Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, TP châu đốc, tỉnh an giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (913.67 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRẦN XUÂN HẢI

NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ
CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

TRẦN XUÂN HẢI

NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THÀNH PHỐ
CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VÕ VĂN THẮNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Sau 02 năm học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
tôi đã được các thầy, cô giáo trang bị cho những kiến thức cơ bản về Triết
học, cùng với sự giúp đỡ của bạn bè, gia đình và đồng nghiệp, đến nay tôi đã
hoàn thành chương trình đào tạo Cao học chuyên ngành Triết học. Với những
kiến thức được trang bị tại trường và những kinh nghiệm trong quá trình công
tác của bản thân, tôi đã nghiên cứu và hoàn thành đề tài “Nâng cao năng lực
thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An
Giang hiện nay”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã được gia đình, cơ quan nơi công
tác tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thời gian tham gia học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt là sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình, trách nhiệm của thầy giáo
PGS.TS Võ Văn Thắng - Người hướng dẫn khoa học; sự giúp đỡ tạo điều
kiện của các cơ quan Thành ủy, UBND Thành phố, Ban Tổ chức Thành ủy,
Phòng Nội vụ, Phòng Thống kê và một số phòng, ban khác của thành phố
Châu Đốc, tỉnh An Giang. Bằng tình cảm chân thành và sự kính trọng của
mình, tôi xin trân trọng cảm ơn đã hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điệu kiện và động
viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài của mình.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng cũng không tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn và Hội đồng bảo
vệ luận văn để bản thân hoàn chỉnh đề tài, nhằm vận dụng vào thực tiễn công
tác ở địa phương tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 6 năm 2017
Tácgiả luận văn

Trần Xuân Hải


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN .......................... 1
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 2
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG
LỰCTHỰCTIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG ........... 11
1.1. Một số khái niệm liên quan đến nâng cao năng lực thực tiễn của cán
bộ chủ chốt cấp xã, phường ............................................................................ 11
1.2. Yêu cầu về năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ....... 20
1.3. Vai trò của cán bộ chủ chốt cấp xã trong hệ thống chính trị ở cơ sở....... 28
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
THỰC TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở
THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG HIỆN NAY ....................... 37
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến năng lực thực
tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An
Giang hiện nay ................................................................................................ 37
2.2. Thực trạng về năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay................................ 42
2.3. Mục tiêu, quan điểm của Đảng về nâng cao năng lực thực tiễn cho
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
hiện nay ........................................................................................................... 55
2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực thực tiễn cho cán
bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện
nay ................................................................................................................... 62
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92



1

DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBCC

Cán bộ chủ chốt

CCB

Cựu Chiến binh

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐTN

Đoàn Thanh niên

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

HPN


Hội Phụ nữ

HND

Hội Nông dân

UBND

Ủy ban nhân dân

UB MTTQ

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc


2

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp của nước ta hiện nay, xã,
phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) có vị trí rất quan trọng được ghi
nhận tại Điều 110, Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013. Cấp xã là nơi thực tiễn diễn ra sôi động hàng ngày; nơi trực
tiếp biến mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thành hiện thực sinh động của cuộc sống; nơi kiểm nghiệm tính
đúng đắn của chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết của Đảng có đi vào cuộc sống, có trở thành hiện thực hay
không, một phần rất quan trọng tùy thuộc vào cán bộ chủ chốt (CBCC)
cấp xã. Cán bộ chủ chốt cấp xã, phường có vai trò rất quan trọng trong
việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân, huy động mọi khả năng kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của
cộng đồng dân cư.
Để có thể thực hiện được việc chăm lo cho dân, phát triển sức dân
thì phải có tổ chức bộ máy tốt, có đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng
lực tương xứng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Đó là những người tận
tâm, liêm khiết, tháo vát, sáng tạo, đặc biệt cần có năng lực thực tiễn
(NLTT).
Yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ mới, Đảng ta đã xác định, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn là
nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là
người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thực hiện các quá trình đó. Vì vậy,
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường giữ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Nếu
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường không được xây dựng ngang tầm thì
không thể thực hiện yêu cầu nhiệm vụ mà Đảng ta đã đề ra. Nắm bắt
được tầm quan trọng đó Đảng ta đã nhiều lần khẳng định trong các lần


3

Đại hội như Đại hội VII, VIII, IX Đảng ta xác định, lấy phát triển kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, mà công tác xây dựng Đảng thì
cán bộ và công tác cán bộ là quan trọng nhất, là khâu “then chốt trong
vấn đề then chốt”, là “nguyên nhân của nguyên nhân”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới trong nông nghiệp
và nông thôn đã có những chuyển biến quan trọng và đạt được thắng lợi
nhiều mặt. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, trước xu thế toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế thế giới và cam kết tham gia các định chế kinh tế khu vực và
toàn cầu, Đảng ta luôn xác định, “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Với nhiệm vụ phát triển kinh tế,

chúng ta cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa
(CNH), hiện đại hóa (HĐH), phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Cùng với việc
xây dựng và chỉnh đốn Đảng từ cấp cơ sở, công tác cán bộ đã có những
bước tiến quan trọng, đạt được những kết quả ban đầu, từng bước xây
dựng được đội ngũ cán bộ có chất lượng. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận
thấy rằng, chất lượng đội ngũ cán bộ nói chung, nhất là cấp cơ sở vẫn còn
nhiều yếu kém. Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết TW 5,
khóa IX: “Hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong
công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng”.
Tổng kết thực tiễn cho thấy, nhìn chung cán bộ còn nhiều lúng túng trong
tổ chức thực hiện từ việc triển khai chủ trương, chính sách, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước cho tới việc thực hiện còn thiếu kinh nghiệm, chưa
thống nhất, chưa đồng bộ, kém hiệu quả.
Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, hệ thống chính trị
từ Trung ương tới cơ sở cần phải được đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động và chỉnh đốn tổ chức, nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX
đã nhấn mạnh: Để đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị


4

cơ sở, từ nay đến năm 2020, một trong những nhiệm vụ bức xúc cần tập
trung giải quyết là “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực thực
tiễn và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, công tâm, thạo việc, biết phát huy sức mạnh, không tham
nhũng, ức hiếp dân”. Nói cách khác, chất lượng của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt có ý nghĩa to lớn, quyết định trực tiếp sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Do đó, để góp phần thực hiện tốt các Nghị quyết
của Đảng, việc nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực thực tiễn của cán

bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
hiện nay” là vấn đề cực kỳ cấp bách. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài này để
làm luận văn thạc sĩ Triết học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Liên quan đến vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ
chốt cấp xã, phường đã có nhiều nghiên cứu, công trình công bố. Tiêu biểu
những công trình đó có thể kể ra sau đây. Đề tài cấp Bộ: Nâng cao năng
lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ cấp huyện biên giới phía Bắc nước ta hiện
nay (2000) do TS - Nguyễn Phương Thảo làm chủ nhiệm. Đề tài đã khảo
sát, đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân dẫn đến chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt ở các huyện biên giới phía Bắc và năng lực tổ chức thực
tiễn của họ trong tình hình hiện nay.
GS.TS Lê Hữu Nghĩa với Một số vấn đề xây dựng đội ngũ lãnh
đạo chủ chốt cấp huyện các dân tộc ở Tây Nguyên; Nguyễn Xuân
Phương với Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn cho cán bộ chủ chốt
cấp huyện ở Việt Nam hiện nay… đã khái quát một số năng lực cần có
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện đồng thời nêu lên được
các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tổ chức thực tiễn (NLTCTT) của họ.
Một số công trình nghiên cứu về phẩm chất, năng lực của cán bộ
trong mối tương quan với các vấn đề khác như: Đề tài Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh


5

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1997-2001) do GS.TS Nguyễn
Phú Trọng làm chủ nhiệm và PGS.TS Trần Xuân Sầm làm phó chủ nhiệm
đã luận giải căn cứ lý luận và thực tiễn về xây dựng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đánh giá thực
trạng chất lượng các loại cán bộ, công tác cán bộ phân tích nguyên nhân,

kinh nghiệm, từ đó đưa ra giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Các luận văn, luận án liên quan đến cán bộ chủ chốt cấp xã có thể
kể đến:
+ Phạm Công Khâm (2001) với luận án Tiến sĩ, Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long hiện
nay: Luận án đã làm rõ cơ sở khoa học về vai trò đội ngũ cán bộ chủ chốt
và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã; đánh giá thực trạng
và những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long; chỉ ra mục tiêu, quan điểm
và đề xuất những giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt theo yêu
cầu mới trong điều kiện hiện nay.
+ Lê Hanh Thông (2003), Đổi mới giáo dục lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã các tỉnh khu vực Nam Bộ.
Luận án đã nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống về công tác giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã
các tỉnh khu vực Nam Bộ; trên cơ sở đó tác giả đề xuất một hệ thống các
giải pháp tác động phù hợp và kiến nghị những đổi mới nội dung, chương
trình, phương thức giáo dục lý luận chính trị, góp phần nâng cao vai trò,
phẩm chất và năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta trong quá
trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Giao Thị Châu (2005), Chất lượng Bí thư đảng ủy xã ở tỉnh Hà
Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Đây là một luận văn thạc sĩ về công tác
xây dựng Đảng rất cần tham khảo, kế thừa thành quả nghiên cứu về việc


6

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ Bí thư đảng ủy xã trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.

+ Trần Ngọc Danh (2005), Chính sách đối với đội ngũ cán bộ
trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An. Luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Chính trị học này đã đi sâu bàn về chính sách đối với đội ngũ cán
bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở ở tỉnh Nghệ An giúp tham khảo khi
bàn về chính sách, đãi ngộ với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở ở Thạch Hà, Hà Tĩnh.
+ Trần Trung Trực (2005), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học cũng đã
phân tích thực trạng, phương hướng, giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt hệ thống chính trị cấp xã ở huyện Bình Chánh. Đây cũng là một
tài liệu tham khảo cần thiết giúp học viên triển khai đề tài luận văn của
mình.
+ Thành Từ Dũ (2006) Báo chí với việc giáo dục ý thức chính trị
cho các bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh hiện nay. Luận văn Thạc sĩ Triết
học này tìm hiểu thực trạng vai trò báo chí với việc giáo dục ý thức chính
trị cho cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Tây Ninh và đưa ra những giải pháp chủ
yếu nâng cao vai trò báo chí trong giáo dục ý thức chính trị cho đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở ở Tây Ninh.
+ Tăng Nghĩa (2006), Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp huyện tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn
thạc sĩ xây dựng Đảng này đã bàn trực tiếp về xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt của hệ thống chính trị cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh nói chung. Đây
là tài liệu tham khảo đáng quý về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện, xã ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
+ Mai Đức Ngọc (2007), Vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
xã trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn nước ta hiện


7


nay (qua thực tế vùng đồng bằng sông Hồng). Luận án được bảo vệ thành
công năm 2007 tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh. Đây là một công trình giúp tham khảo những khía cạnh lý luận và
thực tiễn về vai trò của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã trong việc giữ
vững ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
+ Nguyễn Phi Long (2007), Quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp xã ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này đã
đi sâu nghiên cứu về quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở
tỉnh Ninh Bình, giúp làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu về quản lý đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh.
+ Lường Thị Mến (2008) Bệnh kinh nghiệm ở đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn hiện nay. Luận văn Thạc
sĩ chuyên ngành Triết học này đã đi sâu phân tích về bệnh kinh nghiệm ở
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Bắc Cạn, chỉ
ra nhiều điểm hạn chế chung ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp xã ở các địa bàn nông thôn Việt Nam nước ta. Đây cũng là một
nguồn tài liệu tham khảo đáng quý cho quá trình thực hiện luận văn.
+ Tống Phước Trường (2008), Nâng cao ý thức chính trị xã hội chủ
nghĩa cho đội ngũ cán bộ cấp xã ở tỉnh Kiên Giang hiện nay. Đây là một
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, đã đi sâu
nghiên cứu làm rõ tầm quan trọng của ý thức chính trị xã hội chủ nghĩa
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
+ Nguyễn Văn Vũ (2008), Kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã ở tỉnh
Bạc Liêu hiện nay. Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa
học này đã phân tích, luận giải về việc kiện toàn hệ thống chính trị cấp xã
ở tỉnh Bạc Liêu.
+ Trần Duy Hưng (2009), Chất lượng bí thư đảng ủy xã vùng đồng
bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay. Luận án này cũng được bảo vệ thành



8

công năm 2009 ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Nội dung cơ bản luận án đã phân tích, luận giải về chất lượng bí thư
đảng ủy xã vùng Đồng bằng sông Hồng; những kết quả, hạn chế, yếu kém
trong đào tạo bồi dưỡng tạo nguồn, bí thư đảng ủy xã trên địa bàn vùng
Đồng bằng sông Hồng trước yêu cầu của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
- Các nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học:
+ Lê Minh Thông: “Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt
động của chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2002;
+ GS.TSKH - Vũ Huy Từ: “Một số giải pháp tăng cường năng lực
đội ngũ cán bộ cơ sở”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 5/2002;
+ TS. Nguyễn Minh Phương:“Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, số
7/2003;
+ Nguyễn Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Thắng: “Công tác lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 9/2006;
+ Nguyễn Đức:“Về đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”,
Tạp chí Cộng sản, số 9/2008;
+ Nguyễn Trọng Hải:“Một số vấn đề về đổi mới hoạt động của Ủy
ban nhân dân cấp xã trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, số 12/2012.
Các bài viết khoa học trong các tạp chí nói trên đã phân tích, đánh
giá khái quát về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở nước ta với nhiều gốc độ
tiếp cận khác nhau. Trong khuôn khổ có hạn của một bài viết, các tác giả

chỉ đưa ra một số vấn đề chung nhất về đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã,
chưa đi sâu nghiên cứu những giải pháp để áp dụng trong thực tế tại các
địa phương cụ thể.


9

Các công trình khoa học như tổng thuật đã cung cấp nhiều luận cứ,
luận chứng cả về lý luận và thực tiễn cho việc triển khai đề tài. Tuy nhiên,
vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở
thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách toàn diện, hệ thống. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần
tích cực vào việc nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở
thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.
Đề tài luận văn này sẽ tiếp thu có chọn lọc và kế thừa những kết
quả nghiên cứu nêu trên. Ngoài ra, trong luận văn tác giả tập trung nghiên
cứu vấn đề nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Luận văn làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn việc nâng cao
năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu
Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.
Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành
phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trước những yêu cầu mới của cách mạng
hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể
Luận văn nghiên cứu cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố

Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.
4.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu cán bộ chủ chốt cấp xã, phường tập trung vào
cán bộ chủ chốt của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các Đoàn thể chính
trị cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay.
5. Giả thuyết khoa học


10

Để nâng cao năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường
ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, trước hết cần phải nâng cao hiệu
quả công tác quản lý, sử dụng cán bộ chủ chốt cấp xã, phường; cải thiện
môi trường làm việc; bảo đảm quyền tham gia quản lý Nhà nước của
nhân dân và cán bộ chủ chốt phải biết tự hoàn thiện bản thân để nâng cao
năng lực thực tiễn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực thực
tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An
Giang hiện nay.
- Khảo sát, thu thập và phân tích thực trạng năng lực thực tiễn
(NLTT) của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh
An Giang hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao năng lực
thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang trong giai đoạn
hiện nay.
7. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng năng lực thực tiễn của
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

hiện nay.
- Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác cán bộ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.


11

- Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp; lôgíc và
lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học, đặc biệt coi trọng
phương pháp tổng kết thực tiễn, v.v.
9. Đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học của việc nâng cao
năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thành phố Châu
Đốc, tỉnh An Giang nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới.
- Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập về công tác cán bộ, công tác xây dựng
Đảng và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở.
10. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn được bố cục làm 02 chương và 09 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC
TIỄN CỦA CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG
1.1. Một số khái niệm liên quan đến việc nâng cao năng lực
thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã, phường

1.1.1. Khái niệm về cán bộ, cán bộ chủ chốt và cán bộ chủ chốt cấp

1.1.1.1. Cán bộ
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái
quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách
của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng
thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng" [32, tr.33].
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì:
"Cán bộ: 1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước. 2.


12

Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước" [53,tr.109].
Theo Điều 4 Luật cán bộ, công chức của Quốc hội ban hành ngày
13/11/2008: "Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội... trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách" [29,
tr.1].
Từ những định nghĩa nêu trên, chúng ta có thể hiểu “cán bộ” là
khái niệm dùng để chỉ những người có chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương,
thuộc biên chế Nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; giữ vai
trò và cương vị nòng cốt trong cơ quan, tổ chức (có thể là người lãnh đạo,
người quản lý), có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động và sự phát triển
của cơ quan, tổ chức.

Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ nhưng tựu trung lại, có hai
quan niệm cơ bản nói về cán bộ:
- Cán bộ là những người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và
làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội,
các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung
ương đến cơ sở.
- Cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức nào đó nhằm phân biệt với người không có chức vụ.
Hiểu theo nghĩa chung nhất thì cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm
việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ
được hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra


13

trường, được bổ nhiệm, đề bạt hoặc được bầu cử trong các cơ quan dân
cử.
1.1.1.2. Cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt, từ "chủ chốt" là "quan trọng nhất, có tác
dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [50, tr.174].
Như vậy, có thể hiểu cán bộ chủ chốt là người có chức vụ, nắm giữ
các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ
thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương các
nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về lĩnh vực công tác được giao. Cán bộ chủ chốt là người có vị trí
quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng,
mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ chức thực
hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám

sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều
chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết
thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, cán bộ chủ chốt còn
là người giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng
thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững
mạnh. Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập
thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong
cơ quan Đảng, chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và
là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt
động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
Như vậy, cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là những người đứng đầu
quan trọng nhất trong hệ thống của tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở; có tác động chi phối việc
chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của


14

Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội trên địa bàn nông thôn mà họ phụ trách.
1.1.1.3. Cán bộ chủ chốt cấp xã, phường
Cấp xã, phường theo quy định của Hiến pháp năm 1992 là đơn vị
hành chính nhà nước ở địa phương thuộc hệ thống hành chính 04 cấp của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cấp xã, phường là hình
ảnh xã hội của một đất nước thu nhỏ, là cơ sở, là nền tảng, là nơi tiếp thu,
triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi hoạt động trên tất
của các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh. Là nơi
trực tiếp, thường xuyên quan hệ, tiếp xúc với quần chúng nhân dân, nơi
thể hiện rõ nhất và kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả mọi chủ trương,

nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: "Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã
làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi" [35, tr.371-372]. Do vậy, cấp
xã có vai trò rất quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, đặc biệt là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước hiện nay.
Căn cứ các khái niệm trên, chúng ta thấy cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng
làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở.
Theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Nghị định
114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức
xã, phường, thị trấn; Quyết định 04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ
trưởng Bộ Nội vụ về tiêu chuẩn đối với cán bộ công chức xã, phường, thị
trấn; Điều 61 Luật Cán bộ, Công chức thì CBCC cấp xã, phường gồm:
a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;


15

c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
e) Chủ tịch Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam;
g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường,
thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội
Nông dân Việt Nam);
h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam [29, tr.3].
Với đề tài này, tác giả luận văn đề cập cán bộ chủ chốt cấp xã,

phường ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang bao gồm các chức danh: Bí
thư, Phó Bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân
(HĐND); Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND); Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Bí thư Đoàn
Thanh niên; Chủ tịch Hội Nông dân; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã,
phường.
1.1.2. Khái niệm về năng lực, nâng cao năng lực và nâng cao
năng lực thực tiễn
1.1.2.1. Năng lực
Khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói đến năng lực thuộc
về hoạt động cụ thể nào đó như năng lực toán học của hoạt động học tập
hay nghiên cứu toán học, năng lực hoạt động chính trị của hoạt động
chính trị, năng lực quản lý của hoạt động quản lý Nhà nước...Với tư cách
là một phạm trù, năng lực đã được nhiều ngành khoa học, nhiều tác giả
tiếp cận với những cấp độ và khía cạnh khác nhau, đem lại những kết quả
mang tính đặc trưng của mỗi ngành.
Năng lực nói chung được hiểu là khả năng của chủ thể trong việc
thực hiện có kết quả cao một hoạt động hoặc một công việc nào đó trong
điều kiện nhất định, là những phẩm chất của con người cho họ có khả
năng hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động nhất định.


16

Theo Từ điển Tiếng Việt, “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó ở mức độ
cao, hoặc năng lực được hiểu là những phẩm chất của con người tạo cho
con người đó khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động
nhất định” [50, tr.238].
Năng lực còn được hiểu là: "Tổng hợp những thuộc tính độc đáo

của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động
nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành có kết quả tốt trong hoạt động lĩnh
vực ấy" [53, tr.174].
Như vậy, năng lực là khả năng thực tế mà con người có được thông
qua trau dồi học vấn, hoạt động thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm, tự giáo
dục và tự đào tạo để đáp ứng một yêu cầu nào đó của công việc được giao
phó nhằm giải quyết những nhiệm vụ hay xử lý những tình huống đặt ra
trong công tác, trong đời sống hằng ngày. Năng lực là những khả năng
của chủ thể hoạt động được sử dụng để đáp ứng đòi hỏi của công việc,
của đối tượng và khách thể đặt ra. Khi nói đến năng lực phải nói đến từng
con người cụ thể, đó là người đã trưởng thành về mặt xã hội, là một cá
nhân, một chủ thể mang nhân cách. Tùy thuộc vào nghề nghiệp, vị thế xã
hội, chức trách... của từng cá nhân mà biểu hiện những khả năng khác
nhau một cách đa dạng, sinh động, phức tạp.
Năng lực là khả năng, những phẩm chất tâm sinh lý vốn có của con
người, những khả năng phẩm chất ấy vừa là sản phẩm của tự nhiên đồng
thời cũng là sản phẩm mang tính lịch sử - xã hội. Tuy nhiên, cái tự nhiên
đó chỉ thực sự trở thành năng lực khi nó thẩm thấu qua lăng kính của thực
tiễn, tự học tập, trau dồi, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ
nhận thức, trình độ tư duy khoa học. Khẳng định về điều này, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: "Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà có, mà một phần lớn do tập luyện, do công tác mà có" [34,
tr.269].


17

1.1.2.2. Nâng cao năng lực
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nâng cao là làm tăng thêm” [50,
tr.968].

Như vậy, căn cứ các khái niệm trên chúng ta thấy rõ nâng cao năng
lực là “làm tăng thêm khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay
“năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một
hoạt động nào đó”. Nâng cao năng lực là những phương hướng, giải pháp
trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng và bố trí cán bộ
nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về năng lực, trình độ, phẩm chất và
những tố chất cần thiết của cán bộ trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ
chính trị được giao.
1.1.2.3. Nâng cao năng lực thực tiễn
Thực tiễn bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (Pratica) có nghĩa là hoạt
động tích cực, chủ động. Trong lịch sử triết học, có rất nhiều quan điểm
khác nhau về thực tiễn, có thể phân các quan điểm về thực tiễn, đó là hai
trào lưu khác nhau như sau:
Quan điểm của các trào lưu triết học trước Mác với những đại biểu
như: Điđơrô (nhà triết học Pháp thế kỉ XVIII) đã đề cập phạm trù thực
tiễn nhưng hiểu nó chưa đầy đủ. Thực tiễn được hiểu là các hoạt động
thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm. Phoiơbắc nhà triết học
duy vật siêu hình (người Đức) quan niệm thực tiễn là những hành động
bẩn thỉu có tính chất con buôn. Hêghen, nhà triết học duy tâm khách quan
(người Đức) cho rằng, thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng chứ không
phải là bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất.
Một số nhà triết học duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động của
con người nhưng cũng chỉ hiểu được thực tiễn là hoạt động tinh thần, chứ
không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của
con người.


18

Những nhà duy tâm chủ quan lại cho rằng, hoạt động thực tiễn bị

chế định bởi ý chí, bản năng hoặc những nhân tố tiềm thức. Chẳng hạn,
nhà triết học người Mỹ W. James coi kinh nghiệm tôn giáo là thực tiễn là
những hoạt động tinh thần thuần túy. Với những quan niệm như trên cho
ta thấy rằng, hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa duy tâm về thực tiễn là ở nó
tuyệt đối hóa những hoạt động tinh thần, tư tưởng, hiểu thực tiễn như là
hoạt động tinh thần thuần túy.
Như vậy, các nhà khoa học trước Mác đã có nhiều quan điểm khác
nhau về thực tiễn, mang tính duy tâm, đúng nhưng chưa đầy đủ. Nói đúng
hơn, các quan điểm trên là chưa hoàn chỉnh, toàn diện, chưa thật sự khoa
học.
Bằng tư duy biện chứng, kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục
những thiếu sót trong quan điểm về thực tiễn của các nhà triết học trước
đó, Mác và Ph. Ănghen đã đưa ra một quan điểm đúng đắn, khoa học về
thực tiễn và vai trò của nó với nhận thức cũng như với sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Theo C.Mác, quan hệ đầu tiên của con người
với tự nhiên là quan hệ thực tiễn. C.Mác viết: "Con người hoàn toàn
không bắt đầu từ chỗ ở trong quan hệ lý luận đối với những vật của thế
giới bên ngoài... mà tích cực hoạt động". Như vậy C.Mác đã khẳng định
rằng, con người luôn tác động vào thế giới xung quanh, hoạt động thực
tiễn là hoạt động bản chất của con người. Nếu con vật chỉ hoạt động theo
bản năng nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài thì
con người nhờ vào hoạt động thực tiễn như hoạt động có mục đích, có
tính xã hội mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi
một cách chủ động, tích cực với thế giới để làm chủ thế giới. Sự khác biệt
căn bản của con người với thực thể tự nhiên là ở chỗ con người có khả
năng nhận thức được thế giới khách quan và luôn tác động vào thế giới
khách quan đó để làm biến đổi, cải tạo nó theo nhu cầu và mục đích của
mình. Để tác động vào thế giới khách quan đó một cách tích cực, sáng tạo



19

đòi hỏi con người phải có sự nhận thức. Bởi nhận thức là hoạt động đặc
trưng của con người, nó được biểu hiện ra trong mối quan hệ với thực tiễn.
Hay nói khác, nhận thức nảy sinh tác động và phát triển thực tiễn và vì
thực tiễn của con người. V.I.Lênin nhận xét: "Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Theo triết học Mác, thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ
những hoạt động vật chất, có tính mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
Như trên đã trình bày, hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất
của con người, chỉ thông qua hoạt động thực tiễn thì con người mới nhận
thức, cải tạo thế giới khách quan. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động
thực tiễn đòi hỏi con người phải biết tổng kết, rút kinh nghiệm,... để từ đó
tìm ra phương án tối ưu nhất cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt là loại năng lực riêng biệt,
nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong kiểm tra, tổng kết việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở từng cấp địa
phương. Việc chỉ ra những nhiệm vụ nào chưa hoàn thành, thành tựu đạt
được và tồn tại chủ yếu, tìm ra nguyên nhân của thành công và thất bại,
kiểm tra lại đường lối, chủ trương, kế hoạch, phát hiện những mâu thuẫn
cần giải quyết... có khách quan, chính xác hay không phụ thuộc vào năng
lực của chủ thể tổng kết. Bởi kết quả của việc tổng kết sẽ làm cơ sở cho
việc xây dựng đường lối, chủ trương, chỉ đạo giai đoạn cách mạng tiếp
theo.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước thâm nhập vào quần chúng đến đâu, được quần chúng nhân dân ủng
hộ tới đâu, đồng tình đến mức độ nào, có mâu thuẫn xảy ra trong quá
trình thực hiện chủ trương, đường lối đó hay không sẽ là tiêu chuẩn, là
thước đo một cách chính xác nhất năng lực thực tiễn của cán bộ lãnh đạo,

quản lí. Cho nên, năng lực thực tiễn là một yêu cầu rất quan trọng đối với


20

cán bộ chủ chốt ở các cấp. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải ai cũng
có năng lực thực tiễn, bởi mỗi người sinh ra và lớn lên trong một điều
kiện, hoàn cảnh khác nhau, trường đời khác nhau, môi trường học tập
khác nhau, nên nhận thức của họ có sự khác nhau, có khi người có trình
độ học vấn cao nhưng không thể là cán bộ chủ chốt được. Nói về vấn đề
này, Lênin đã chỉ rõ: “Bất kì công tác quản lí nào cũng đều đòi hỏi phải
có những đặc tính riêng biệt, có người có thể là một nhà cách mạng và
nhà cổ động cừ nhất nhưng làm một cán bộ quản lí thì hoàn toàn không
thích hợp”.
Trong tất cả các năng lực của con người, năng lực thực tiễn là một
nhân tố đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn của con
người. Năng lực thực tiễn được thể hiện ra: Sự nhạy cảm của chủ thể tổng
kết thực tiễn đối với những vấn đề thực tiễn cần tổng kết; khả năng xử lý
thông tin một cách nhanh nhạy, chính xác và kịp thời, khả năng khái quát
hóa để rút ra những kết luận mang tính lý luận từ thực tiễn đã qua; khả
năng vận dụng được những bài học kinh nghiệm đã rút ra từ thực tiễn đã
qua để tổ chức những hoạt động thực tiễn tiếp theo.
1.2. Một số yêu cầu về năng lực thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp
xã, phường
1.2.1. Mục tiêu của việc nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ
chủ chốt cấp xã, phường
Trước xu thế tất yếu của quá trình phát triển và hội nhập quốc tế,
nhận rõ cơ hội và thách thức, Đảng ta xác định mục tiêu tổng quát của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 là đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ yêu cầu của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng phải xây dựng được đội ngũ
cán bộ có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực, trình độ,
nhất là đối với cán bộ chủ chốt cấp xã, phường. Trong khi đó, trình độ


21

chuyên môn, lý luận chính trị, kiến thức về khoa học, công nghệ của cán
bộ chủ chốt cấp xã, phường hiện nay nhìn chung còn thấp, chưa thường
xuyên được đào tạo, bồi dưỡng là thách thức lớn đặt ra đối với công tác
cán bộ của Đảng. Vì vậy, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương (khóa IX) đã ra nghị quyết về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn". Đây là một nghị quyết rất cơ
bản và toàn diện nhằm xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở cơ sở và được xác định là một trong
những vấn đề cơ bản và bức xúc cần tập trung giải quyết, là một yêu cầu
tất yếu khách quan, nhiệm vụ cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Năng lực cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là hệ thống những chuẩn
mực bao gồm cả phẩm chất chính trị, đạo đức; kiến thức, năng lực, trình
độ; phong cách làm việc,... là sự thống nhất giữa đức và tài của người cán
bộ chủ chốt... Trên cơ sở các tiêu chuẩn chung của cán bộ và tiêu chuẩn
riêng của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân do Nghị
quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xác định rất rõ về mục tiêu là: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc
biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị
vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế
hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội” [15; tr.168].
Từ mục tiêu đó, Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược
cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tập
trung xác định các tiêu chuẩn đối với cán bộ nói chung, trong đó có cán
bộ chủ chốt trong thời kỳ mới bao gồm:


×