Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Đặc sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết của ma văn kháng một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ; người thợ mộc và tấm ván thiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (843.82 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN NỮ KHÁNH HƯƠNG

ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG HAI TIỂU THUYẾT CỦA
MA VĂN KHÁNG MỘT VÙNG ĐẤT HOANG
VÀ NHỮNG CUỘC GẶP GỠ; NGƯỜI THỢ
MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60.22.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện

HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo, PGS. TS Nguyễn Ngọc
Thiện người đã hướng dẫn tận tình để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, phòng Sau đại học, quý thầy cô đã trực tiếp giảng dạy tôi trong suốt
khóa học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô trong Hội đồng chấm luận văn đã
dành thời gian đọc và đóng góp ý kiến.
Xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ động viên của gia đình, bạn bè và đồng


nghiệp đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có những cố gắng, tìm tòi nhất định, song chắc chắn luận văn
không tránh khỏi hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của thầy, cô và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016
Học viên

Nguyễn Nữ Khánh Hương


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo,
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện. Tôi xin cam đoan:
- Luận văn là kết quả nghiên cứu tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực.
- Những gì được triển khai trong luận văn không trùng khít với bất kì công
trình nghiên cứu của các tác giả nào đã được công bố trước đó.

Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2016
Học viên

Nguyễn Nữ Khánh Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1.MỘT VÙNG ĐẤT HOANG VÀ NHỮNG CUỘC GẶP GỠ - TIỂU

THUYẾT KIỂU CHƯƠNG HỒI MỚI ........................................................................... 7

1.1. Sự khám phá hiện thực nơi những vùng đất mới sau chiến tranh ......................8
1.2. Kết cấu tiểu thuyết chương hồi mới ..................................................................17
1.3. Luân chuyển điểm nhìn và ngôi kể ...................................................................22
1.4. Khắc họa tính cách các loại nhân vật ................................................................28
1.4.1. Nhân vật trí thức. ...........................................................................................29
1.4.2. Nhân vật nữ ....................................................................................................33
1.4.3. Nhân vật phản diện ........................................................................................36
CHƯƠNG 2. NGƯỜI THỢ MỘC VÀ TẤM VÁN THIÊN- TIỂU THUYẾT LUẬN
ĐỀ .................................................................................................................................... 38

2.1. Tiểu thuyết luận đề với tư tưởng bao dung hướng thiện ..................................39
2.1.1. Tiểu thuyết luận đề .........................................................................................39
2.1.2. Người thợ mộc và tấm ván thiên với tư tưởng bao dung, hướng thiện..........40
2.2. Các kiểu nhân vật trong không gian đô thị .......................................................47
2.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ...........................................................................53
2.4. Một vài nét về nghệ thuật trần thuật .................................................................58
2.4.1. Người kể chuyện và điểm nhìn .......................................................................28
2.4.2. Giọng điệu triết lý ..........................................................................................63
CHƯƠNG 3. NHỮNG ĐẶC SẮC CỦA TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG GẦN ĐÂY66

3.1. Cái nhìn nghệ thuật, đa chiều đầy trải nghiệm, thâm thúy, lão thực ................67
3.2. Chủ đề có giá trị nhân văn hướng về cái thiện, cái đẹp ....................................72
3.3. Sự phong phú về ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................75
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 86


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Ma Văn Kháng là một trong những tên tuổi đáng chú ý của làng văn xuôi
đương đại Việt Nam. Ông vốn là một nhà giáo sinh ra ở Hà Nội nhưng lại gắn bó
với miền núi nơi còn bao nhọc nhằn, gian khó. Chính những năm tháng dạy học,
sống cùng đồng bào Tây Bắc đã cho Ma Văn Kháng một vốn sống phong phú để
từ đó kết tinh trong các tác phẩm văn chương của ông.
Ma Văn Kháng là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào. Đánh giá về Ma Văn
Kháng, giới nghiên cứu phê bình đều thống nhất thừa nhận ông như một cây bút
văn xuôi có “bút lực sung mãn, cường tráng”. Bút lực ấy được thể hiện ở số lượng
và chất lượng tác phẩm của ông trong hơn 50 năm cầm bút. Gia tài mà Ma Văn
Kháng đóng góp cho văn chương đương đại đã lên tới trên 200 truyện ngắn và 17
tập tiểu thuyết. Với sức sáng tạo, tìm tòi và lòng say mê với văn chương như vậy
Ma Văn Kháng đã làm nên một phong cách nghệ thuật riêng cho mình. Qua những
tác phẩm của ông, chúng ta cũng có thể khẳng định ông là một nhân cách nghệ sĩ
cao đẹp và chân chính, luôn cống hiến và sáng tạo không ngừng để làm tròn chức
trách của một nhà văn trước cuộc đời.
Nhìn lại đời văn Ma Văn Kháng-cây bút cần mẫn và hết sức nghiêm túc
trong công việc lao động nghệ thuật, ta còn thấy ông có một sức viết rất bền bỉ.
Viết cần mẫn, say mê, Ma Văn Kháng đã để lại một văn nghiệp không chỉ lớn về
qui mô, đa dạng về thể loại mà còn đều đặn và liền mạch. Giai đoạn nào, Ma Văn
Kháng cũng có những sáng tác nổi bật, mang dấu ấn cá nhân đậm nét. Những đóng
góp của ông đã được ghi nhận bằng những giải thưởng như: Giải B của Hội nhà
văn Việt Nam năm 1986 cho tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn; Giải thưởng của
Hội đồng văn xuôi năm 1995 cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ, Giải thưởng
Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng của Hội nhà văn Hà Nội
năm 2009 cho tác phẩm Một mình một ngựa, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật năm 2012; và trên hết có lẽ chính là lòng yêu mến của độc giả dành
cho ông và những tác phẩm của ông. Chính những sự ghi nhân đó đã khẳng định
1



những đóng góp của Ma Văn Kháng đối với văn chương nước nhà và vị trí của
ông trong sự phát triển của văn chương đương đại.
Năm 2016, nhà văn đã bước sang tuổi 80 nhưng hai tiểu thuyết trình làng
gần đây của ông là Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ rồi Người thợ
mộc và tấm ván thiên vẫn cho thấy sự nỗ lực làm việc không ngừng nghỉ của nhà
văn. Đồng thời một lần nữa khẳng định cho sự tìm tòi sáng tạo của cây bút cần
mẫn, say mê, quyết liệt, luôn làm mới mình. Những tiểu thuyết gần đây của Ma
Văn Kháng thể hiện cái nhìn nghệ thuật đa chiều đầy trải nghiệm, thâm thúy, mang
tính triết luận sâu sắc cùng nghệ thuật tự sự đặc sắc. Ma Văn Kháng là nhà văn
luôn khắc khoải về số phận con người. Đặc biệt là những con người gặp những
nghịch cảnh trong cuộc sống nhưng họ vẫn vươn lên, khẳng định những phẩm chất
tốt đẹp của mình, kiên quyết đấu tranh với cái ác, cái xấu, chống lại sự tha hóa,
biến chất.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học: “Đặc
sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết gần đây của Ma Văn Kháng: Một vùng
đất hoang và những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên”. Nghiên cứu
vấn đề này sẽ góp phần bổ sung một cái nhìn mới về nghệ thuật tự sự trong mảng
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cũng như việc nhìn nhận những đóng góp và vai trò
của Ma Văn Kháng trên văn đàn.
2. Lịch sử vấn đề
Với một gia tài không nhỏ trong tay lại đi cùng văn học dân tộc qua một
chặng đường nhiều biến động, Ma Văn Kháng là một trong những cây bút nổi bật
của thế hệ nhà văn “thứ ba”. Ngay khi tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe ra đời,
nhà văn đã gây được ấn tượng mạnh với độc giả. Tác phẩm này đã đưa Ma Văn
Kháng đến với tiểu thuyết, khẳng định một hướng đi đúng đắn và tìm cho mình
một chỗ đứng trên văn đàn. Nghiên cứu về Đồng bạc trắng hoa xòe có thể kể đến
các bài viết của Hoàng Tiến Đọc “Đồng bạc trắng hoa xòe” với nhiều nhận định
sâu sắc và chính xác.Sau đó có thể kể đến nhiều nhà nghiên cứu khác với các bài
viết, những nhận định sắc sảo chỉ ra những nét độc đáo, thành công cũng như tồn

2


tại của tác phẩm Ma Văn Kháng. Chúng ta có thể kể đến các nhà nghiên cứu như
Trần Đăng Suyền, Nghiêm Đa Văn, Nguyễn Ngọc Thiện…
Nối tiếp Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải ra đời và cũng gây được sự
chú ý cho giới nghiên cứu phê bình. Các tác giả như Trần Đăng Suyền với Cuộc
chiến tranh tiễu phỉ ở “Vùng biên ải”, Lê Thanh Nghị với Đọc “Vùng biên ải”…
đã chỉ ra nét đặc trưng trong sáng tác này của Ma Văn Kháng là chất dân tộc miền
núi đặc biệt là khả năng khái quát đời sống phản ánh hiện thực của các dân tộc
vùng cao trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Các tác phẩm của Ma Văn Kháng nối tiếp nhau ra đời. Với sự chuyển mình
từ đề tài miền núi sang đề tài thành thị, từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự,
các tiểu thuyết như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có
giấy giá thú có thể nói đã gây được tiếng vang trong dư luận được đặc biệt chú ý
quan tâm, tạo nên những dấu mốc mới trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Có thể
kể đến các bài viết của Trần Bảo Hưng, Tô Hoài, Nguyễn Thái Vận, Trần Cương,
Nguyễn Thị Huệ, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Lưu, Hoàng Sơn, Hồ Anh
Thái,… Thậm chí sức nóng của hai tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn và Đám
cưới không có giấy giá thú còn khiến các báo phải tổ chức cả những cuộc hội thảo
với nhiều ý kiến khác nhau. Năm 1985, báo Người Hà Nội tổ chức hội thảo Thảo
luận về tiểu thuyết “Mùa lá rụng trong vườn” các ý kiến tham gia hội thảo được
đăng tải trên báo số 14 năm 1985. Tại hội thảo có rất nhiều ý kiến tham gia tranh
luận, đóng góp bày tỏ quan điểm như các ý kiến của Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên
Ân, Vũ Quần Phương,… Các ý kiến đều đi đến thống nhất tác phẩm là một bước
ngoặt quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của Ma Văn Kháng. Nó đã thể hiện
những thành công của nhà văn trong mảng đề tài về thành thị, đi sâu khám phá đời
sống tâm hồn con người, khai thác đề tài về những biến động của gia đình trong
cơn biến động của xã hội. Nó là một trong những tác phẩm thành công nhất của
nhà văn lúc bấy giờ. Tương tự như vậy là cuộc hội thảo do báo Văn nghệ tổ chức

năm 1990 về Đám cưới không có giấy giá thú. Cuốn tiểu thuyết này ra đời đã gây
ra nhiều ý kiến tranh luận thậm chí trái chiều nhau.
3


Tiếp đến là các tác phẩm Ngược dòng nước lũ, Một mình một ngựa, Côi cút
giữa cảnh đời, Chó Bi, Đời lưu lạc,…với các đề tài khác nhau từ tiểu thuyết viết về
các vấn đề xã hội đến tiểu thuyết viết cho thiếu nhi nhưng đều thu hút được quan
tâm chú ý của dư luận cũng như của những nhà nghiên cứu phê bình. Có thể kể
đến các bài viết của Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Thiện, Phong Lê, Lã Nguyên…
Các tiểu thuyết ra đời sau này như Bóng đêm, Bến bờ, Một vùng đất hoang
và những cuộc gặp gỡ, Người thợ mộc và tấm ván thiên,… tuy mới ra đời gần đây
song cũng được chú ý quan tâm. Các bài viết mang tính chuyên luận về những tác
phẩm này mới chỉ có một bài phê bình của Bùi Việt Thắng, song những bài viết
mang tính chất giới thiệu thì khá nhiều trên các báo.
Các nghiên cứu tổng hợp, khái quát về sáng tác của Ma Văn Kháng cũng
khá phong phú và đa dạng với nhiều hướng tiếp cận khác nhau, từ đề tài phản ánh
cho đến nghệ thuật, tư duy tiểu thuyết. Có thể kể đến các công trình như Tiểu
thuyết về đề tài dân tộc miền núi của Ma Văn Kháng (Nguyễn Ngọc Thiện), Phong
cách văn xuôi miền núi Ma Văn Kháng (Phạm Duy Nghĩa), Nghệ thuật tự sự trong
sáng tác của Ma Văn Kháng (Đỗ Phương Thảo), Phong cách tiểu thuyết Ma Văn
Kháng (Dương Thị Thanh Hương), Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết Ma Văn
Kháng (Đỗ Hải Ninh), Đặc điểm tiểu thuyết về đề tài thành thị của Ma Văn Kháng
(Lê Văn Chính), Ma Văn Kháng – Ngọn cờ đổi mới có sức vẫy gọi (Đoàn Trọng
Huy), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng (Bùi Lan
Hương), Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng (Trần Thị Thanh
Huyền),… Những nghiên cứu chuyên sâu mang tính tổng hợp khái quát này đã chỉ
rõ các đặc trưng trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Có thể thấy xu hướng nghiên
cứu càng về sau dường như càng chú ý hơn tới các khía cạnh khác của tác phẩm
hơn là cách nhìn đơn giản về đề tài, nội dung ở giai đoạn đầu. Mỗi nhà nghiên cứu

tuy có hướng tiếp cận khác nhau nhưng đều gặp gỡ ở một điểm đó là ghi nhận
những đóng góp không nhỏ của Ma Văn Kháng trong hành trình đổi mới tiểu
thuyết. Bên cạnh đó tiểu thuyết Ma Văn Kháng còn là đối tượng nghiên cứu của
các đề tài tổng hợp khác về tiểu thuyết hiện đại. Có những nhà nghiên cứu dành rất
nhiều sự quan tâm chú ý của mình cho Ma Văn Kháng với nhiều bài viết, chuyên
4


luận khác nhau cho thấy sự say sưa tâm huyết của mình về nhà văn như nhà nghiên
cứu Nguyễn Ngọc Thiện với 12 bài viết bám sát chặng đường sáng tác của nhà văn
như Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng, Ma Văn Kháng và cuốn hồi ký –tự truyện
mới…, hay nhà nghiên cứu Hoàng Việt Quân với tập nghiên cứu,phê bình Nhà
giáo-nhà văn Ma Văn Kháng- Nhà xuất bản Hội Nhà văn năm 2013,…Tất cả cho
thấy sức hấp dẫn của đối tượng nghiên cứu này.
Với hai cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 2015 là Một vùng đất hoang và
những cuộc gặp gỡ, Người thợ mộc và tấm ván thiên chúng tôi nhận thấy ngoài
những bài báo mang tính chất giới thiệu tác phẩm thì mới có một bài phê bình của
Bùi Việt Thắng. Đây chính là một vùng đất “mới” để chúng tôi tìm tòi và đưa ra
những đánh giá nhận định của mình. Hướng nghiên cứu tự sự học tuy không còn
mới mẻ, thậm chí nó đã được sử dụng để nghiên cứu nhiều tác phẩm khác của Ma
Văn Kháng. Song nó vẫn tỏ ra đắc lực trong việc tiếp cận tác phẩm.
Như vậy có thể nhận thấy sáng tác của Ma Văn Kháng khá phong phú và
các công trình nghiên cứu về ông cũng đa dạng và phong phú không kém. Có
nhiều nhận định nhiều đánh giá khá nhau, có những ý kiến đồng thuận và trái
chiều song có thể khẳng định các sáng tác của Ma Văn Kháng chủ yếu ở hai mảng
đề tài lớn là miền núi và thành thị, các nhân vật trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng
đa dạng phong phú, sáng tác của Ma Văn Kháng có sự vận động về tư duy, quan
điểm nghệ thuật và có nhiều tìm tòi đổi mới.
3. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn nhằm làm rõ đặc sắc nghệ thuật tự sự trong hai tiểu

thuyết Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ và Người thợ mộc và tấm ván
thiên của nhà văn Ma Văn Kháng. Qua đó để khẳng định sự cần mẫn, sáng tạo của
cây bút có sức viết dồi dào nhất trên văn đàn Việt Nam đương đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Dựa vào cơ sở lý thuyết tự sự học, luận văn chúng tôi sẽ nghiên cứu những
đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết Một vùng đất hoang và những
cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
5


- Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự trong hai tiểu thuyết Một vùng đất
hoang và những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên của nhà văn Ma
Văn Kháng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào tiểu thuyết Một vùng đất
hoang và những cuộc gặp gỡ - Nxb. Hội Nhà văn 2015 và tiểu thuyết Người thợ
mộc và tấm ván thiên – Nxb.Trẻ 2015. Ngoài ra chúng tôi có thể tham khảo thêm
các sáng tác khác của Ma Văn Kháng, các tiểu thuyết cùng thời của những nhà văn
khác để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Xuất phát từ yêu cầu của đối tượng và mục đích nghiên cứu, luận văn vận
dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học.
-Phương pháp tiếp cận từ lí thuyết tự sự học.
7. Đóng góp của luận văn:
Từ việc tìm hiểu nghệ thuật tự sự qua hai tiểu thuyết Một vùng đất hoang và
những cuộc gặp gỡ; Người thợ mộc và tấm ván thiên cho người đọc thấy:
- Cái nhìn nghệ thuật đa chiều đầy trải nghiệm, thâm thúy của nhà văn

- Chủ đề có giá trị nhân văn hướng về cái đẹp, cái thiện
- Đặc sắc nghệ thuật tự sự

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT VÙNG ĐẤT HOANG VÀ NHỮNG CUỘC GẶP GỠ TIỂU THUYẾT KIỂU CHƯƠNG HỒI MỚI

Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ là cuốn tiểu thuyết được nhà văn
hoàn thành và xuất bản trong năm 2015, khi Ma Văn Kháng đã bước sang cái tuổi
“xưa nay hiếm”, khi thời gian ông năm viện đã nhiều hơn, khi vị trí của ông trong
văn học Việt Nam hiện đại đã được khẳng định một cách vững chãi từ nhiều năm
trước. Cuốn tiểu thuyết này cùng với bốn cuốn sách khác là Người thợ mộc và tấm
ván thiên (tiểu thuyết), Nỗi nhớ mưa phùn (tập truyện ngắn), Nhà văn anh là ai
(tập tiểu luận và bút ký về nghề văn), Bài ca trăng sáng (tập truyện) cho thấy sức
sáng tạo không mệt mỏi của nhà văn. Ở cái tuổi 80, thời gian còn lại của cuộc đời
đang được Ma Văn Kháng dồn cả vào ngòi bút. Ông viết có lẽ không còn để tìm
kiếm một chỗ đứng, để khẳng định mình nữa mà viết như một sự thúc đẩy mãnh
liệt từ bên trong, để những điều ông ngẫm nghĩ, ông chiêm nghiệm được sẻ chia
bằng trang sách. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, Một vùng đất hoang và những
cuộc gặp gỡ vừa có nét mới mẻ của một nhân sinh, một góc nhìn mới mang bề dày
thời gian và trải nghiệm, lại vừa gần gũi thân thuộc mang đậm phong cách Ma Văn
Kháng.
Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ đã được Ma Văn Kháng thai
nghén và chấp bút ngay sau khi ông đi thực tế ở vùng trồng dứa Kiên Giang vào
những năm đầu đổi mới thập niên 70 – 80 của thế kỉ trước. Tuy nhiên chỉ đến năm
2015, ông mới hoàn thiện và công bố cuốn tiểu thuyết này. Một hành trình sáng tác
khá dài đi xuyên qua những năm tháng nhiều biến động của đất nước, qua một

hành trình gần nửa thế kỉ với biến bao sự kiện đổi thay. Cuốn sách được nhà văn ví
như kết lại cuộc đời cầm bút của ông. Vì vậy nếu bạn đọc kì vọng một sự lột xác,
một sự sáng tạo hoàn toàn mới mẻ so với những gì đã biết về Ma Văn Kháng thì
7


dường như là cuốn sách không đáp ứng được yêu cầu đó. Song cuốn tiểu thuyết
cũng lại chứa đựng, gửi gắm nhiều thử nghiệm mới của nhà văn như những tìm tòi
sau cuối cho một chặng đường nghệ thuật nhọc nhằn. Sức hấp dẫn của cuốn sách
này có lẽ không còn nằm ở tính thời sự của đề tài, không nằm ở cốt truyện mà nằm
sâu trong tầm tư tưởng, trong những suy tư mà nhà văn gửi gắm.

1.1. Sự khám phá hiện thực nơi những vùng đất mới sau chiến tranh
Thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành trong kháng chiến, Ma Văn
Kháng đã đi cùng văn học Việt Nam một chặng đường dài từ văn học chiến tranh
đến văn học đổi mới. Ông sáng tác ở nhiều thể loại, với tiểu thuyết có thể khẳng
định Ma Văn Kháng luôn nỗ lực tìm tòi, không ngừng sáng tạo. 17 cuốn tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng chính là một minh chứng rõ nét nhất cho những đóng
góp của ông với văn học nước nhà. Cùng với nhiều nhà văn khác trong công cuộc
đổi mới văn học, Ma Văn Kháng đã có những vận động không ngừng để chuyển
mình trong sáng tạo. Từ những tiểu thuyết đầu tiên mang màu sắc sử thi đậm chất
miền núi, tới các cuốn tiểu thuyết mang đề tài thành thị sau này đã cho thấy sự tìm
tòi, nỗ lực của nhà văn trong việc tránh lặp lại mình, cố gắng bắt nhịp với sự thay
đổi của hiện thực xã hội.
Nhắc tới Ma Văn Kháng có lẽ ấn tượng đầu tiên và rất sâu đậm với bạn đọc
chính là chất dân tộc miền núi trong văn chương của ông. Nét phong cách đặc biệt,
độc đáo này được hình thành trong những năm tháng ông sống cùng đồng bào nơi
Tây Bắc tổ quốc, những năm tháng khó khăn, gian khổ với mỗi cá nhân và với cả
dân tộc đến không thể nào quên. Sinh ra ở Hà Nội nhưng những năm tháng tuổi trẻ
của mình Ma Văn Kháng lại gắn bó với núi rừng biên ải như một cơ duyên. Vừa

tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm ở Trung Quốc, chàng trai Hà thành được phân công
lên miền núi phía bắc làm công tác giảng dạy cho tới những năm 1976, ông mới
quay trở về Hà Nội làm việc và sinh sống. Chính những năm tháng sống gắn bó
với vùng cao đã mang lại cho ông nhiều vốn sống, hiểu biết sâu sắc về các dân tộc
nơi đây, từ đó thấm dần vào mỗi trang văn của mình. Trong giai đoạn đầu những
tiểu thuyết như Gió rừng, Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải,… đã phản ánh
8


chân thực một giai đoạn lịch sử của nhân dân Tây Bắc với các sự kiện lớn thể hiện
quá trình giác ngộ lý tưởng cách mạng, đứng lên đi theo Việt Minh giải phóng dân
tộc, giải phóng đất nước. Đó là một lát cắt lịch sử ngắn ngủi nhưng dồn dập, căng
thẳng. Giai đoạn này văn chương Ma Văn Khang không chỉ đậm chất núi rừng mà
còn là chất sử thi khi đi vào phản ánh những vấn đề mang tầm vóc lớn, với những
nhân vật phi thường mang số phận chung của cộng đồng. Có thể nói Ma Văn
Kháng đã ghi chép lại lịch sử, đặt ra các vấn đề của đồng bào các dân tộc thiểu số
trong những trang văn của mình.
Giai đoạn thứ hai trong sáng tác của mình, Ma Văn Kháng có sự chuyển đổi
lớn về đề tài cũng như tư duy tiểu thuyết. Các tác phẩm như Mưa mùa hạ, Mùa lá
rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ, Một mình
một ngựa,… đã mở ra một con đường mới trong hành trình nghệ thuật của Ma Văn
Kháng. Từ tiểu thuyết sử thi nhà văn chuyển sang tiểu thuyết thế sự, đi sâu phản
ánh đời sống cá nhân, đặc biệt là đời sống tâm hồn, tình cảm. Từ đề tài miền núi
Ma Văn Kháng chuyển sang đề tài thành thị với những vấn đề của cuộc sống hàng
ngày. Từ giai đoạn lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm giờ đây là cuộc đấu
tranh với những tiêu cực trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Kéo theo
đó là sự thay đổi lớn về cách viết, kĩ thuật viết, khi các tác phẩm đã đi sâu hơn vào
tâm lý nhân vật, thay vì chỉ phản ánh khái quát những bình diện lớn của lịch sử.
Những bi kịch của cá nhân được nhìn nhận và phản ánh một cách sâu sắc. Đó là bi
kịch của người trí thức trong thời đại mới, đó là bi kịch gia đình, bi kịch tình yêu,

bi kịch hôn nhân,… Những tiêu cực của xã hội cũng được phản ánh chân thực, thô
ráp như chính cuộc sống với nhiều ngổn ngang, biến động. Một không gian mới
được mở ra không còn là không gian núi rừng với những nét văn hóa đặc sắc của
các dân tộc miền núi phía bắc. Giờ đây hình ảnh của một thành thị ồn ào, gấp gáp
trong cuộc chạy đua của một thời kì mới đã cuốn theo nó bao số phận, cảnh đời.
Nếu ở giai đoạn trước Ma Văn Kháng đặt nhân vật trong dòng xoáy của lịch sử để
thấy cái phi thường, đẹp đẽ đầy sử thi thì ở giai đoạn này con người được đặt giữa
cái đời thường để thấy hết cái nhỏ bé, yếm thế và sụp đổ của những hình mẫu
tưởng như là lý tưởng. Sự tha hóa của con người được đặt ra một cách rốt ráo. Kể
9


cả ở những tác phẩm phảng phất không gian núi rừng, mang tính “hồi cổ” thì cũng
không còn là hình ảnh của núi rừng như trong các sáng tác ở giai đoạn trước.
Gần đây là sự ra đời của Bóng đêm và Bến bờ những tác phẩm về một mảng
đề tài hoàn toàn mới mẻ của Ma Văn Kháng đó là đề tài hình sự tâm lý. Ở đề tài
mới mẻ này Ma Văn Kháng một lần nữa thể hiện sự tìm tòi và hướng đi của riêng
mình. Ông không dùng những chi tiết giật gân để đánh vào thị hiếu bạn đọc. Nhà
văn tập trung lý giải nguyên nhân của tội ác, về giá trị sống và nhân cách con
người trong xã hội đương đại. Hình ảnh người chiến sĩ công an giữa sự sống và cái
chết, giữa tội ác và điều thiện lương, giữa cuộc sống đời thường và cuộc chiến
chiến dữ dội với tội phạm được Ma Văn Kháng lột tả khá thành công.
Tác phẩm ra đời cùng thời với Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ là
Người thợ mộc và tấm ván thiên lại quay về với các tác phẩm ở giai đoạn thứ hai.
Lấy không gian thành thị đan xen với không gian núi rừng như hiện tại mà cũng
như là hồi ức của quá khứ làm nên không gian cho tác phẩm. Ma Văn Kháng
dường như gửi gắm trong đó bao tình cảm của mình với những vùng đất ông gắn
bó.
Điểm lại các sáng tác của Ma Văn Kháng và các đề tài trong hành trình sáng
tạo nghệ thuật của nhà văn, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến tính độc đáo trong Một

vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ . Rời khỏi những không gian mang tính sở
trường của mình, Ma Văn Kháng tìm đến một vùng đất mới. Ở đó không còn là
vùng núi Tây Bắc của người Mông, người Dáy; không còn là Hà Nội với những
nếp nhà, nếp người riêng. Miền đất hoang Nam bộ trong những năm đầu đổi mới
đi vào trang viết của Ma Văn Kháng một cách tự nhiên, chân thực mà không kém
phần sinh động. Mở đầu cuốn sách là câu thơ của Cao Bá Quát như một nguồn
cảm hứng khơi gợi cho toàn tác phẩm Cảnh đã tuyệt kỳ thú./ Lại có ta đến đây. Cái
kì thú của cảnh vật nơi đất rừng phương Nam, cùng với con người với ý chí và
hoài bão của mình đã làm nên một nét kỳ thú mới, làm nên cái đẹp giữa vô vàn
những xô động của cuộc đời.
Đất phẳng tẹt, trải ra tít mù, không chân trời giới hạn. Lác đác những khóm
tràm cằn cội, đôi ba vùng cỏ vàng áy, chìm trong một màu xanh nhức mắt bí ẩn
10


của loài cỏ năn ống, cỏ năn kim, nhả ra một chất độc xua đuổi tất cả những sinh
linh ra khỏi chốn vắng vẻ quạnh hiu bao la này. Bên trái là vậy. Bên phải cũng là
vậy. Trước sau cũng là vậy, trời đất mở toang một không gian ba chiều ban sơ,
nguyên thủy gợi một cảm giác rõ rệt về sự vô tận, vô cùng. Vẻ hoang sơ ánh lên
bầu trời xa thẳm không sinh khí, bất động, những đám mây xám dường như đã
đứng đó từ thuở mới khai thiên lặng lẽ đầy vẻ hăm dọa và hoang đường [26, 7-8].
Những câu văn đầu tiên như muốn lột tả cái xa lạ đến hoang hoải của cảnh
vật. Có đất, có nước có bầu trời nhưng dường như thiếu đi sự sống và dấu vết của
con người. Trong cách miêu tả của mình Ma Văn Kháng như muốn hé mở, ẩn dụ
một điều gì đó ẩn sâu hơn dưới tầng câu chữ. Không gian hoang sơ của miền đất
xa lạ như mang một bộ mặt đầy hăm dọa những con người mới tìm đến nó. Dường
như có “những cơn tai biến” đang rình rập ở quanh đây. Một vùng đất hoang,
không cánh chim trời, không cá dưới nước, một vùng đất hoang “man rợ thật khôn
lường” dần dần hiện lên trên trang viết. Mảnh đất phèn chua, với biển, với gió với
những con kênh con rạch chằng chịt vừa xa lạ vừa thu hút bước chân của những

con người khai hoang. Nó không còn là những vùng đất quen thuộc với cảm giác
an toàn. Giờ đây giữa cái nguyên bản hoang sơ của đất trời con người trực tiếp
phải đối mặt với thế giới không còn những che chắn thân thuộc. Không những thế
mảnh đất này còn mang trong mình những di chứng của chiến tranh với bom đạn
còn sót lại nằm đâu đó dưới tầng đất kia.
Những đặc tính tự nhiên của một vùng đất mới được Ma Văn Kháng miêu tả
qua nhiều chi tiết. Từ những cơn mưa thật dữ dằn, cơn mưa như tiến từ biển vào
đất liền, có những khi cơn mưa đến bất ngờ như một ngẫu nhiên, có những lúc cơn
mưa như chạy đua với con người, những cơn mưa rửa bớt phèn chua, những cơn
mưa trả nước về cho biển. Không còn cái bốn mùa của miền Bắc, Nam bộ với hai
mùa mưa và khô hiện lên trong những cơn mưa và mùa lũ lụt.
Không ai cai quản. Mưa như con quái vật tháo cũi sổ lồng. Mưa lồng lộn
như lên cơn điên dại. Mưa thốc tháo như dốc chĩnh nghiêng vò. Mưa như đập vỡ
trời. Mưa như mưa thời hồng hoang nguyên thủy [26,180]
11


Mưa như làm rõ hơn cái man dại của vùng đất hoang, hăm dọa con người tới
tận cùng, gây ra bao khó khăn cho vùng đất trũng sình lầy. Không phải ngẫu nhiên
Ma Văn Kháng miêu tả những cơn mưa nhiều đến vậy. Nó như một “đặc sản” của
đất trời Nam bộ. Nó trở thành một nét thân quen tới mức ông Sáu có thể nghe gió
mà biết cơn mưa đang tới, cảm nhận đất trời mà biết mưa tới nhanh hay chậm. Nó
còn giống như một thử thách để con người phải vượt qua phải làm quen với môi
trường mới. Hình ảnh Sinh ướt nhèm trong mưa với đàn trâu và những chiếc máy
kéo, với con kênh và những đồng dứa như một hình ảnh đẹp về sự kỳ thú của con
người và cảnh vật. Mưa cũng gột rửa không chỉ phèn chua mà cả những gì xấu xí
ẩn sâu trong mỗi con người để giữ lại những gì giá trị. Cuộc chiến đấu với thiên
nhiên nơi vùng đất hoang là cuộc chiến đấu với thiên nhiên để tạo ra của cải vật
chất nhưng cũng là cuộc chiến đấu với chính mình để vượt lên trên những tiêu cực,
xấu xa của cuộc sống.

Hình ảnh mảnh đất phương Nam còn là biển, là thủy triều, là rừng tràm, là
con nước, là đất chua. Mỗi mảnh đất như có những “chỉ số” cơ thể riêng của mình,
làm nên những đặc trưng riêng có.
Thuyền rẽ vào một con lạch nhỏ. Be xuồng chạm lạt sát vào một bờ cỏ rậm.
Lui vào phía trong chừng hơn mười thước cả ba người nhìn thấy một cánh rừng
tràm non…
… Cây tràm non vậy mà khỏe lắm. Trong nước phèn trong vắt trông chúng
mảnh mai như các loài rong xanh ấy. Nước xuống chúng ngả rạp về phía biển và
khi ấy chồi non mới lại nẩy tiếp, vươn lên. Cứ thế nên chẳng mấy chốc mà có được
một cánh rừng tràm. [26, 172]
Hay hình ảnh một ngôi làng nhỏ:
Không xúm xít quây tròn trong vòng tre xanh như các làng quê ngoài Bắc,
các nóc gia ở đây rải rác cách đều trên dọc hai bờ kênh thẳng tắp, nước trong văn
vắt. Kênh là mặt đường, nhộn nhịp chuyển động những xuồng ba lá, những ghe,
tầu, thuyền, xuồng các loại. Dừa nước ken đôi bờ xanh ngút. Và tít trên cao, chùm
dừa lửa hồng bóng như sơn mài điểm sáng cả một vòm trời xanh lục diệp những là
chuối, mía, xoài, đu đủ, sa bô chê…[26, 37]
12


Một vài chi tiết rất nhỏ, một vài nét phác họa đơn sơ nhưng lại giúp người
đọc cảm nhận được không khí của vùng đất phương Nam, không phải là núi là
rừng mà là kênh là nước, là cành dừa, là cây trái… Chỉ khi nào hiểu được cái chất
riêng của từng vùng đất con người mới có thể sống và làm giàu từ những vùng đất
đó. Giống như, nông trường I thì trồng lúa nhưng nông trường II lại gieo sạ tràm
và hạt đào lộn hột. Vì đó là những cây có thể sống được trong môi trường đất ngập
mặn chua phèn nơi đây. Nếu nông trường I vun gốc dứa 20cm thì nông trường II
vun cao gấp đôi thế. Đến mùa mưa nước tràn vào, dứa vẫn sống được mà ra hoa
kết trái. Tác phẩm không đi sâu vào miêu tả cảnh vật mảnh đất phương Nam,
nhưng phảng phất trong tác phẩm hình ảnh một vùng đất hoang nơi cực Nam tổ

quốc dần hiện lên với những chi tiết vừa đủ để gợi được những nét riêng nhất của
vùng đất này.
Ma Văn Kháng đã tỏ ra khá thông hiểu vùng đất hoang nơi cực Nam tổ
quốc. Tuy không phải là sở trường của mình, không phải mảnh đất ông từng sống
và gắn bó cuộc đời nhưng Ma Văn Kháng đã có những hiểu biết thấu đáo để chắt
lọc và miêu tả cho ra được đúng cái chất riêng, “chỉ số” riêng của vùng đất này.
Không thể chỉ qua một tác phẩm này mà thấy được cái chất Nam bộ trong sáng tác
của Ma Văn Kháng. Nếu so sánh với nhiều nhà văn gắn bó với Nam bộ khác, có
thể Ma Văn Kháng chưa làm tới được cái chất Nam bộ đặc sắc tới từng câu chữ.
Nhưng có thể thấy được những nỗ lực không nhỏ của tác giả trong việc vượt thoát
khỏi những không gian quen thuộc để tìm kiếm những không gian nghệ thuật mới.
Và cũng phải ghi nhận rằng Ma Văn Kháng đã lột tả được đúng cái chất, cái đặc
trưng của vùng đất Kiên Giang nơi ông đã đi thực tế. Đặc biệt khi Tây Bắc đã trở
thành hơi thở tự nhiên trong các tác phẩm của ông, khi tuổi đời, tuổi nghề đã
không còn ở giai đoạn để thử nghiệm để thay đổi thì việc vượt lên trên những thói
quen thông thường của ngòi bút để bắt đầu lại ở một vùng đất mới là một điều thật
đáng ghi nhận.
Không chỉ là không gian Nam bộ, không gian của một miền sông nước với
thiên nhiên đất trời đặc trưng mà còn là con người Nam bộ. Không đi sâu khắc họa
con người bản địa của vùng đất này, Ma Văn Kháng mang tới mảnh đất hoang
13


những con người từ nhiều miền tổ quốc. Nhưng chỉ một hình ảnh ông Sáu thoáng
xuất hiện trong tác phẩm thôi ít nhiều nhà văn đã thể hiện được hình ảnh của người
dân miền sông nước bộc trực, thẳng thắn mà rất chân tình. Ông Sáu xuất hiện đầu
tiên với hình ảnh của một người già “quần áo bà ba đen, hai tay chống nạnh”
dường như là để “chủ làng bắt nạt ngụ cư”. Trong cuộc gặp gỡ lần đầu với Sinh,
người đọc chắc không nhiều thiện cảm với ông Sáu khi ông gây khó khăn cho
Sinh, yêu cầu Sinh về trụ sở bàn công chuyện. Nhưng ở lần gặp gỡ chính thức thứ

hai bạn đọc dần được nhìn thấy vẹn toàn con người ông Sáu đúng cái chất của con
người khai hoang mở đất. Có nét phóng khoáng, bộc trực thẳng thắn đến ngang
tàng nhưng cũng chân tình hết lòng. Khi đã tin, đã hiểu, đã biết về nhau là hết lòng
hết dạ. Ông Sáu hiểu vùng đất này, biết từng cơn mưa, thấm từng chất phèn, thuộc
từng cơn triều. Ông dạy Sinh, Luận cách xổ phèn, trồng cây, ông cho Sinh giống
Đào lộn hột quý của ông. Giống như muôn vàn người nông dân bình dị trên khắp
nẻo đất này, ông Sáu mang nét đẹp chất phác, hồn hậu dù bề ngoài có thể xù xì,
thô ráp. Xuyên suốt câu chuyện ông Sáu giống như ông Thoại là một chỗ dựa tinh
thần cho Luận, cho Sinh mạnh dạn đi theo con đường mình đã chọn.
Không chỉ là sự thay đổi về không gian và con người, ở tiểu thuyết này Ma
Văn Kháng còn chọn một góc hiện thực khác để khai phá. Đó không còn là đề tài
lịch sử của những năm kháng chiến chống Pháp, của những năm tháng trước Cách
mạng tháng Tám nữa. Đó cũng không còn là những bi kịch của gia đình, tình yêu,
hôn nhân trong những năm tháng đổi mới, với nhiều tác động của nền kinh tế thị
trường. Đó cũng không còn là những hồi ức tuổi trẻ cho những năm tháng nhọc
nhằn làm thầy, làm thư kí cho bí thư tỉnh ủy. Ở đây tác giả khai thác công cuộc
khai hoang, phát triển kinh tế ở một vùng đất mới sau chiến tranh. Không đi sâu
vào khai thác đề tài hậu chiến. Chiến tranh chỉ như một vết xước nhỏ nhắc nhở
người đọc về quá khứ của vùng đất này từng là nơi giao tranh của ta và địch. Dấu
vết chiến tranh chỉ còn lại là những quả mìn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, là một anh
Nguyện từng lái xe cho quân đội Sài Gòn. Có lẽ ngay từ đầu Ma Văn Kháng đã
xác định tiểu thuyết của ông không viết về những vết thương chiến tranh để lại.
Ông muốn viết về ngày hôm nay, nơi mảnh đất từng bom đạn ấy một cuộc sống
14


mới được hình thành. Nó cũng là một cuộc chiến. Một cuộc chiến có khi còn ác
liệt và nghiệt ngã hơn. Bởi nó là cuộc chiến dai dẳng giữa cái tốt và cái xấu, giữa
những gì tiến bộ và những thứ cũ kĩ lạc hậu, giữa những con người của lý tưởng,
vì lợi ích chung với những con người cá nhân ích kỉ, tham lam.

Hiện thực cứ được phóng to dần. Đầu tiên là từ bốn người phương xa tụ họp
trên mảnh đất hoang như một ngẫu nhiên của lịch sử, của đất trời. Đó là Sinh,
Thoại, Luận và Thảnh với mỗi gương mặt khác nhau tạo nên một hiện thực đa
dạng. Rồi từ đó hiện thực được phóng dần ra với sự xuất hiện của Nguyện, rồi
những người công nhân đến nông trường mang theo một quá khứ sau mình, rồi đến
nông trường bạn, rồi đến các cơ quan quản lý cấp trên mà đại diện là “anh trưởng”.
Hiện thực như đầy dần lên cùng với mỗi nhân vật. Họ mang đến mảnh đất xa lạ chỉ
có thiên nhiên chưa có con người này phần “con” và phần “người” của riêng mình
để góp thành một bức tranh xã hội phức tạp, ngổn ngang. Đó là những năm tháng
đầu xây dựng nền kinh tế. Khi những người dám nghĩ, dám làm, dám sống như
Sinh không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi. Không phải lần đầu tiên Ma Văn
Kháng miêu tả cuộc chiến của những nhân tố tiến bộ như Sinh với đám quan chức
tham lam, hủ lậu. Nhưng cái khác ở đây có lẽ là bởi Ma Văn Kháng không xoáy
sâu vào bi kịch tinh thần của con người. Nhìn ngay sang Người thợ mộc và tấm
ván thiên tác phẩm ra đời cùng thời điểm đã có thể nhìn thấy sự khác biệt đó. Một
vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ đang cố gắng tái hiện một giai đoạn đặc biệt
của xã hội khi chiến tranh vừa kết thúc, khi cái mới bắt đầu manh nha hình thành,
khi việc xây dựng kinh tế theo những mô hình mới được triển khai. Trong câu
chuyện ấy có việc hình thành các nông trường, những vùng khai hoang mới như
thế nào. Trong câu chuyện ấy có hình ảnh của cơ chế đang vận hành đầy non nớt
và nhiều khó khăn, có chuyện vay vốn giải ngân, có chuyện trồng cây, nuôi con gì
cho hợp lý, có chuyện gian dối sao cho được lợi, có chuyện đào kênh khơi biển,
rửa phèn, đánh luống. Tất cả được miêu tả rất chi tiết, với những con người cụ thể
câu chuyện cụ thể. Trong câu chuyện ấy có cả những mảnh đời làm lại sau chiến
tranh. Có những người con gái như Quyên từ bỏ một quá khứ để bắt đầu học tập,
làm lại cuộc đời. Có Liễu tìm đến vùng đất này để trọn nghĩa tình với người chồng
15


đã hi sinh, để bắt đầu một tình yêu, hạnh phúc. Có cả những người như Thảnh,

Ngoạn, Anh Trưởng những kẻ cơ hội với quá khứ đầy vết nhơ. Tập trung miêu tả
công cuộc khai hoang, xây dựng kinh tế và cạnh đó là số phận con người với
những mảnh đời khác nhau, Ma Văn Kháng đã tái hiện được những khó khăn của
những năm tháng sau chiến tranh. Bên cạnh lòng nhiệt tình phơi phới của con
người, bên cạnh trí tuệ và quyết tâm của con người là những khó khăn không tránh
khỏi của một mô hình mới vận hành. Từng ý tưởng, từng việc làm, từng khó khăn
mà nông trường II gặp phải có lẽ không chỉ là của riêng nông trường II. Và đám
người như tàu Phi Long, như Thảnh, như Ngoạn và đặc biệt là như Anh Trưởng có
lẽ cũng không phải là cá biệt. Người ta có thể bắt gặp nó ở bất cứ nơi đâu trong
giai đoạn lịch sử giao thời ấy. Ma Văn Kháng giống như mọi lần phân chia rất rõ
ràng trong tác phẩm của mình những chiến tuyến khác biệt. Không lẩn tránh hiện
thực, Ma Văn Kháng đã chỉ ra những tiêu cực còn tồn tại, những thế lực cản trở sự
phát triển chung, những nhỏ nhen trong mỗi con người.
Trong cuộc giao chiến đó có khi cái mới, cái tốt đẹp phải tạm thất bại. Sinh
gặp phải nhiều cản trở, vốn không được đáp ứng, nhiều ý tưởng có thể bị thất bại
hoặc khi triển khai không đơn giản như anh dự tính, những con người anh đặt niềm
tin cũng có khi lung lạc. Anh cũng phải trả giá, bị bắt. Nhưng cuối cùng đồng dứa
đã thắng lợi, con kênh anh đào nối với biển đã phát huy được sức mạnh của nó,
những người anh tin tưởng đã xứng đáng với niềm tin anh trao. Ở Sinh người đọc
nhận thấy vẻ đẹp của một con người hết lòng vì tập thể nhưng cũng nuôi giấc
mộng cá nhân anh hùng. Đó là nét khác biệt của Sinh so với nhiều nhân vật khác
trong các tác phẩm cùng đề tài. Có lẽ độ lùi thời gian cho phép Ma Văn Kháng có
cái nhìn khác hơn về cá nhân và tập thể. Kết thúc tác phẩm là một hiện thực để ngỏ
nhưng nó mở ra cho người đọc niềm tin vào một tương lai. Một cuộc sống mới
đang hình thành, những điều tốt đẹp được gieo xuống sẽ nảy mầm và đơm trái.
Khám phá một mảng hiện thực khác Ma Văn Kháng một mặt cho thấy cái
nhìn khá toàn diện và sâu sắc của mình trong cách phản ánh đời sống xã hội những
năm đầu sau chiến tranh xây dựng nền kinh tế trên những mảnh đất hoang. Mặt
khác, bạn đọc vẫn nhận ra chất Ma Văn Kháng trong cách nhìn hiện thực và tái
16



hiện hiện thực của ông. Dường như tiểu thuyết của Ma Văn Kháng luôn có sự phân
tuyến rõ ràng, luôn có những nhân vật đóng vai trò của nhân vật tư tưởng mang
tính luận đề thể hiện triết lý nhân sinh của tác giả. Hiện thực một mặt được nhìn
chân thực với ngổn ngang tốt xấu, với đầy đủ những biến động và biểu hiện của
một giai đoạn lịch sử mới. Song cũng lại được nhìn một cách đơn giản, một chiều
từ hướng chia cực phân tuyến mạch lạc giản đơn. Tuy nhiên chúng ta cũng không
thể phủ nhận những nỗ lực của nhà văn trong việc tìm kiếm những đề tài mới,
khám phá và tái hiện đời sống ở nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt dù viết về một
giai đoạn đã qua, một câu chuyện quá khứ, nhưng tác phẩm của Ma Văn Kháng
vẫn mang tính thời sự, có những điều để chúng ta suy ngẫm cho hôm nay.

1.2. Kết cấu tiểu thuyết chương hồi mới
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động của tác phẩm. Tổ chức tác phẩm ở đây không chỉ được hiểu là sự kết nối
ở bề mặt, ở những tương quan giữa các bộ phận chương đoạn mà sâu hơn nó là sự
liên kết trong tạo nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Kết cấu bộc lộ tư tưởng chủ đề tác
phẩm, triển khai một cách hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lý hệ thống tính cách,
tổ chức các điểm nhìn trần thuật và tạo ra tính toàn vẹn cho tác phẩm như một hiện
tượng thẩm mĩ. Vì vậy có thể thấy kết cấu đóng một vai trò quan trọng trong việc
xây dựng tác phẩm. Từ kết cấu mới có thể tổ chức cốt truyện, nhân vật và qua đó
là toàn bộ nội dung chủ đề của tác phẩm. Kết cấu của tiểu thuyết đa dạng và thể
hiện tài năng cũng như nhận thức của nhà văn. Kết cấu tiểu thuyết cũng có nhiều
thay đổi theo sự phát triển, hiện đại hóa của văn học.
Tiểu thuyết chương hồi là một thể loại thịnh hành và phát triển ở thời Minh
– Thanh Trung Quốc, thuộc dạng trường thiên tiểu thuyết với quy mô lớn. Thể loại
này có xuất phát điểm là từ các thoại bản, bạch thoại. Về hình thức dễ nhất thấy là
nội dung được chia thành các chương, các hồi; đầu mỗi chương là một hai câu thơ
nhắc về chương trước và gợi mở nội dung chương mới, cuối mỗi chương cũng là

một hai câu thơ hé mở về nội dung chương sau. Mỗi chương hồi tập trung vào một
câu chuyện nhỏ, một sự kiện nhỏ có tính độc lập tương đối với các chương hồi
17


khác, các tình tiết thường khá gay cấn thu hút người đọc. Mỗi chương hồi đều
được đặt tên riêng gọi là “hồi mục” và một chương thường được kết thúc ở chi tiết
gay cấn hấp dẫn kèm theo câu “muốn biết sự việc ra sao, xin xem hồi sau phân
giải”. Tiểu thuyết chương hồi có một số đặc điểm nổi bật: 1. Nội dung câu chuyện
chủ yếu thể hiện qua hành động và ngôn ngữ nhân vật hơn là qua sự miêu tả tỉ mỉ
tâm lý, tính cách; 2. Câu chuyện được phát triển qua các tình tiết xung đột căng
thẳng mang nhiều kịch tính; 3. Nghệ thuật khắc họa nhân vật mang nhiều tính ước
lệ. Các đặc điểm này đều cho thấy sự ảnh hưởng của kết cấu thoại bản tới tiểu
thuyết chương hồi.
Ở đây chúng tôi đưa ra nhận định tiểu thuyết Một vùng đất hoang và những
cuộc gặp gỡ có kết cấu chương hồi là muốn nhấn mạnh tới đặc điểm hình thức của
tác phẩm. Toàn bộ tiểu thuyết được chia làm 24 chương khác nhau được đánh số
và đặt tên cụ thể cho từng chương. Tuy nhiên cũng phải nhận thấy Một vùng đất
hoang và những cuộc gặp gỡ mang hình thức của tiểu thuyết chương hồi nhưng
không hoàn toàn mang những đặc trưng của tiểu thuyết chương hồi với các trường
thiên tự sự, thiên về sự kiện như trong văn học trung đại. Ở đây hình thức chương
hồi đã cho phép tác giả tạo ra một kiểu kết cấu mới cho tác phẩm với những câu
chuyện nhỏ, chủ đề nhỏ lồng trong một tổng thể tự sự hoàn chỉnh bao quát. Nhiều
tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng sử dụng lối truyện lồng trong truyện, đan xen
nhiều mạch truyện, nhiều phân nhánh tự sự để kể. Tuy nhiên nhìn chung tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng thường không quá phức tạp trong kết cấu, cốt truyện
thường được tổ chức theo lối tuyến tính, xoay quanh các xung đột giữa các tuyến
nhân vật, ít thiên về kết cấu tâm lý hoặc dòng ý thức. Một vùng đất hoang và
những cuộc gặp gỡ cũng mang đầy đủ các đặc điểm về kết cấu như nhiều tiểu
thuyết khác của Ma Văn Kháng nhưng được tổ chức thành các chương hồi theo lối

của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh tạo nên một nét riêng độc đáo.
Đặc điểm độc đáo nhất trong kết cấu của tiểu thuyết Một vùng đất hoang và
những cuộc gặp gỡ có lẽ chính là ở chỗ nó mang dấu ấn của tiểu thuyết chương
hồi mà lại không phải là tiểu thuyết chương hồi. Mỗi chương hồi như một truyện
ngắn trong một tiểu thuyết. Vì mỗi chương kể về một sự kiện, một câu chuyện
18


hoàn chỉnh. Các câu chuyện nhỏ này nằm trong sự phát triển tuyến tính của cốt
truyện có sự liên kết bằng nhiều yếu tố như sự kiện, tâm lý nhân vật chứ không
hoàn toàn tách rời. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh về sự toàn vẹn của một nội
dung được kể trong từng chương. Chính đặc điểm này làm nên sự khác biệt của
Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ với nhiều tiểu thuyết khác của Ma Văn
Kháng. Nó vừa mới mẻ lại vừa quen thuộc chứ không hoàn toàn xa lạ. Ví dụ
chương 1 là chương giới thiệu về 4 người được cử đến xây dựng nông trường 2
cùng với đó là câu thơ của Cao Bá Quát như một nguồn cảm hứng cho toàn tác
phẩm. Nhan đề của chương là “Bốn người và hai câu thơ” cho thấy ngay nội dung
khái quát của chương đó. Bằng cách như vậy 24 chương truyện là 24 câu chuyện
nhỏ trong một tổng thể lớn. Kết thúc chương này có sự hé mở cho chương sau. Ví
dụ kết thúc chương 2 “chiếc máy kéo đầu tiên” là hình ảnh của ông Sáu và tên đội
mũ nồi đen, thì chương 3 có nội dung chính là về chuyến đi vào ấp bà Riu gặp ông
Sáu của ông Thoại và Sinh. Ở đây ta thấy cái phảng phất không khí của tiểu thuyết
chương hồi Minh – Thanh trong một sắc diện hiện đại mới mẻ.
Cách đặt tên chương cũng khá thú vị. Tên chương không chỉ khái quát nội
dung mà còn thể hiện những tư tưởng triết lý mà tác giả gửi gắm. Có những cái tên
rất ngắn gọn như: chương 1 Bốn người và hai câu thơ, chương 2 Chiếc máy kéo
đầu tiên… Cá biệt có những chương, tên chương được đặt khá dài là những câu
những mệnh đề nối tiếp nhau như chương 18: Ai tìm ra các giống cây trồng mới?
Ai phát minh ra động cơ máy hơi nước? Chỉ các cá thể đơn lẻ mới có thể tư duy
tạo ra các giá trị mới mẻ và cao quý, hay chương 14: Có hàng trăm lý do để khóc.

Nhưng cũng có hàng ngàn lý do để mỉm cười. Sau một nụ cười thế giới rạng rỡ
hơn… Những tên chương như vậy rõ ràng gợi một không khí rất cổ điển của tiểu
thuyết chương hồi. Vì lúc này tên chương giống như những vế câu thơ thường
được mở đầu cho một chương, một hồi trong tiểu thuyết xưa. Nó không chỉ tóm
gọn lại nội dung sự kiện lớn trong chương mà dường như còn gửi gắm những triết
lý sâu xa nhiều chiêm nghiệm của tác giả.
Dung lượng của mỗi chương không quá đồ sộ, trung bình mỗi chương chỉ
rơi vào khoảng 14 trang truyện. Thoáng đọc qua độc giả có cảm giác việc chia
19


chương này có vẻ như xé lẻ câu chuyện và đặt ra câu hỏi liệu việc chia tách này có
thực sự cần thiết? Nếu không chia thành 24 chương nhỏ, bỏ toàn bộ phần tên
chương và các chia tách, có thể nội dung toàn bộ tác phẩm không bị biến đổi nhiều
khi bản thân dung lượng tiểu thuyết không quá đồ sộ, câu chuyện không bị phân
thành các nhánh tự sự phức tạp với quá nhiều sự kiện như tiểu thuyết chương hồi
xưa. Tuy nhiên nếu nhìn sâu hơn ta sẽ thấy ý đồ của Ma Văn Kháng khi chia tách
các chương hồi. Chúng tôi cho rằng đó không phải chỉ là sự cầu kỳ về mặt hình
thức mà nó có một dụng ý nghệ thuật khá rõ ràng. Một mặt nó làm mới cấu trúc và
hình thức tác phẩm. Mặt khác nó là cách kể chuyện độc đáo buộc bạn đọc phải
bước vào những chiếu nghỉ trước khi bắt đầu tiếp tục những bậc thang chinh phục
tác phẩm. Kết thúc chương này vắt nối với chương kia, nhưng giữa hai chương có
một sự chia cách, một khoảng lặng với những câu chuyện tiếp diễn nhưng cũng
độc lập. Mỗi một nhân vật dù chính hay phụ cũng có một chương của mình, một
sân khấu để xuất hiện và bộc lộ hết những tính cách phẩm chất của bản thân. Theo
đánh giá của chúng tôi thì kết cấu tác phẩm theo kiểu này không phải là lạ nhưng
lại có giá trị nhất định trong việc chuyển tải ý đồ của nhà văn.
Ở nhiều tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng ta thấy kết cấu tác phẩm có
phần phức tạp hơn. Các câu chuyện có thể được đan cài vào nhau, nhiều mạch tự
sự có thể bị phân nhánh nhỏ hơn. Đặc biệt các tiểu thuyết viết về người trí thức với

những bi kịch nội tâm như Đám cưới không có giấy giá thú, Mùa lá rụng trong
vườn tác giả có xu hướng xoáy sâu vào những dằn vặt bên trong của nhân vật vì
vậy ngoài những sự kiện dồn dập đẩy nhân vật vào những tình huống đặc biệt thì
tâm lý nhân vật cũng được khai thác khá sâu. Với các tiểu thuyết tuy vẫn tổ chức
theo một chiều tuyến tính đi nữa cũng sẽ có những hồi ức, hồi cố, những dòng tâm
lý nhất định dù có thể mức độ nhiều ít khác nhau. So với các tiểu thuyết trên thì
Một vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ có vẻ đơn giản hơn trong kết cấu. Thực
chất ở tiểu thuyết này chúng tôi nhận thấy yếu tố tâm lý nhân vật không phải là
yếu tố chủ đạo được xoáy sâu, mâu thuẫn không phải từ bên trong nhân vật mà
chính là mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn bên ngoài. Do đó các hồi ức có thể có, có thể
được kể lại khi các nhân vật nhớ về quá khứ nhưng nhìn tổng thể tiểu thuyết đi
20


theo kết cấu tuyến tính của trục thời gian, kể theo sự kiện chứ không theo tâm lý
nhân vật. Có thể khẳng định ngay kết cấu này là kiểu kết cấu không mới thậm chí
là đã khá quen thuộc và xưa cũ. Đặc biệt khi chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời, khi kĩ
thuật dòng ý thức đã được các nhà văn thế giới khai thác từ đầu thế kỉ XX và các
nhà văn Việt Nam thì bắt đầu khai thác nhiều hơn với các tiểu thuyết giai đoạn
cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, lối kết cấu này có lẽ không phải là xu hướng của
tiểu thuyết giai đoạn hiện nay. Nếu nhìn sang các nhà văn Việt Nam được cho là
tiêu biểu của giai đoạn cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI như Bảo Ninh với Nỗi buồn
chiến tranh, Tạ Duy Anh với Đi tìm nhân vật, Nguyễn Bình Phương với Trí nhớ
suy tàn, Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Thuận với T mất tích, … Chúng ta nhận thấy phần
lớn các tiểu thuyết của những nhà văn này đều được tổ chức xoay quanh tâm lý, ý
thức của nhân vật với các kĩ thuật viết chịu ảnh hưởng khá nhiều của chủ nghĩa
hậu hiện đại của văn học thế giới. Trong dòng chảy ấy có thể tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng không mang lại những đột phá độc đáo, khai mở những hướng đi, hay
tạo ra một xu thế mới nhưng nó vẫn có những giá trị riêng mà theo chúng tôi đánh
giá là phù hợp trong việc chuyển tải thông điệp tác phẩm. Bởi Một vùng đất hoang

và những cuộc gặp gỡ là tiểu thuyết viết về quá trình xây dựng cuộc sống mới sau
chiến tranh với những mâu thuẫn bên ngoài giữa các nhân vật đại diện cho những
nhóm người, cho những tư tưởng khác nhau. Với nội dung và đề tài đó kết cấu quá
phức tạp chưa hẳn sẽ mang lại hiệu quả. Thêm vào đó chúng tôi cho rằng Một
vùng đất hoang và những cuộc gặp gỡ cùng với Người thợ mộc và tấm ván thiên là
những tiểu thuyết mang đậm tính luận đề, tính tư tưởng. Do đó nhân vật cũng là
nhân vật tư tưởng chứ không phải nhân vật tâm lý vì vậy kết cấu này là hoàn toàn
hợp lý.
Trong một nghiên cứu về cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nhà nghiên
cứu Hoàng Cẩm Giang có gọi Ma Văn Kháng là nhà văn thuộc làn sóng thứ nhất,
nghĩa là những nhà văn của buổi đầu đổi mới cùng với Nguyễn Minh Châu, Lê
Lựu,… Phong cách Ma Văn Kháng đã được định hình từ những tác phẩm đầu tiên,
xuyên suốt trong hành trình sáng tạo của ông. Sự đổi mới tìm tòi có làm khác đi,
có tạo ra những thay đổi nhưng không phải là sự phủ nhận hoàn toàn cái cũ. Vì vậy
21


×