
các nhà quản lý, lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc ở
Việt Nam nói chung và ở Sơn La nói riêng.


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC THÁI ĐEN Ở SƠN LA

1.1.

Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa
* Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, thuật ngữ
này không những có nhiều nghĩa trong ngôn ngữ hàng ngày mà cả trong các ngành khoa
học khác nhau. Tuy nhiên, việc xác định nội hàm của nó còn nhiều ý kiến, vì thế trên
thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa về văn hóa. Song, về cơ bản đều
thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá
trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị
chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các
hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương
thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa. Văn hóa là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người
đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”
[39, tr.431].
Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại
Pháp (21/1/1998), Tổng thư ký Unesco định nghĩa:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của
cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như


đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống
các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình” [61, tr.23].

UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của sự phát triển xã hội,
có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Nó không những là yếu tố nội
sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu, động lực cho sự phát triển xã hội. Văn
hóa giúp cho con người tự hoàn thiện, nó quyết định tính cách riêng của một xã
hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác.
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa
khác nhau: “Văn hóa là tất cả những sản phẩm vật chất và không vật chất của hoạt
động con người, là giá trị và phương thức xử thế được công nhận, đã khách thể
hóa và thừa nhận trong một cộng đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho
các thế hệ mai sau” [35, tr.11]. Định nghĩa này nhấn mạnh trong văn hóa bao gồm
các sản phẩm vật chất và các hệ thống giá trị, các qui chuẩn về phương thức xử
thế và các hệ thống hành vi của con người và cộng đồng. Vấn đề cần được nhấn
mạnh ở đây là trong khái niệm văn hóa, điều quan trọng là phải được thừa nhận
hoặc có nhiều khả năng được thừa nhận trong một nhóm xã hội, và được truyền
bá cho các cá thể hoặc các nhóm trong cộng đồng.
“Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người
trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị
vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và
lịch sử xã hội của mình.” [31, tr.13 -14].
Như vậy, nói đến văn hóa là nói đến giá trị của con người. Lịch sử văn hóa
là lịch sử của con người và loài người: Con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm
cho con người khác xa và vượt lên trên loài vật, trờ thành người. Điều đó có nghĩa
là tất cả những giá trị do con người sáng lập ra liên quan đến con người, đến mọi
cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Từ đó, văn
hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tuy
nhiên, sự phân chia này chỉ có tính chất tương đối, bởi cái gọi là “văn hóa vật
chất” về thực chất cũng chỉ là sự “vật chất hóa” các giá trị tinh thần, và các giá trị


văn hóa tinh thần không phải bao giờ cũng tồn tại một cách thuần túy tinh thần, mà

thường được “vật thể hóa” trong các dạng tồn tại vật chất. Ngoài ra, còn các giá trị
tinh thần tồn tại dưới dạng phi vật thể, nhưng vẫn mang tính tồn tại vật chất khách
quan như văn hóa trong các lĩnh vực đạo đức, giao tiếp, ứng xử, lối sống, phong tục
tập quán…
Ở Việt Nam, khi bàn luận về văn hóa của dân tộc thường được hiểu theo hai
nghĩa, hai cấp độ khác nhau: Ở phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn
hóa của một tộc người, văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người tộc danh, là một chi
tiết của văn hóa nói chung. Còn phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của
cả cộng đồng tộc người sống trong cùng một quốc gia.
Văn hóa tộc người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như
những quan hệ xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh sống của
một tộc người, phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt
được hình thành trong lịch sử của tộc người đó. Ở các quốc gia đa dân tộc, văn
hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ lẫn nhau tạo nên nét chung của văn hóa
quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc, và mỗi nền văn hóa đều có những giá trị
riêng của nó.
Giá trị văn hóa: “là cái dùng để căn cứ vào đó mà xem xét, đánh giá, so sánh
nền văn hóa của dân tộc này với nền văn hóa của dân tộc khác, là cái để xác định
bản sắc văn hóa của một dân tộc, những nét đặc thù về truyền thống, phong tục,
tập quán, lối sống của một dân tộc trên nền tảng các giá trị chân, thiện, ích, mỹ”
[63, tr.19]
Đặc trưng của văn hóa là chiều cạnh trí tuệ, năng lực sáng tạo, khát vọng
nhân văn biểu hiện ở hoạt động sống của mỗi cá nhân, cộng đồng, dân tộc. Mục
đích của giá trị văn hóa là nhằm hướng tới các giá trị nhân bản, hướng tới sự hoàn
thiện của mỗi cá nhân và của cộng đồng, dân tộc. Giá trị văn hóa còn mang tính
khách quan, không phụ thuộc vào bất cứ cái gì từ bên ngoài áp đặt vào để trở thành
văn hóa của một cộng đồng, một dân tộc. Không thể căn cứ vào văn hóa của một
dân tộc nào đó để làm tiêu chí xem xét, đánh giá nền văn hóa của các dân tộc còn



lại là cao hay thấp, phát triển hay không… điều đó sẽ rơi vào bệnh chủ quan, tạo
nên sự nô dịch hay sự áp đặt về văn hóa.
Có thể nói, giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là “mật mã di
truyền xã hội” của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó, đã được
tích lũy lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình
thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc . Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở
thành dân tộc. Yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi:
“Nói đến văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và
bản sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả” [78, tr.13]. Thực tế cho thấy, một dân
tộc đánh mất bản sắc văn hóa, dân tộc ấy đã đánh mất chính mình, một nền văn
hóa có tính dân tộc, là nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì
vậy, việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân
tộc, là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc.
* Bản sắc văn hóa:
Theo từ điển Tiếng Việt, bản sắc chỉ tính chất, mầu sắc riêng, tạo thành
phẩm cách đặc biệt của một vật [69, tr42].
Bản sắc văn hóa có thể hiểu là cái cốt lõi, nội dung, bản chất của một nền
văn hóa cụ thể nào đó, là những nét văn hóa riêng có của nền văn hóa một dân tộc.
Những nét riêng ấy thường được biểu hiện qua các giá trị văn hóa vật chất và tinh
thần, vật thể và phi vật thể. Các giá trị văn hóa này ra đời gắn với điều kiện môi
sinh mà dân tộc ấy thích nghi và phát triển qua các giai đoạn phát triển khác nhau.
Giá trị văn hóa ấy, cho dù có trải qua những thăng trầm, biến cố của lịch sử nó
không những không mất đi, mà cùng với thời gian, nó còn tiếp nhận những cái
hay, cái đẹp, cái phù hợp của văn hóa các dân tộc khác làm phong phú, đặc sắc
hơn cho văn hóa dân tộc mình, song vẫn phải giữ được cốt cách, giá trị căn bản,
không đánh mất linh hồn của dân tộc mình. Khi nói đến một trong những nét đặc
trưng văn hóa ấy, người ta có thể dễ dàng nhận ra đó là dân tộc nào mà không bị
nhầm lẫn, đánh đồng giá trị đó với dân tộc khác.
Bản sắc văn hóa là sức mạnh nội tại của dân tộc. Nó là hạt nhân năng động
nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ đời này qua đời khác. Bản sắc văn



hóa làm cho một dân tộc cường thịnh, không bị nô dịch và đồng hóa, mà luôn
khẳng định chính mình: “Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một
thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ được
tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển
được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa
của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập” [18, tr.48].
Bản sắc văn hóa còn là mối liên hệ thường xuyên, có định hướng của cái
riêng (văn hóa dân tộc) và cái chung (văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc trong quá
trình giao lưu văn hóa, sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào kho tàng văn
hóa chung. Đồng thời, tiếp nhận có lựa chọn, nhào nặn thành giá trị của mình, tạo
ra sự khác biệt trong cái chung đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản
sắc văn hóa dân tộc không phải là một biểu hiện nhất thời, nó có mối liên hệ lâu
dài, sâu sắc và bền vững trong lịch sử và đời sống văn hóa dân tộc.
Bản sắc dân tộc gắn liền và thường được biểu hiện thônghoạt động sống hàng
ngày, qua lao động sản xuất của con người và cộng đồng người trong mỗi giai
đoạn lịch sử. Vì vậy, có thể coi bản sắc dân tộc của văn hóa hoặc bản sắc văn hóa
dân tộc: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào
cũng được xếp vào bản sắc. Người ta chỉ coi những yếu tố văn hóa nào giúp phân
biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc” [83,
tr.13].
“Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong
sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường
xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…
trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó” [24, tr.37].
Khi nói tới bản sắc văn hóa của một dân tộc, cũng có nghĩa là nói tới bản
sắc riêng của dân tộc ấy, hay nói cách khác bản sắc văn hóa là cái cốt lõi của bản
sắc dân tộc. Bởi bản sắc của dân tộc không thể biểu hiện ở đâu đầy đủ và rõ nét
hơn ở văn hóa. Sức sống trường tồn của một nền văn hóa khẳng định sự tồn tại

của một dân tộc, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc ấy.


Bản sắc văn hóa dân tộc có hai mặt giá trị, giá trị tinh thần bên trong và biểu
hiện bên ngoài của bản sắc dân tộc có mối quan hệ khăng khít củng cố thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Văn hóa không được rèn đúc trong lòng dân tộc để có bản
lĩnh, trở thành sức mạnh tiềm tàng bền vững thì bản sắc đó sẽ mờ phai. Ngược
lại, nếu văn hóa tự mình làm mất đi những màu sắc riêng biệt, độc đáo , sẽ làm
vơi chất keo gắn kết tạo thành sức mạnh bản lĩnh của văn hóa.
Nguồn gốc tạo thành bản sắc văn hóa dân tộc có thể do nhiều yếu tố như:
Hoàn cảnh địa lý, nguồn gốc chủng tộc, đặc trưng tâm lý, phương thức lao động
sản xuất, hoạt động kinh tế. Nhưng bản sắc văn hóa dân tộc, không thể không xuất
phát từ những yếu tố tạo thành dân tộc. Vì thế hiểu khái niệm bản sắc văn hóa dân
tộc phải hiểu theo khái niệm phát triển, khái niệm mở. Nó không chỉ là hình thức
mà còn là nội dung đời sống cộng đồng, gắn với bản lĩnh các thế hệ, các dân tộc
Việt Nam. Nghị quyết hội nghị BCH TW lần thứ V khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ:
“Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình - làng xã - Tổ
quốc…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang
tính dân tộc độc đáo” [21, tr.56].
Bản sắc văn hóa dân tộc là các giá trị tiêu biểu, bền vững, phản ánh sức sống
của từng dân tộc, nó thể hiện tập trung ở truyền thống văn hóa. Truyền thống văn
hóa là các giá trị do lịch sử để lại được thế hệ sau tiếp nối, khai thác và phát huy
trong thời đại của họ để tạo nên dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa các dân
tộc. Khi đã được hình thành, truyền thống mang tính bền vững và có chức năng
định hướng, đánh giá, điều chỉnh hành vi của cá nhân và cộng đồng. Tuy nhiên,
khái niệm bản sắc văn hóa không phải là sự bất biến, cố định hoặc khép kín mà
nó luôn vận động mang tính lịch sử cụ thể. Trong quá trình này nó luôn đào thải

những yếu tố bảo thủ, lạc hậu và tạo lập những yếu tố mới để thích nghi với đòi
hỏi của thời đại. Truyền thống không chỉ bao hàm các giá trị do dân tộc sáng tạo


nên, mà còn bao hàm cả các giá trị từ bên ngoài được tiếp nhận một cách sáng
tạo và đồng hóa nó, biến nó thành nguồn lực nội sinh của dân tộc.
Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số gồm nhiều loại hình, nhiều tầng,
nhiều lớp, nhiều sắc màu, nhiều mức độ và quy mô khác nhau, tạo nên giá trị to
lớn là nền tảng bền vững của bản sắc dân tộc, là nguồn nuôi dưỡng vô tận tâm hồn
và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc. Đây là tài sảnvô giá, di sản vô
cùng quý báu của văn hóa Việt Nam. Việc nhận diện đúng về bản sắc văn hóa mỗi
dân tộc và các tộc người là việc làm hết sức có ý nghĩa. Bởi lẽ, việc giữ gìn, kế
thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phải có sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa và
thực hiện theo định hướng, đường lối của Đảng, Nhà nước và ý thức dân chủ tự
nguyện của nhân dân.
1.1.1.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Thái Đen
Dân tộc Thái Đen sống quây quần theo từng bản làng dưới sườn núi, mỗi bản
có khoảng 30 đến 80 nóc nhà kề nhau. Họ sống chủ yếu bằng trồng lúa nước, lúa
nương và chăn nuôi lợn, gà, trâu, bò... hoặc đi làm thêm, đi kiếm củi. Ở đây hầu
như mọi nhà đều tự nấu rượu ngô, rượu sắn để phục vụ gia đình mình và bán kiếm
thêm thu nhập. Phụ nữ Thái Đen có bộ trang phục rất duyên dáng, áo cóm bó sát
người, váy đen dài chấm gót, đầu đội khăn piêu. Người con gái Thái Đen khi về
nhà chồng phải chuẩn bị đủ 20 chiếc khăn piêu và chăn bông để biếu gia đình và
họ hàng nhà chồng. Phụ nữ có chồng phải vấn tóc cao trên đỉnh đầu gọi là tằng
cẩu. Điều này vừa để phân biệt được người con gái đã có chồng hay chưa, vừa thể
hiện sự thủy chung của người phụ nữ đó với chồng.
Dân tộc Thái Đen thường làm nhà sàn gỗ 5 hoặc 3 gian tùy theo điều kiện
của từng gia đình. Các gian giữa được dùng làm phòng ngủ, cách nhau bởi các
tấm rido căng dây lên các cột nhà. Hai gian bên ngoài cùng đầu đốc nhà thì dùng
làm bếp đun nấu, bên còn lại dùng để đặt bàn thờ thờ cúng ông bà, tổ tiên.

''Pạt tông'' là một trong những nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ đến ông bà, tổ
tiên. Theo lịch của dân tộc Thái cứ 10 ngày họ lại làm cơm cúng một lần và chỉ
những dòng họ lớn, danh giá mới được làm pạt tông''. Ngày mất của bậc bề trên
nhất trong họ sẽ được chọn để làm ngày giỗ chung cho cả dòng họ. Bà con thường


đồ xôi, nướng cá, nướng thịt hoặc mổ gà và thêm đĩa rau hay đĩa măng để đặt lên
bàn thờ. Trong những ngày này mọi người phải giữ yên lặng, không được làm ầm
ĩ, không được bật loa đài to. Phận dâu hoặc con gái đã đi lấy chồng thì không được
làm cơm cúng, kiêng đi lại gần chỗ thờ cúng.
Đối với những gia đình duy tâm hoặc có người hay ốm đau thì họ thường
làm thêm một ban thờ nhỏ ngoài nhà để thờ cúng ma đói ma khát, ma lang thang.
Vào những ngày mùng một, ngày rằm, hay khi trong nhà có người ốm đau họ
thường thắp hương, bày hoa quả, bánh kẹo để cúng các ma với hi vọng những hồn
ma sẽ không quấy rầy gia đình, phù hộ cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn thuận
lợi.
Ngày tết ở vùng núi cao Sơn La có rất nhiều hoạt động đặc sắc. Trong những
ngày này họ thường đi đến nhà nhau ngồi tụ tập uống rượu, hát đối đáp, múa xòe
đến thâu đêm suốt sáng. Những chàng trai, cô gái Thái thì chọn cho mình bộ trang
phục đẹp nhất để đi chơi ném còn, chơi đu quay, múa sạp...
Trên cơ sở nội hàm của khái niệm bản sắc văn hóa, đề tại đưa ra định nghĩa
về bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do dân tộc Thái Đen tạo ra trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt
tạo được những nét văn hóa độc đáo và đặc sắc cho dân tộc và vùng miền, với
những nét đặc sắc về kiến trúc nhà ở, trang phục thổ cẩm, ẩm thực, phong tục
tập quán riêng biệt, ngôn ngữ chữ viết và truyền thống lao động sản xuất vật chất
tất góp phần làm nên một nền văn hóa cho dân tộc Việt Nam thêm phong phú và
đa dạng.
Kế thừa các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội XII của Đảng
đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Để tư tưởng chỉ đạo phát triển văn
hóa của Đảng đi vào cuộc sống, cần tích cực quán triệt, thống nhất nhận thức, đề
cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên
phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước


và giữ nước. Nền tảng đó đã giúp cho nhân dân ta vượt qua bao khó khăn, thử
thách, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc và nền
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn bản sắc văn hóa
của các dân tộc thiểu số
Trên cơ sở nhận thức rõ tầm quan trọng của bản sắc văn hóa dân tộc và trong
thực trang của nó trong tình hình hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã có những chủ
trương và chính sách cụ thể và kịp thời nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
trong quá trình hội nhập. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua Nghị quyết hội nghị
lần thứ 5 ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII. Đảng đưa ra những quan
điểm chỉ đạo cơ bản như sau:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc, nền văn hóa tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình
thức biểu hiện trong các phương tiện chuyển tải nội dung. Giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những
cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải
đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán, lề thói cũ.
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn
dân do Đảng lãnh đạo trong đó có đội ngũ tri thức giữ vai trò quan trọng.

Văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển nó lại là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Cụ thể hơn những nhận định trên, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng
đề ra nhiệm vụ phải bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn
kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản săc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá
trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm


cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lí
dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
(Nghị quyết số 33-NQ/TW) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã đưa ra quan điểm về Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong
đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn,
dân chủ và khoa học.
Tại Đại hội XII của Đảng đã nêu tư tưởng chỉ đạo, nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong
bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Để
tư tưởng chỉ đạo phát triển văn hóa của Đảng đi vào cuộc sống, cần tích cực quán
triệt, thống nhất nhận thức, đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực hiện.
1.2.

Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Lịch sử hình thành dân tộc Thái và Thái Đen ở Sơn La
1.2.1.1. Lịch sử tộc dân tộc Thái
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có một cộng đồng tộc người tự
nhận mình bằng tên riêng Tăy hay Thăy và được gọi chính thức là Thái.

Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, dân tộc Thái có số dân
là 1.328.725 người, chiếm 1,74 % dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai
Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (số
lượng dân tộc Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6 % tổng số dân tộc Thái ở Việt Nam).
Trong đó tại Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491
người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ
(nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Dân tộc Thái chia thành nhiều ngành, mỗi ngành lại chia thành nhiều nhóm
khác nhau:
Nhóm Thái Trắng (Táy Đón hay Táy Khao) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu,
Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà
Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã


Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số Thái Trắng chịu ảnh hưởng
đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa. Dân
tộc Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên
từ thế kỷ 13 và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày
nay) thế kỷ XIV, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ XV. Có
thuyết cho rằng họ là con cháu người Bạch Y ở Trung Quốc.
Nhóm Thái Đen (Táy Đăm) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên. Các
nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng ở miền Tây Thanh Hóa
(Tân Thanh - Thường Xuân - Thanh Hóa), Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc
chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân
chủng của cư dân địa phương và Lào. Nhóm Tày Thanh từ Mường Thanh (- Điện
Biên) đi từ Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm,
nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa
Lào.
Nhóm Thái Đỏ, gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện
như: Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và các huyện miền núi như Bá

Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ
An).
Ngoài ra còn có chừng 20.000 dân tộc Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước
ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Trải qua hàng ngàn năm sinh sống trên các địa bàn trên lãnh thổ Việt Nam,
dân tộc Thái đã cùng các dân tộc anh em khác, tham gia dựng nước và giữ nước.
Đây cũng chính là quá trình hình thành tộc người để phát triển đến ngày nay. Hiện
nay, chưa có cách nào khác để tìm ra cội nguồn của văn hoá lịch sử tộc dân tộc
Thái, ngoài việc rút ra và đúc kết những hiểu biết mới về đời sống tâm linh của
họ. Từ đó, đưa ra những kết luận về nguồn gốc hình thành của dân tộc này.
Theo các nhà nghiên cứu, thì tổ tiên của dân tộc Thái đã sinh cơ lập nghiệp
tại một vùng nào đó chính trong phạm vi họ đang cư trú hiện nay, có thể từ trước
công nguyên đã có một phần dân tộc Thái cư trú chủ yếu là ở vùng Mường Thanh
bây giờ. Sang những thế kỷ đầu công nguyên, một bộ phận Thái Trắng ở đầu sông


Đà, sông Nậm Na đã di cư xuống phía Nam cư trú ở các huyện phía Bắc như
mường Tè, mường Xo (Phong Thổ), mường Lay, Quỳnh Nhai (Sơn La). Đến thế
kỷ thứ XI theo “Quăm Tô Mương” cho rằng: Khởi thủy từ thời đại của anh em
Tạo Xuông, Tạo Ngần đưa ngành Thái xuôi theo dòng sông Hồng xuất phát từ
mường Ôm, mường Ai (Vân Nam, Trung Quốc) đến mường Lò (Nghĩa Lộ). Sau
đó hậu duệ Tạo Xuông, Tạo Ngần đã khai “Mường” lập “Tạo” tạo ra cả một vùng
rộng lớn gồm rất nhiều huyện. Vùng giữa ngày nay: Thuận Châu (Mường Muổi)
thuộc tỉnh Sơn La là thủ phủ của ngành Thái Đen. Cho đến cuối thế kỷ XIII, dân
tộc Thái ở Việt Nam đã ổn định về cư trú chủ yếu ở Tây Bắc Việt Nam.
Lịch sử phát triển của dân tộc Thái theo con đường dích dắc qua hàng ngàn
năm, nhưng với người trong nhóm nói tiếng Thái vẫn giữ mạch tư duy văn hóa
lưỡng phân, lưỡng hợp để tưởng nhớ quê cha đất tổ xa xưa nhất.
1.2.1.2. Dân tộc Thái ở Sơn La
Là dân tộc có số dân khá đông ở Sơn La. Năm 1989 dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La

đã có khoảng 40 vạn người, năm 2005 có khoảng 52 vạn người.
Dân tộc Thái có những đặc trưng của một nhóm địa phương tương đối thuần
nhất. Hiện phân bố ở Thành phố Sơn La và các huyện Mường La, Thuận Châu,
Mai Sơn, Sông Mã, Sốp Cộp. Ngoài ra, còn có một phần phân bố ở các huyện
Mộc Châu, Quỳnh Nhai. Một nhóm Thái có hơi khác một số điểm về tập quán
và thổ ngữ, hiện đang cư trú ở huyện Yên Châu nên thường gọi là Thái Yên Châu.
Cho dù hiện nay có hai ngành Thái (Thái Đen và Thái Trắng), chẳng qua
cũng là sự chuyển hóa từ một nhóm Thái cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người
một ngả. Rồi đến địa vực cư trú mới của mình, từng nhóm một tiếp xúc với điều
kiện tự nhiên và chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh rồi xa dần cái nguyên
gốc của mình. Tuy vậy, dân tộc Thái ở Sơn La vẫn mang trong mình những nét
văn hóa riêng, độc đáo cần được giữ gìn, kế thừa và phát huy.
1.2.2. Thực chất bản sắc văn hóa của dân tộc Thái Đen ở Sơn La
1.2.2.1. Bản sắc văn hóa vật chất của dân tộc Thái Đen ở Sơn La
* Về kiến trúc nhà ở của dân tộc Thái Đen ở Sơn La


×